Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Mối tương quan về sự hiện diện động mạch thận cực dưới ở người bình thường và người có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận - niệu quản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.78 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012

MỐI TƯƠNG QUAN VỀ SỰ HIỆN DIỆN ĐỘNG MẠCH THẬN CỰC DƯỚI
Ở NGƯỜI BÌNH THƯỜNG VÀ NGƯỜI CÓ BỆNH LÝ HẸP KHÚC NỐI
BỂ THẬN – NIỆU QUẢN
Võ Văn Hải*; Ngô Đại Hải**, Thi Văn Gừng***, Huỳnh Đức Vĩnh Phúc****, Dương Văn Hải*;
Lê Tấn Sơn*, Vũ Lê Chuyên**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Ngoài việc cung cấp máu cho thận, sự hiện diện của động mạch thận cực dưới
(ĐMCD) có thể vô tình trở thành nguyên nhân gây hẹp khúc nối bể thận – niệu quản (BT – NQ) đã được báo
cáo trong nhiều y văn. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự hiện diện của động mạch này cũng gây ra bệnh lý hẹp
khúc nối. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định mối tương quan về sự hiện diện ĐMCD
này ở người bình thường và người có bệnh lý hẹp khúc nối có phẫu thuật.
Phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca với 224 quả thận bình thường (từ xác ướp formole người Việt Nam
trưởng thành tại bộ môn Giải phẫu học trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được phẫu tích từ năm
2003 đến năm 2011 và từ những người hiến thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2005 – 2009) và 399 quả thận
được phẫu thuật do bệnh lý hẹp khúc nối tại 3 bệnh viện lớn (bệnh viện Nhi đồng I, Chợ Rẫy và Bình Dân) từ
năm 2005 – 2010.
Kết quả: Tỉ lệ hiện diện ĐMCD ở nhóm thận bình thường là 18/224 (8%), ở nhóm bệnh lý hẹp khúc nối có
phẫu thuật là 63/339 (15,8%). Trong đó, tỉ lệ hiện diện ĐMCD trong nhóm bệnh lý hẹp khúc nối tại các bệnh
viện Nhi Đồng I là 10/80 (12,5%), Chợ Rẫy là 16/203 (7,9%) và Bình Dân là 37/116 (32,8%). Trong tất cả các
trường hợp này, ĐMCD đi phía trước khúc nối bể thận – niệu quản. Có sự giống nhau về tỉ lệ hiện diện ĐMCD
ở nhóm bệnh viện Chợ Rẫy và Nhi Đồng I (mẫu hồi cứu) với nhóm thận bình thường. Trong khi đó có sự khác
biệt về tỉ hiện diện ĐMCD giữa nhóm bệnh viện Bình Dân (tiền cứu) với nhóm bình thường (tiền cứu) và có tỉ
số chênh OR = 8,27.
Kết luận: Sự hiện diện của ĐMCD thường gặp nhiều hơn trong nhóm có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận –
niệu quản. Nguy cơ mắc bệnh hẹp khúc nối bể thận – niệu quản ở nhóm hiện diện ĐMCD cao gấp 8 lần so với
nhóm không hiện diện động mạch này.
Từ khóa: động mạch thận, động mạch rốn thận, động mạch thận cực dưới, hẹp khúc nối bể thận – niệu


quản.
ABSTRACT
THE CORRELATION BETWEEN THE LOWER POLE RENAL ARTERY IN NORMAL PEOPLE
AND THAT IN URETEROPELVIC JUNCTION OBSTRUCTION PATIENTS HAVING SURGERY
Vo Van Hai; Ngo Dai Hai, Thi Van Gung, Huynh Duc Vinh Phuc, Duong Van Hai;
Le Tan Son, Vu Le Chuyen * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No.2 – 2012: 92 - 98
Objectives: In addition to supplying blood to the kidneys, the presence of lower pole renal artery can
inadvertently become a cause of ureteropelvic junction obstruction (UPJO), which has often been reported in
* ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh
*** Khoa Chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Chợ Rẫy
**** Trung tâm giám định Y khoa
TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Võ Văn Hải
ĐT: 0903323420 Email:

92


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

different medical research. However, the presence of the lower pole renal artery does not always cause UPJO.
Therefore, we conducted this study to determine the correlation between the lower pole renal artery in normal
people and that in UPJO patieu thuật với sự hiện diện ĐMCD.

