Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Diễn tiến HCV core anntigen trên bệnh nhân điều trị viêm gan C mạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.05 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

DIỄN TIẾN HCV CORE ANNTIGEN  
TRÊN BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C MẠN 
Vũ Trường Sơn*, Phạm Thị Thu Hà**, Đinh Thế Trung***, Lê Thị Thúy Hằng ***, Nguyễn Hữu Chí ***, 
Phạm Thị Lệ Hoa*** 

TÓM TẮT 
Cơ sở khoa học: HCVcAg là xét nghiệm mới được phát triển gần đây trong chẩn đoán hoạt tính của HCV 
ở người nhiễm HCV mạn. Giá trị dự báo của HCVcAg cho đáp ứng điều trị bắt đầu được chú ý gần đây và có 
nhiều nghiên cứu. 
Mục tiêu: Mô tả động học của HCVcAg trong quá trình điều trị viêm gan C mạn.  
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát tiền cứu thực hiện trên 61 bệnh nhân điều 
trị viêm gan C tại BV Bệnh Nhiệt Đới từ tháng 3/12 đến tháng 7/13. HCVRNA được thực hiện bằng kỹ thuật 
RT‐PCR (ngưỡng phát hiện 15UI/ml). HCV genotype được thực hiện bằng kỹ thuật PCR dựa trên cấu  trúc 
vùng 5’UTR kết hợp với vùng core. HCVcAg thực hiện bằng kỹ thuật ELISA trên hệ thống máy ABBOTT.  
Kết quả: Có 59/61 ca đạt ETVR. Mất HCVcAg sau 3 tháng quan sát được trên 49/51 bệnh nhân và khi kết 
thúc điều trị trên 47/51 ca. 49/49 ca mất HCVcAg sau 3 tháng đạt được ETVR. Tuy nhiên có 2 ca HCVcAg 
dương tính trở lại dù HCVRNA vẫn còn âm tính. HCVcAg và HCVRNA diễn biến tương ứng với nhau trong 
điều trị. Sự tái xuất hiện HCVcAg có thể là yếu tố dự báo sớm tái phát.  
Kết luận: HCVcAg thay đổi song hành với HCVRNA trong điều trị và có thể dùng dự báo sớm đáp ứng 
điều trị hay tái phát.  
Từ khóa: điều trị viêm gan virus C, kháng nguyên lõi. 

ABSTRACT 
HCV CORE ANTIGEN DYNAMIC AMONG CHC PATIENTS DURING TREATMENT 
Vu Truong Son, Pham Thi Thu Ha, Dinh The Trung, Le Thi Thuy Hang, Nguyen Huu Chi,  
Pham Thi Le Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 341 ‐ 346 
Background: HCV core antigen quantification had been developed and applied to diagnose viral activity in 


HCV infected patients. Some recent studies had done to observe the changing of HCVcAg during treatment but 
the dynamic of this antigen had not been well studied.  
Objectives: To describe the dynamic of HCV core antigen in patients with CHC under treatment.  
Methods: This descriptive study were done prospectively from Mar 2012 to July 2013 at Hospital for 
Tropical  Diseases  in  61  CHC  patients  who  were  under  treatment  to  observe  the  serum  level  of  HCVcAg 
during their treatment. HCVcAg were done by ELISA using ABBOTT reagents. HCVRNA quantification 
were  determined  by  RT‐PCR  with  LOD  of  15UI/mL,  HCV  genotype  were  tested  by  PCR  based  on  the 
5’UTR and the core genes. 
Results:  Among this cohort 58/61 patients had achieved ETVR. HCVcAg loss after 3 months achieved on 
49/51 patients and at the end of treatment on 47/51 patients. 49/49 (100%) of patients with HCVcAg loss after 3 
months had ETVR. The HCVcAg loss after 3 months had a good predictive value for ETVR. There were the same 
* Bệnh viện Đa khoa Bưu Điện 
** Phòng khám Viêm gan Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới 
*** Bộ môn Nhiễm ĐH Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Vũ Trường Sơn 
ĐT: 0918017979 
Email:  

Nhiễm

341


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

dynamic  of  HCVcAg  and  HCVRNA  during  treatment  in  patients  with  or  without  ETVR.  Re‐increasing  of 
HCVcAg shoud be considered as the early predictive factor of relapse after treatment. 
Conclusion: HCVcAg and HCVRNA have the same dynamic under treatment. HCVcAg should be used as 

the predictive factor for treatment response. 
Keywords: hepatitis C virus, core antigen, treatment. 

