Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật đặt đường truyền tĩnh mạch cảnh trong dưới siêu âm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.81 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA KỸ THUẬT  
ĐẶT ĐƯỜNG TRUYỀN TĨNH MẠCH CẢNH TRONG DƯỚI SIÊU ÂM 
Nguyễn Thị Thanh* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật đặt đường truyền tĩnh mạch trung 
tâm dưới hướng dẫn siêu âm tại BV Nhân Dân Gia Định từ tháng 02 năm 2012 đến tháng 06 năm 2013. 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu 
Phương  pháp  nghiên  cứu:  Bệnh nhân có chỉ định đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm sẽ được thực 
hiện thủ thuật dưới hướng dẫn siêu âm tại vị trí tĩnh mạch cảnh trong. Ghi nhận các biến số liên quan đến kỹ 
thuật thực hiện, tỷ lệ thành công và tai biến của thủ thuật.  
Kết quả: Có 58 bệnh nhân tham gia và nghiên cứu trong thời gian từ tháng 02/2012 đến tháng 06/2013. 
Thời gian thực hiện thủ thuật trung bình là 10,76 phút. Số lần đâm kim trung bình là 1,31 lần. Tỷ lệ thành công 
đạt mức cao là 96,6% và không có sự khác biệt về thành công giữa các nhóm người thực hiện có kinh nghiệm 
khác nhau. Hai trường hợp thất bại (3,4%) do máu tụ sau khi chọc trúng động mạch. Tỷ lệ chọc trúng động 
mạch cảnh là 5,2% trong khi tỷ lệ tràn khí màng phổi là 1,7%.  
Kết luận: Đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm dưới hướng dẫn siêu âm là thủ thuật dễ thực hiện, tỷ lệ 
thành công cao và an toàn cho bệnh nhân. 
Từ khóa: đường truyền tĩnh mạch trung tâm, tĩnh mạch cảnh trong, siêu âm  

ABSTRACT 
EVALUATION OF EFFICACY AND SAFETY  
OF ULTRASOUND‐GUIDED INTERNAL JUGULAR VENOUS CATHETERIZATION 
Nguyen Thi Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 231 ‐ 235 
Objective:  To  evaluate  the  efficacy  and  the  safety  of  ultrasound‐guided  internal  jugular  venous 
catheterization from 2012 February to 2013 June in Nhân Dân Gia Định Hospital. 
Type of study:Cross‐sectional study, prospective. 


Methods:  Internal jugular catheterization is performed with ultrasound guidance for patients in surgical 
intensive  care  unit  with  indication  for  central  line  insertion.  We  analyse  the  success  rate,  the  difficulty  of 
technique (time for central line insertion and number of puncture), the frequency and nature of complications 
(pneumothorax, arterial puncture). 
Results:  There are 58 patients with ultrasound‐guided internal jugular insertion in our study. The mean 
duration of the procedure is 10.67 minutes. The average of the needle insertion number is 1.31. The success rate of 
internal jugular catheterization with ultrasound‐guidance is about 96.6%. There are no significative difference 
between  the  success  rates  of  the  different  group  of  level  of  experience  group  of  clinician.  The  failure  of  the 
procedure in two cases are caused by the hematoma with artery puncture. The rate of arterial puncture is 5.2% 
and pneumothorax is 1.7%.   
Conclusion: The ultrasound‐guided internal jugular venous catheterization is an easy, safe procedure with 
high success rate.  


Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định,    
Tác giả liên lạc:    TS.BS.N  lệ  cao  nhất  trong  mẫu 
nghiên cứu là sốc nhiễm trùng. Tỷ lệ phẫu thuật 
cấp cứu chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ có và không 
có  bệnh  lý  nội  khoa  kèm  theo  tương  đương 
nhau. 

Cả 2 trường hợp thất bại đều rơi vào nhóm 
bệnh nhân có số lượng tiểu cầu bình thường và 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 3 
nhóm bệnh nhân (test 2 hai phía). 

Bảng 3. Đặc điểm về đông cầm máu và tiểu cầu của 
mẫu nghiên cứu.  