Hình 1. Hình phẫu trường của bệnh lý hẹp khúc nối có hiện diện ĐMCD. Hình trên: Phẫu thuật hở ở trẻ nhi
(bệnh viện Nhi Đồng 1). Mũi tên chỉ ĐMCD. Hình dưới: Phẫu thuật nội soi ở người lớn (bệnh viện Bình Dân).
Mũi tên chỉ ĐMCD

sơ có trong danh sách mà chúng tôi có được tại
Tuy nhiên khi so sánh với sự hiện diện của
khoa Ngoại Tổng Hợp, (2) Theo một số các nhà
ĐMCD trên nhóm khảo sát không có bệnh lý
phẫu thuật niệu khoa trong nước cũng như trên
hẹp khúc nối này (Thi hài – Hiến thận), thì tỉ lệ
thế giới, có thể do phải đi từ vùng hông lưng
hiện diện ĐMCD là 16/224 (8%). Theo bảng
phía sau tới để tiếp cận bể thận (bể thận lúc này
thống kê, chúng tôi nhận thấy không có sự khác
đang dãn to và trướng nước) các phẫu thuật
biệt giữa nhóm của bệnh viện Nhi Đồng I, bệnh
viên bỏ sót hoặc không thể tiếp tục khảo sát
viện Chợ Rẫy so với nhóm trên Thi hài–Hiến
thêm về phía trước (tức sau lựng hay bên dưới
thận về sự hiện diện ĐMCD. Tuy nhiên trên
bể thận lúc đang phẫu thuật) nên có thể không
nhóm tiền cứu bệnh viện Bình Dân hay mẫu
thấy được nguyên nhân này. Dù chúng tôi cũng
chung cả 3 bệnh viện thì vẫn có sự khác biệt có ý
đã cẩn thận khảo sát hồ sơ, đã loại trừ những
nghĩa thống kê với nhóm Thi hài – Hiến thận.
trường hợp tái phát phải mổ lại tại Bv Nhi Đồng
32.8
35
I (tức là chúng tôi tham khảo hồ sơ sớm nhất là 6
30
25
16
tháng sau mổ để tránh sự tái phát do bỏ sót

20
12.5
7.9
8
15
ĐMCD tại trẻ em) với thời gian hồi cứu được
10
5
chúng tôi chọn từ năm 2005 -2009. Mốc thời gian
0
Bv NĐ I
Bv CR
Bv BD
Mâu
Thi hàimà chúng tôi chọn này cũng là để lọai trừ các
chung Bv Hiến thận
trường hợp tái phát ở người lớn sau phẫu thuật
Biểu đồ 2. Tỉ lệ hiện diện ĐMCD trong nhóm khảo
từ 6- 12 tháng.
sát
Vì mang tích chất đạo đức y trong y học,
Lý do sự khác biệt giữa các nhóm mẫu trong
ba bệnh viện này có thể là: (1) Cách nhận định
ghi lại chẩn đoán lúc ra viện các phẫu thuật viên
có thể không quan tâm nhiều đến nguyên nhân
gây ra hẹp khúc nối, mặc dù trong hồ sơ Bv Nhi
Đồng I chúng tôi đã cố gắng xem hết tòan bộ hồ

96


trong những ca tiền cứu có sự hiện diện ĐMCD
lúc phẫu thuật, các phẫu thuật viên đã không
thể phẫu tích sâu hơn nữa để xác định nguyên
ủy và các dạng của ĐMCD này. Tuy vậy có một
điểm chung rằng: tất cả các trường hợp hiện
diện ĐMCD trên mẫu Thi hài và ở bệnh nhân


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012

Nghiên cứu Y học

hẹp khúc nối BT – NQ có phẫu thuật thì ĐMCD
đều đi phía trước BT – NQ.

có một khảo sát sâu hơn, rộng hơn nữa để xác
nhận lại con số trên.

Tỉ lệ sự xuất hiện các ĐMCD hiện diện trong
bệnh lý thận ứ nước do hẹp khúc nối BT – NQ
của mẫu chúng tôi so sánh với các tác giả được
tóm tắt trong biểu đồ 3.

KẾT LUẬN

35

33

32.8


33.33

32

30

25
19.27

20.29
20
16
15

12.5

ĐỀ XUẤT

7.9

10

5

0
Bv NĐ I

Bv CR


Qua mẫu khảo sát từ 4 trung tâm, chúng tôi
tạm kết luận là sự hiện diện động mạch thận cực
dưới thường gặp nhiều hơn trong nhóm có bệnh
lý hẹp khúc nối BT – NQ so với nhóm bình
thường. Nguy cơ mắc bệnh hẹp khúc nối BT –
NQ ở nhóm hiện diện động mạch thận cực dưới
cao gấp 8 lần so với ở nhóm không hiện diện
động mạch này.