MỞ ĐẦU 

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

HCV core antigen (HCVcAg), kháng nguyên 
protein lõi của HCV là 1 trong 3 protein cấu trúc 
của  HCV,  có  trọng  lượng  phân  tử  21  kD,  gồm 
174 acid amin đầu tiên trong chuỗi polyprotein 
của  HCV(11),  tham  gia  vào  quá  trình  lắp  ráp 
virus,  điều  hòa  dịch  mã  và  tham  gia  các  phản 
ứng  tế  bào  như  truyền  các  tín  hiệu  tế  bào, 
apoptosis, chuyển hóa lipid, sinh ung thư...(1,9,14). 

Đối tượng  
Bệnh  nhân  người  lớn  cư  ngụ  tại  TP  HCM 
hay  các  tỉnh  đến  khám  tại  Phòng  khám  Viêm 
gan BV Bệnh Nhiệt Đới và được điều trị VGCtừ 
tháng 3/2012 đến tháng 7/2013 theo phác đồ IFN 
chuẩn hay PegIFN phối hợp Ribavirin theo định 
hướng của genotype. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh  

dụng  HCVcAg  trong  chẩn  đoán  và  điều  trị. 

Có anti HCV dương tính >6 tháng, có HCV 
RNA dương tính, đủ tiêu chuẩn và được chọn 

điều trị viêm gan, có đủ thời gian theo dõi đáp 
ứng  cuối  điều  trị  và  đồng  ý  tham  gia  nghiên 
cứu. 

Hiện  nay  HCVcAg  được  đề  nghị  ứng  dụng  để 

Phương pháp nghiên cứu 

tầm soát nhiễm HCV giai đoạn sớm khi chưa có 

Nghiên cứu quan sát mô tả hàng loạt ca kết 
hợp quan sát theo chiều dọc. 

Kháng  nguyên  này  hiện  diện  sớm  ngay  sau 
nhiễm  HCV.  Từ  1995,  Tanaka  và  cs(12)  bắt  đầu 
phát  triển  dần  các  kỹ  thuật  và  nghiên  cứu  ứng 

kháng thể antiHCV

hay để chẩn đoán hoạt 

(5,6,8,10) 

tính  của  HCV  trên  người  mang  kháng  thể 
antiHCV(2,4). Gần đây, các tác giả còn nghiên cứu 
ứng dụng HCVcAg trong theo dõi đáp ứng điều 
trị(3,7).  Các  nghiên  cứu  này  bước  đầu  ghi  nhận 
HCVcAg  có  thể  là  marker  phản  ánh  đáp  ứng 
điều trị. Tuy nhiên động học HCVcAg trong quá 
trình điều trị còn chưa được mô tả đủ và đa số 

kết  quả  đã  công  bố  chưa  đủ  thuyết  phục  để 
khẳng  định  vai  trò  của  HCVcAg  trong  dự  báo 
đáp  ứng  hay  tái  phát.  Nghiên  cứu  này  nhằm 
mục  đích  mô  tả  đủ  chi  tiết  diễn  biến  nồng  độ 
HCVcAg trong quá trình điều trị và so sánh diễn 
biến này ở nhóm có và không có đáp ứng điều 
trị viêm gan C mạn. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả diễn biến HCVcAg ở bệnh nhân điều 
trị viêm gan C (VGC) mạn và thăm dò giá trị của 
HCVcAg trong dự đoán đáp ứng điều trị. 

342

Biến  số:  Biến  số  nền  gồm  tuổi,  giới, 
genotype,  nồng  độ  virus  trước  điều  trị.  Biến  số 
độc  lập  được  xác  định  là  nồng  độ  HCVcAg  tại 
các thời điểm gồm: trước điều trị, sau 4, 12tuần 
và khi kết thúc điều trị. Biến số phụ thuộc là các 
đáp ứng virus với điều trị như: đáp ứng nhanh 
RVR, đáp ứng sớm EVR, đáp ứng cuối đợt điều 
trị ETVR. 
Kỹ thuật đo lường biến số: 
‐  HCV  genotype  được  thực  hiện  bằng  kỹ 
thuật  PCR,  dùng  mồi  Taqman  probe  chovùng 
5’UTR kết hợp với mồi cho vùng core của HCV. 
‐ HCVRNA định lượng được thực hiện bằng 
kỹ thuật PCR thời gian thực với bộ test kit Cobas 
AmpliPrep/Cobas  TaqMan  (Roche  Molecular 