Bảng 7. Tỷ lệ thành công theo kinh nghiệm bác sĩ 

thực hiện thủ thuật 

Biến số
INR
Tiểu cầu

Kết quả
Không rối loạn đông máu: 46 (79,3%)
Có rối loạn đông máu (INR > 1,5): 12 (20,7%)
Tiểu cầu bình thường: 37 (63,8%)
150000 > Tiểu cầu > 50000: 18 (31%)
Tiểu cầu < 50000: 3 (5,2%)

Bệnh  nhân  có  rối  loạn  đông  máu  và  giảm 
tiểu cầu chiếm tỷ lệ cao trong mẫu nghiên cứu. 
Thời gian thực hiện thủ thuật và số lần đâm 
kim trung bình tương đối thấp.  
Tỷ  lệ  thành  công  của  thủ  thuật  đặt  đường 

* p > 0,5 

Nhóm
≤ 20 lần đặt
> 20 lần đặt

Kết quả*
Thành công
Thất bại
47
2

9
0

* p > 0,5 

Cả 2 trường hợp thất bại đều rơi vào nhóm 
bác sĩ có kinh nghiệm < 20 lần đặt đường truyền 
tĩnh  mạch  trung  tâm,  tuy  nhiên,  không  có  sự 
khác biệt có  ý  nghĩa  thống  kê  khi  so  sánh  tỷ  lệ 
thành công theo kinh nghiệm trước đây của bác 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  

233


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

Nghiên cứu Y học 
sĩ thực hiện thủ thuật (test 2). 
Tỷ  lệ  tai  biến  trong  thủ  thuật  không  cao, 
trong  đó  tỷ  lệ  tràn  khí  màng  phổi  là  1  trường 
hợp (1,7%) và chọc trúng động mạch là 3 trường 
hợp  (5,2%).  Tất  cả  các  trường  hợp  tai  biến  đều 
được xử trí kịp thời, không gây ảnh hưởng cho 
bệnh nhân.  

trong thủ thuật, có nhiều điểm tương đồng với 
chúng  tôi  khi  lần  đầu  tiên  huấn  luyện  và  ứng 
dụng siêu âm trong đặt đường truyền tĩnh mạch 

cảnh trong tại khoa GMHS.  

BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 51,6% bệnh 
nhân có bệnh lý nội khoa kèm theo. Ngoài ra, tỷ 
lệ bệnh nhân lớn hơn 65 tuổi chiếm 41,8%, tương 
đương với kết quả của Theodoro D và cộng sự, 
46,1%(6).  Tỷ  lệ  bệnh  nhân  bị  sốc  nhiễm  trùng 
chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất,  50%.  Đường  truyền  tĩnh 
mạch  trung  tâm  rất  cần  thiết  trong  sốc  nhiễm 
trùng  vì  giúp  ích  trong  đo  áp  lực  tĩnh  mạch 
trung tâm và đo độ bão hòa Oxy máu tĩnh mạch. 
Walkey AJ  và  cộng  sự  kết  luận  việc  đặt  đường 
truyền tĩnh mạch trung tâm sớm cho bệnh nhân 
sốc nhiễm trùng đã tăng 3 lần tính từ năm 1998 
và  làm  giảm  tỷ  lệ  tử  vong  do  áp  dụng  điều  trị 
theo mục tiêu(7). 
Tỷ  lệ  bệnh  nhân  có  rối  loạn  đông  máu 
(20,7%) và giảm tiểu cầu (36,2%) có thể so sánh 
với  công  trình  của  Theodoro  D  (rối  loạn  đông 
máu 15,22%) và Mey U (33,47%)(6,8). Siêu âm cho 
phép  nhìn  rõ  cấu  trúc  mạch  máu  và  việc  sử 
dụng  siêu  âm  để  đặt  đường  truyền  tĩnh  mạch 
trung tâm cho các bệnh nhân rối loạn đông cầm 
máu đang trở nên phổ biến. Các bệnh nhân này 
cũng  không  cần  điều  chỉnh  rối  loạn  đông  cầm 
máu trước thủ thuật(9). Nghiên cứu của chúng tôi 
cũng cho thấy tỷ lệ thành công không khác biệt 
giữa  các  nhóm  bệnh  nhân  có  và  không  có  rối 
loạn đông máu hay giảm tiểu cầu.  