Bv BD

Mâu chung

Vu Lê
Chuyên

Johnston

Stephens

Clark

Rigas

Biểu đồ 3. So sánh tỉ lệ hiện diện động mạch thận
cực dưới trong các nghiên cứu
Như vậy sự hiện diện của ĐMCD thường
gặp nhiểu hơn trong nhóm bệnh lý hẹp khúc nối
BT – NQ bẩm sinh có phẫu thuật so với nhóm
bình thường cũng như nhiều y văn đã từng

công bố(3,4,10,13,17).
Trong khi đó, nếu xem xét nhóm Thi hài –
Hiến thận (DSA) như một nhóm chứng thì so
với nhóm Hẹp khúc nối BT – NQ (bệnh viện
Bình Dân) thì chúng ta có tỉ số chênh OR = 8,27.
Điều này có nghĩa rằng: nguy cơ mắc bệnh hẹp
khúc nối BT – NQ ở nhóm hiện diện ĐMCD cao
gấp 8 lần so với ở nhóm không hiện diện
ĐMCD. Trong vấn đề so sánh này, chúng tôi
chọn nhóm bệnh viện Bình Dân vì: (1) tính chất
tiền cứu, (2) bệnh nhân là người trưởng thành
giống như trong mẫu Thi hài – Hiến thận và (3)
có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về sự hiện diện
ĐMCD so với nhóm Thi hài – Hiến thận (DSA),
trong khi 2 nhóm bệnh viện khảo sát hồi cứu
còn lại thì không có sự khác biệt này. Tuy nhiên,
vì nhóm Thi hài – Hiến thận chưa phải hoàn
toàn là một nhóm chứng thực sự trong quá trình
lấy mẫu và so sánh cùng lúc với nhóm tại bệnh
viện Bình Dân. Do đó kết quả trên cũng chỉ
mang tính chất tham khảo tương đối. Vì vậy cần

Do nhóm Thi hài – Hiến thận (DSA) vẫn
chưa thực sự được xem là nhóm chứng trong
qua trình khảo sát cùng lúc với nhóm tiền cứu
hẹp khúc nối BT – NQ có phẫu thuật tại bệnh
viện Bình Dân, do đó tỉ số chênh OR chỉ mang
tính chất tham khảo. Vì vậy, chúng ta cần có
một nghiên cứu khác lớn hơn, rộng hơn để xác
thực lại con số về tỉ lệ nguy cơ mắc bệnh trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.
5.

6.

7.

8.

9.

Aaron G, Robbins M.A. (1984). Hydronephrosis due to aberrant
vessels: remarkable familial incidence with report of cases. J. Urol
60: 702.
Allen T. (1970). Congenital ureteral stricture. J Urol, 104: 19
Clark W.R., Malek R.S. (1988). Ueteropelvic Junction
Obstruction. Observation on the Classic Type in Adults, J Urol,
138: 276 – 279.
Johnston J.H. et al (1977). Pelvic hydronephrosis in children: A
review of 219 personal cases. J Urol 117: 97.
Hanna M.K. (1978), “Some observations on congenital
ureteropelvic junction obstruction”. Urology, Vol. XII, No. 2, pp.
152-159
Lê Văn Cường (1991). Các dạng và dị dạng của động mạch ở

người Việt Nam. Luận án phó tiến sĩ y học, TP. Hồ Chí Minh:
123 – 127.
Merklin R.J., Michele N.A. (1958). The variant renal and
suprarenal blood supply with data on the inferior phrenic,
ureteral and gonadal arteries: A statistical analysis based on 185
dissections and review of the literature. J Int Coll Surg, 29: 40 –
75.
Nguyễn Thanh Liêm (2002). Thận ứ nước do tắc phần nối bể
thận – niệu quản. Phẫu Thuật Tiết Niệu Trẻ Em, NXB Y học: 7 –
23.
Ravery V., Cussenot O., Desgrandchamps F., Teillac P., MartinBouyer Y., Lassau J. P., Le Duc A. (1993), “Variations in arterial
blood supply and the risk of hemorrhage during percutaneous
treatment of lesions of the pelviureteral junction obstruction:
report of a case of testicular artery arising from an inferior polar
renal artery”, Surgical and Radiologic Anatomy, Vol. 15 (4), pp.
355-359.

97



×