Systems)tại  Khoa  xét  nghiệm  Bệnh  viện  Bệnh 
Nhiệt Đới, ngưỡng phát hiện(LOD) 15 IU/ml. 
‐  Định  lượng  HCVcAg  trong  huyết  thanh 
được thực hiện bằng kỹ thuật ELISA với test kit 

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Abbott  Architect  i2000SR  (Abbott  Laboratories, 
USA) tại Khoa Xét nghiệm của Trung tâm Medic 
TP.  HCM  với  ngưỡng  phát  hiện  >3,0  fmol/L. 
Việc  đo  lường  HCVcAg  được  thực  hiện  tập 
trung trên mẫu máu lưu trữ ở âm 700C. 
Xử  lý  số  liệu:  Số  liệu  được  nhập  và  xử  lý 
bằng phần mềm SPSS 11.0. So sánh các số trung 
bình  dùng  phép  kiểm  T  –  testhay  Anova.  So 
sánh 2 tỷ lệ dùng phép kiểm Chi bình phương. 
Mức  ý  nghĩa  được  xác  định  khi  p<0,05.  Trình 
bày diễn biến HBVcAg và HCVRNA trong điều 
trị theo bảng và biểu đồ. Giá trị dự báo đáp ứng 
được tính bằng các giá trị độ nhạy, đặc hiệu, giá 
trị chẩn đoán dương và âm. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Có  61  bệnh  nhân  đủ  tiêu  chuẩn  tham  gia 
nghiên cứu và phân tích diễn biến HCVcAg (35 
nữ,  26  nam),  từ  22  đến  66  tuổi.  Có  52/61  bệnh 
nhân  (85%)  được  điều  trị  peginterferon‐α  (2a 
hoặc 2b) kết hợp ribavirin (PEG‐RBV) và 9 bệnh 

nhân được điều trị interferon‐α cổ điển (2a hoặc 
2b)  kết  hợp  ribavirin  (sIFN‐RBV).  Phân  loại 
genotype 1, 2 và 6 chiếm lần lượt là 50%, 20% và 
30%.  70%  có  HCVRNA  cao  (>400.000UI/ml), 
nồng độ trung bình của HCVRNA là 5,94 ± 1,07 
log10 IU/ml. Giá trị trung vị của HCVcAg là 3,37 
log10 fmol/L và nồng độ trung bình của HCVcAg 
là 3,19 ± 0,85log10fmol/L. 

Các đáp ứng về virus 
Đáp ứng virus bằng dữ liệu HCV RNA 
Sau  4  tuần  có  47  bệnh  nhân  (77%)  có  đáp 
ứng  nhanh  đánh  giá  bằng  mất  HCVRNA  hay 
được  phân  loại  có  RVR.  Sau  12  tuần  đáp  ứng 
mất  HCVRNA  (EVR)  tăng  đến58  bệnh  nhân 
(95,1%) và tỉ lệ này giữ nguyên đến khi kết thúc 
điều trị. Như vậy, chỉ có 3/61 trường hợp (4,9%) 
không  đạt  đáp  ứng  cuối  điều  trị  (ETVR),  trong 
đó có 2  bệnh  nhân  không  giảm  HCVRNA  suốt 
quá  trình  điều  trị,  và  1  bệnh  nhân  HCVRNA 
dương  tính  trở  lại  sau  12  tuần,  sau  khi  đã  mất 
HCVRNA (có RVR) trước đó. Phân bố đáp ứng 
virus  cuối  điều  trị  không  khác  nhau  theo  giới 
tính, genotype hay nồng độ virus trước điều trị. 