Khi so sánh thời gian thực hiện thủ thuật của 
nghiên  cứu  này  với  các  tác  giả  khác,  chúng  tôi 
nhận  thấy  kết  quả  của  Napolitano  M(10)  và 
Verghese  ST(11)  ngắn  hơn  trong  khi  kết  quả  của 
Dodge KL dài hơn(12).   
Về mặt phương pháp nghiên cứu, Dodge KL 
thực hiện nghiên cứu trên các bác sĩ nội trú lần 
đầu  tiên  được  huấn  luyện  và  sử  dụng  siêu  âm 

234

 

Biểu 1. So sánh thời gian thực hiện thủ thuật với các 
nghiên cứu khác(10,11,12) 
Khi so sánh số lần đâm kim với các nghiên 
cứu khác, kết quả của chúng tôi lớn hơn so với 
Mey  U  (1,2  lần)(8)  và  Tercan  F  (1,01  lần)(13). 
Khác biệt này có thể giải thích do cỡ mẫu của 
chúng tôi không đủ độ lớn như các tác giả trên 
(Mey U: 493 trường hợp, Tercan F: 119 trường 
hợp). Tuy nhiên, khi so sánh với nghiên cứu có 
tính  tương  đồng  về  việc  huấn  luyện  và  ứng 
dụng  siêu  âm  lần  đầu  tiên  của  Dodge  KL(12), 
kết  quả  của  chúng  tôi  thấp  hơn  so  với  tác  giả 
này (2,6 lần). Điều này cho thấy thủ thuật đặt 
đường  truyền  tĩnh  mạch  cảnh  trong  dưới 
hướng dẫn siêu âm có thời gian thực hiện thủ 
thuật ngắn và số lần đâm kim thấp.  


 

Biểu 2. So sánh tỷ lệ thành công của thủ thuật với 
các nghiên cứu khác(3,6,8,10,12,13). 
Tỷ  lệ  thành  công  trong  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  ở  mức  cao  và  có  sự  tương  đồng  với 
một số kết  quả  từ  nghiên  cứu  ngoài  nước,  mặc 
dù  cỡ  mẫu  của  chúng  tôi  không  lớn.  Tác  giả 
Dodge KL kết luận siêu âm cải thiện tỷ lệ thành 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 
công  trong  thủ  thuật(12).  Việc  siêu  âm  cho  phép 
khảo  sát  và  phân  biệt  rõ  cấu  trúc  mạch  máu 
vùng  cổ  là  một  yếu  tố  giúp  nghiên  cứu  ứng 
dụng  siêu  âm  lần  đầu  tiên  trong  đặt  đường 
truyền  tĩnh  mạch  cành  trong  của  chúng  tôi  đạt 
tỷ lệ thành công cao. Tỷ lệ thất bại 3,4% đều do 
khối máu tụ khi chọc trúng động mạch, phù hợp 
với  kết  quả  ghi  nhận  của  Mey  U  (0,2%  trường 
hợp  ngưng  thủ  thuật  vì  khối  máu  tụ)(8)  và 
Cavanna  L  (0,6%  thất  bại  do  chọc  trúng  động 
mạch)(3). Ngoài ra, tỷ lệ thành công trong nghiên 
cứu này không phụ thuộc vào kinh nghiệm (số 
lần đặt) của bác sĩ thực hiện. Điều này chứng tỏ 
đây là thủ thuật dễ thực hiện và có tỷ lệ  thành 
công cao.  
Tỷ lệ biến chứng gặp trong nghiên cứu này 

là  7,2%  (1,7%  tràn  khí  màng  phổi  và  5,2%  chọc 
trúng động mạch cảnh, trong đó gây khối máu 
tụ khiến ngưng thủ thuật là 3,4%). Kết quả này 
cho thấy tỷ lệ biến chứng thấp khi so sánh với số 
liệu của Karakitsos D ghi nhận kết quả thủ thuật 
đặt đường truyền mù với mốc giải phẫu bề mặt 
(2,4%  tràn  khí  màng  phổi,  10,6%  chọc  trúng 
động  mạch  và  8,4%  gây  khối  máu  tụ)(6).  Với 
hướng dẫn siêu âm, tác giả Kuminsky RE phân 
tích nhiều nghiên cứu và cho kết quả tương đối 
phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi (1 – 1,5% 
tràn  khí  màng  phổi  và  6%  chọc  trúng  động 
mạch)(5,14). Việc ứng dụng siêu âm cho phép nhìn 
rõ  các  cấu  trúc  giải  phẫu  tuy  nhiên  do  hướng 
tiếp cận là trục ngang nên chỉ thấy đầu kim trên 
mặt phẳng siêu âm, vì thế phân biệt đầu kim và 
mặt  cắt  mũi  kim  rất  khó  khăn  nên  khó  loại  bỏ 
biến chứng một cách hoàn toàn.  