Nhiễm

Nghiên cứu Y học

Cả  ba  bệnh  nhân  không  đạt  ETVR  đều  thuộc 

nhóm tuổi lớn (56 đến 66 tuổi) 

Đáp ứng điều trị bằng dữ liệu HCVcAg 

 
Biểu đồ 1: Tỷ lệ đáp ứng mất HCVcAg theo thời 
gian điều trị 

Diễn  biến  tỷ  lệ  đáp  ứng  HCVcAg  theo  thời 
gian (Biểu đồ 1) 
Tính  theo  từng  thời  điểm,  có  81,4%  (48/59 
trường  hợp)  mất  HCVcAg  ngay  sau  4  tuần  (1 
trường  hợp  HCVcAg  âm  tính  nhưng  chưa  mất 
HCVRNA). Tỷ lệ mất HCVcAg tăng nhanh đến 
96,1%  (49/51)  sau  12  tuần,  nhưng  giảm  còn 
92,2% (47/51) khi ngưng điều trị do có 2 trường 
hợp HCVcAg dương tính trở lại. Theo dõi theo 
chiều  dọc  diễn  biến  HCVcAg  trên  nhóm  bệnh 
nhân  mất  HCVcAg  sau  4  tuần  có41/41  trường 
hợp đều duy trì được HCVcAg âm đến 12 tuần, 
nhưng  khi  kết  thúc  điều  trị  có  1  bệnh  nhân  tái 
xuất  hiện  HCVcAg  (CA073)  dù  vẫn  còn  giữ 
được  HCVRNA  âm  (Biểu  đồ  3).  Cùng  theo  dõi 
dọc trên 10 bệnh nhân HCVcAg còn dương tính 
sau 4 tuần, 8/10 bệnh nhân có HCVcAg âm tính 
thêm  sau  12  tuần,  2/10  bệnh  nhân  vẫn  còn 
dương tính đến cuối điều trị.  
Liên quan giữa mất HCVcAg với ETVR 
So  sánh  với  đáp  ứng  mất  HCVRNA  cuối 
điều  trị  (ETVR):  có  47/48  trường  hợp  HCVcAg 

âm  tính  sau  4  tuần  và  49/49  trường  hợp 
HCVcAg âm sau 12 tuần đạt đáp ứng virus cuối 
điều trị (HCVRNA âm), giá trị chẩn đoán dương 
là  97,9%  và  100%  (Bảng  1).  Tuy  nhiên  cả  2  ca 
không mất HCVcAg sau 12 tuần, đều không có 
đáp ứng ETVR, giá trị dự báo âm cho ETVR của 
HCVcAg  vào  tuần  12  là  100%.Trong  nhóm  8 
bệnh nhân HCVcAg âm tính muộn vào tuần 12, 

343


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

cả  8/8  bệnh  nhân  đều  đạt  đáp  ứng  virus  cuối 
điều  trị  (HCVRNA  âm).  Tuy  vậy,  có  1/8  bệnh 
nhân này có xuất hiện HCVcAg trở lại cuối điều 
trị (Biểu đồ 2).  
Bảng 1: Liên quan giữa mất HCVcAg với ETVR 
Mất HCVcAg

Sau 1 tháng (n = 59)

Không
Sau 3 tháng (n = 51)

Không
Kết thúc (n = 51)


Không

%

ETVR
Không

p
%
0,028

47 97,9
9 81,8

1
2

2,1
18,2
<0.001

49
0

100
0

0
2


0
100

47
2

100
50

0
2

0
50

<0,001

Động  học  HCV  RNA  và  HCVcAg  và  theo 
điều trị 
Khi so sánh diễn biến giá trị trung bình của 
HCVRNA  ở  hai  nhóm  có  và  không  có  ETVR 
thấy nhóm đạt ETVR có HCV RNA ban đầu cao 
hơn nhóm không đạt ETVR, nhưng giảm nhanh 
>4 log10 IU/mL, đến bằng ngưỡng 50 IU/mL sau 
4  tuần,  tiếp  tục  giảm  xuống  <15  IU/mL  sau  12 

tuần và giữ dưới ngưỡng này đến cuối điều trị. 
Ở  nhóm  không  đạt  ETVR  diễn  biến  sau  4  tuần 
đầu điều trị cũng có giảm HCVRNA nhưng biên 

độ giảm <1 log10 IU/mL, sau đó HCV RNA cũng 
không giảm thêm và tăng trở lại từ sau 12 tuần.  
Quan sát diễn tiến của HCVcAg ta cũng thấy 
có  hình  ảnh  tương  tự.  Ở  nhóm  có  ETVR,  nồng 
độ  HCVcAg  ban  đầu  cũng  tương  đương  với 
nhóm  không  có  ETVR,  HCVcAg  cũng  giảm 
nhanh >2 log10 fmol/L để đến ngưỡng phát hiện 
là  3  fmol/L  sau  4  tuần,  tiếp  tục  giảm  đến  mức 
không phát hiện sau 12 tuần và giữ nguyên tình 
trạng  âm  tính  này  đến  cuối  điều  trị.  Ở  nhóm 
không  có  đáp  ứng  ETVR,  nồng  độ  HCVcAg 
cũng  giảm  nhưng  biên  độ  giảm  <2  log10 
fmol/Lnên vẫn còn trên ngưỡng phát hiện  sau 4 
tuần  (như  diễn  biến  HCV  RNA),  sau  đó 
HCVcAg  tăng  trở  lại  ngay  từ  tuần  thứ  năm  và 
đạt nồng độ  cao nhất ở tuần 12,  duy  trì  nồng  độ 
này cho tới cuối điều trị. Như  vậy HCVcAg diễn 
biến  tăng  trở  lại  sớm  hơn  HCV  RNA  ở  nhóm 
không có đáp ứng ETVR (Biểu đồ 2). 

 
Biểu đồ 2: Động học HCVcAg theo điều trị ở hai nhóm ETVR 
HCVcAg trong điều trị (CA114 và CA095), kiểu 
Biểu đồ 3 biểu diễn động học của HCVcAg ở 
thứ  hai  là  giảm  nhanh  HCVcAg  sau  4  tuần, 
các  bệnh  nhân  không  mất  HCVcAg.  Theo  biểu 
nhưng  sau  đó  tăng  hay  dương  tính  trở  lại 
đồ  này,  có  2  kiểu  không  có  đáp  ứng  mất 
(CA073 và CA146) 
HBVcAg. Kiểu điển hình là không giảm mật độ 


344

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Biểu đồ 3: Động học HCVcAg trên 4 bệnh nhân còn dương tính cuối điều trị 
điều trị. Trạng thái âm tính của HCVcAg ở sau 
BÀN LUẬN 
12 tuần điều trị cũng được phân tích giá trị dự 
Tỷ  lệ  có  ETVR  trong  nhóm  nghiên  cứu  đạt 
báo cho đáp ứng ETVR. Kết quả cho thấy mất 
khá cao (95,1%). Nhóm nghiên cứu cũng có tỷ lệ 
HCVcAg  ở  12  tuần  có  độ  nhạy,  độ  đặc  hiệu, 
được điều trị PegIFN cao so với các nghiên cứu 
giá  trị  dự  đoán  âm  và  dương  cho  ETVR  đến 
công bố tại Việt Nam trước đây. Tỷ lệ genotype 
100%.  
xác  định  bằng  kỹ  thuật  PCR  với  mồi  để  phát 
Tuy số thất bại hay tái phát rất ít, chúng tôi 
hiện đặc điểm genotype theo tính chất của vùng 
vẫn  phát  hiện  có  2  trường  hợp  HCVcAg 
5’UTR kết hợp với vùng core như nghiên cứu có 
dương tính trở lại (CA073 và CA146, Biểu đồ 3) 
lẽ  vẫn  chưa  phân  loại  đúng  genotype  vì  tỷ  lệ 

mặc dù 2 trường hợp này vẫn được xem là có 
genotype  1  chiếm  đến  50%,  cao  hơn  so  với  các 
đáp ứng virus cuối điều trị (ETVR) theo phân 
khảo  sát  genotype  tại  Việt  Nam  theo  kỹ  thuật 
loại HCVRNA âm tính. Diễn biến tiếp theo về 
giải  trình  tự  gen  chuẩn  dưới  40%.  Nghiên  cứu 
HCVRNA ở 2 bệnh nhân này sẽ ra sao sau khi 
chỉ  ngừng  lại  ở  đáp  ứng  ETVR  do  hạn  chế  về 
HCVcAg dương tính trở lại là điều được quan 
thời gian theo dõi cho nên số trường hợp không 
tâm,  nhưng  chưa  có  câu  trả  lời  trong  nghiên 
đáp ứng hay tái phát được phát hiện ít, chỉ 3/61 
cứu này do hạn chế thời gian theo dõi. Câu hỏi 
ca trong thời gian điều trị, trong khi đa số bệnh 
lớn hơn được đặt ra là HCVcAg có thể dự báo 
nhân  không  đạt  SVR  xảy  ra  tái  hoạt  virus  sau 
trước khả năng tái phát  hay  không?  Điều  này 
khi ngừng điều trị. 
chưa  có  nhiều  tác  giả  quan  sát  và  công  bố, 
Trong  nghiên  cứu  của  Tanaka  và  cộng  sự 
nhưng việc theo dõi nhóm nghiên cứu này hứa 
trên 27 bệnh nhân điều trị viêm gan C(12) đã ghi 
hẹn  sẽ  cho  những  thông  tin  quan  trọng  liên 
nhận  mất  HCVcAgdiễn  ra  nhanh  sau  2  tuần 
quan đến giá trị của HCVcAg trong diễn biến 
điều trị và duy trì âm tínhHCVcAg (<20 pg/mL 
đáp ứng hay tái phát. 
hay <1000 fmol/L) kéo dài suốt quá trình điều trị 
Về động học của HCVcAg trong dự báo đáp 
cho  đến  khi  đạt  SVR  ở  nhóm  có  đáp  ứng  SVR 