KẾT LUẬN 
Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  về  thủ 
thuật  đặt  đường  truyền  tĩnh  mạch  cảnh  trong 
dưới  hướng  dẫn  siêu  âm  cho  thấy  đây  là  kỹ 
thuật không khó với thời gian thực hiện ngắn và 
số lần đâm kim thấp, tỷ lệ thành công cao và tỷ 
lệ  biến  chứng  thấp.  Ứng  dụng  siêu  âm  có  thể 
giúp  thủ  thuật  thành  công  và  an  toàn  hơn  cho 
các bệnh nhân có chỉ định đặt đường truyền tĩnh 
mạch cảnh trong.  


Nghiên cứu Y học
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1.

2.

3.

4.

5.
6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

Balls  A,  LoVecchio  F,  Kroeger  A  et  al  (2010).  “Ultrasound 

guidance for central venous catheter placement results from the 
Central Line Emergency Access Registry Database”, Am J Emerg 
Med, 28, pp.561‐567. 
Cavanna  L,  Civardi  G,  Vallisa  D  et  al  (2010).  “Ultrasound‐
guided  central  venous  catheterization  in  cancer  patients 
improves  the  success  rate  of  cannulation  and  reduces 
mechanical complications: A prospective observational study of 
1978  consecutive  catheterizations”,  World  Journal  of  Surgical 
Oncology, 8:91. 
Dodge KL, Lynch CA, Moore CL and Biroscak BJ (2012). “Use 
of  ultrasound  guidance  improves  central  venous  catheter 
insertion  success  rates  among  junior  residents”,  J  Ultrasound 
Med, 31, pp.1519‐1526. 
Kumar  A  and  Chuan  A  (2009).  “Ultrasound  guided  vascular 
access:  efficacy  and  safety”,  Best Pract Res Clin Anaesthesiol, 23, 
pp.299‐311. 
Kuminsky  RE  (2007).  “Complications  of  central  venous 
catheterization”, J Am Coll Surg, 204(4), pp.681‐696. 
Mey U, Glasmacher A, Hahn C et al (2003). “Evaluation of an 
ultrasound‐guided  technique  for  central  venous  access  via  the 
internal  jugular  vein  in  493  patients”,  Support  Care  Cancer,  11, 
pp.148‐155. 
Milling  TJ,  Rose  J,  Briggs  WM  et  al  (2005).  “Randomized, 
controlled clinical trial of point‐of‐care limited ultrasonography 
assistance of central venous cannulation: the Third Sonography 
Outcomes Assessment Program (SOAP‐3) Trial”, Crit Care Med, 
33(8), pp.1764‐1769. 
Napolitano  M,  Malato  A,  Raffaele  F  et  al  (2013). 
“Ultrasonography‐guided  central  venous  catheterization  in 
haematological  patients  with  severe  thrombocytopenia”,  Blood 

Transfus, 23, pp.1‐5. 
Ortega  R,  Song  M,  Hansen  CJ  and  Barash  P  (2010). 
“Ultrasound‐guided  internal  jugular  vein  cannulation”,  NEJM  
362, e57. 
Tercan  F,  Ozkan  U  and  Oguzkurt  L  (2008).  “US‐guided 
placement of central vein catheters in patients with disorders of 
hemostasis”, Eur J Radiology, 65, pp.253‐ 256. 
Theodoro  D,  Bausano  B,  Lewis  L  et  al  (2010).  “A  descriptive 
comparison of ultrasound guided central venous cannulation of 
the  internal  jugular  vein  to  landmark‐based  subclavian  vein 
cannulation”, Academic Emergency Medicine, 17, pp.416‐422. 
Verghese ST, McGill WA, Patel RJ et al (2000). “Comparison of 
three  techniques  for  internal  jugular  vain  cannulation  in 
infants”, Paediatr Anaesth, 10, pp.505‐511. 
Vigna PD, Monfardini L, Bonomo G et al (2009). “Coagulation 
disorders in patients with cancers: Nontunneled central venous 
catheter  placement  with  US  guidance  –  A  single‐institution 
retrospective analysis”, Radiology, 253(1), pp.249‐252. 
Walkey AJ, Wiener RS and Lindenauer PK (2013). “Utilization 
Patterns  and  Outcomes  Associated  With  Central  Venous 
Catheter in Septic Shock: A Population‐Based Study”, Crit Care 
Med, 41(6), pp.1450‐1457. 

 

Ngày nhận bài báo: 15/8/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/8/2013 
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013 

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  


235


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013

 

236

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  



×