ứng  điều  trị:  Trong  một  nghiên  cứu  năm  2000 
mặc  dù  ngưỡng  phát  hiện  HCVcAg  trong 
trên 48 bệnh nhân viêm gan C mạn điều trị (13) 
nghiên cứu trên còn khá cao. Trong nghiên cứu 
Tanaka  cũng  quan  sát  được  động  học  của 
này đa số bệnh nhân đạt ETVR cũng có biên độ 
HCVcAg  rất  giống  với  nghiên  cứu  này.  Theo 
giảm HCVcAg>2 log10  fmol/L,  nhiều  hơn  nhóm 
đó,nhóm  có  đáp  ứng  ETVR  nồng  độ  HCVcAg 
không  có  ETVR,  và  duy  trì  trạng  thái  âm  tính 
giảm  nhanh  và  nhiều  hơn  nhóm  không  có  đáp 
HCVcAg (0 fmol/L) từ sau 12 tuần cho đến cuối 

Nhiễm

345


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

ứng  ETVR  sau  4  tuần  và  duy  trì  trạng  thái  âm 
tính từ sau 12 tuần trở đi cho tới cuối điều trị. Ở 
nhóm  không  có  ETVR,  nồng  độ  HCVcAg  cũng 
có giảm khi bắt đầu điều trị nhưng với biên độ 
thấp hơn, tăng trở lại ngay sau 1 tháng điều trị 
và tiếp tục tăng cho đến cuối điều trị. Như vậy, 
ở nhóm không có ETVR, HCVcAg và HCV RNA 
đều  cùng  giảm  nhẹ  (<2  log10fmol/L)  sau  4  tuần 

điều  trị  và  đều  tăng  trở  lại  mặc  dù  bệnh  nhân 
vẫn  tiếp  tục  được  điều  trị.Nồng  độ 
HCVcAgcũng cho thấy tăng trở lại sớm hơn so 
với HCV RNA. 

4.

5.

6.

7.

KẾT LUẬN 
Mất  HCVcAg  sau  12  tuần  có  giá  trị  dự  báo 
tốt  cho  đáp  ứng  cuối  điều  trị  (ETVR)  với  độ 
nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo âm, dương tối 
đa (100%). Động học HCVcAg cũng giống động 
học  của  HCV  RNA  trong  quá  trình  điều  trị 
nhưng  diễn  biến  tái  phát  của  HCVcAg  xảy  ra 
trước. HCVcAg là xét nghiệm đơn giản hơn nên 
có thể có ý nghĩa dự báo sớm tái phát sau khi có 
thêm  thời  gian  theo  dõi  đến  6  tháng  hay  24 
tháng sau khi ngừng điều trị. 
Chân thành cảm ơn các BS và ĐD Phòng khám Viêm 
gan và Khoa Nhiễm Việt – Anh BV Bệnh Nhiệt Đới, DS 
Nguyễn Thanh Tòng và BS Nguyễn Bảo Toàn Trung tâm 
Y  khoa  Medic  TP  HCM,  BS  Nguyễn  Bảo  Phúc  công  ty 
Abbott  đã  hỗ  trợ  trong  quá  trình  thực  hiện  nghiên  cứu 
này. 


8.

9.

10.

11.

12.

13.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

346

Ait‐Goughoulte M, Hourioux C, Patient R, Trassard S, Brand 
D,  Roingeard  P.  (2006).  Core  protein  cleavage  by  signal 
peptide  peptidase  is  required  for  hepatitis  C  virus‐like 
particle assembly. J Gen Virol 2006;87:855‐860. 
Aoyagi K, Ohue C, Iida K, Kimura T, Tanaka E, Kiyosawa K, 
et  al.  (1999).  Development  of  a  simple  and  highly  sensitive 
enzyme  immunoassay  for  hepatitis  C  virus  core  antigen.  J 
Clin Microbiol 1999;37:1802‐1808. 

Gonzalez V, Padilla E, Diago M, Gimenez MD, Sola R, Matas 
L,  et  al.  (2005).  Clinical  usefulness  of  total  hepatitis  C  virus 
 

14.

core  antigen  quantification  to  monitor  the  response  to 
treatment with peginterferon alpha‐2a plus ribavirin*. J Viral 
Hepat 2005;12:481‐487. 
Hayashi K, Hasuike S, Kusumoto K, Ido A, Uto H, Kenji N, et 
al. (2005). Usefulness of a new immuno‐radiometric assay to 
detect  hepatitis  C  core  antigen  in  a  community‐based 
population. J Viral Hepat 2005;12:106‐110. 
Laperche  S,  Elghouzzi  MH,  Morel  P,  Asso‐Bonnet  M,  Le 
MN,  Girault  A,  et  al.  (2005).  Is  an  assay  for  simultaneous 
detection of hepatitis C virus core antigen and antibody a 
valuable  alternative  to  nucleic  acid  testing?  Transfusion 
2005;45:1965‐1972. 
Lee SR, Peterson J, Niven P, Bahl C, Page E, DeLeys R, et al. 
(2001).  Efficacy  of  a  hepatitis  C  virus  core  antigen  enzyme‐
linked  immunosorbent  assay  for  the  identification  of 
ʹwindow‐phaseʹ blood donations. Vox Sang 2001;80:19‐23. 
Maynard  M,  Pradat  P,  Berthillon  P,  Picchio  G,  Voirin  N, 
Martinot M, et al. (2003). Clinical relevance of total HCV core 
antigen testing for hepatitis C monitoring and for predicting 
patientsʹ response to therapy. J Viral Hepat 2003;10:318‐323. 
Muerhoff AS, Jiang L, Shah DO, Gutierrez RA, Patel J, Garolis 
C,  et  al.  (2002).  Detection  of  HCV  core  antigen  in  human 
serum  and  plasma  with  an  automated  chemiluminescent 
immunoassay. Transfusion 2002;42:349‐356. 

Santolini  E,  Migliaccio  G,  La  MN.  (1994).  Biosynthesis  and 
biochemical properties of the hepatitis C virus core protein. J 
Virol 1994;68:3631‐3641. 
Shah  DO,  Chang  CD,  Jiang  LX,  Cheng  KY,  Muerhoff  AS, 
Gutierrez  RA,  et  al.  (2003).  Combination  HCV  core  antigen 
and antibody assay on a fully automated chemiluminescence 
analyzer. Transfusion 2003;43:1067‐1074. 
Stefan  Mauss,  Thomas  Berg,  Juergen  Rockstroh,  Christoph 
Sarrazin,  Heiner  Wedemeyer.  (2012).  Hepatology  2012:  A 
Clinical Textbook. 2012; Flying Publisher; 2012 p. 1‐546. 
Tanaka  E,  Kiyosawa  K,  Matsumoto  A,  Kashiwakuma  T, 
Hasegawa A, Mori H, et al. (1996). Serum levels of hepatitis C 
virus core protein in patients with chronic hepatitis C treated 
with interferon alfa. Hepatology 1996;23:1330‐1333. 
Tanaka  E,  Ohue  C,  Aoyagi  K,  Yamaguchi  K,  Yagi  S, 
Kiyosawa  K,  et  al.  (2000).  Evaluation  of  a  new  enzyme 
immunoassay for hepatitis C  virus  (HCV)  core  antigen  with 
clinical  sensitivity  approximating  that  of  genomic 
amplification of HCV RNA. Hepatology 2000;32:388‐393. 
Tellinghuisen  TL,  Rice  CM.  (2002).  Interaction  between 
hepatitis  C  virus  proteins  and  host  cell  factors.  Curr  Opin 
Microbiol 2002;5:419‐427. 

Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Chuyên Đề Nội Khoa 




×