Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tranh dan gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.36 KB, 18 trang )

Tranh Hµng Trèng Hån d©n gian ng– êi hµ néi
Vốn tranh dân gian nằm trong một mảng
lớn của hội hoạ Việt nam cổ vẫn như một tia
sáng mảnh mai nhưng không kém phần chói
lọi. Tranh dân gian gắn liền với cuộc sống,
với lễ giáo người Việt. Và hiện tại, cho dù
cuộc sống có thay đổi, xô bồ, nhưng trong
dòng tranh ấy vẫn tồn tại những con người,
những nghệ nhân có đôi bàn tay vàng, đau
đáu với nghề và vẫn luôn hy vọng duy trì
được một vốn cổ của dân tộc.
Nói tới tranh dân gian của người Việt, ta
không thể không nói tới Tranh Hàng Trống.
Là một dòng tranh kết hợp từ kỹ thuật tranh
khắc gỗ với vờn màu thủ công. Tranh Hàng
Trống có từ lâu đời và phát triển cùng nền
văn hoá của thành cổ Hà nội xưa. Chủ yếu là
tranh thờ như những bức Hương chủ , Ngũ
hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông
hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có những bức
tranh chơi như : Tố nữ, Bốn mùa, (mỗi bản
bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những
bức phỏng theo các vở tuồng. Có những bức
dùng để chơi Tết như tranh Gà , Cá chép
trông trăng.... Nhưng tựu chung lại, Tranh
Hàng Trống vẫn có một bản sắc riêng biệt,
mầu sắc chói lọi nhưng không kém phần hài
hoà, phong cách diễn tả sâu sắc. Đường nét
chuyển động về hình hoạ thật tài tình, nhuần
nhị. Kỹ thuật làm tranh Hàng Trống về căn
bản cũng giống kỹ thuật tranh khắc gỗ nói


chung. Ván bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị.
Mực in truyền thống dùng bằng những chất
liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong
chế tác. Màu đen làm từ tro rơm nếp hay tro
lá tre được đốt và ủ kỹ, màu vàng của hoa
hoè, màu chàm của núi rừng, màu son của
sỏi đồi tán nhuyễn.
Những sắc màu bình dị ấy pha với dung
dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ
óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại
không thể nào có được. Để tạo ra được một
loại màu cổ truyền, các nghệ nhân phải ủ,
phải sắc như sắc thuốc bắc, phải cô đặc dần
bằng cách đun nhỏ lửa liên tục mấy ngày trời
rồi lại lắng cặn, chắt nước. Cầu kỳ là vậy,
nên những bức tranh không những có hồn
của dân tộc mà còn in lên cả một sự khổ
công của người vẽ.
Một bức tranh Hàng Trống thường được
bồi bằng ba đến bốn lớp giấy vì đặc thù của
tranh khắc gỗ chỉ cho những đường nét đẹp
trên một nền giấy mỏng (thường là giấy báo
xước hay giấy xuyến chỉ, cao cấp hơn là nền
lụa). Những chất liệu này sẽ cho một hiệu
ứng màu chuẩn mực mang đậm dấu ấn của
thiên nhiên.
Một bức tranh thông thường như bức " Ông
Hoàng Ba ", nếu là một nghệ nhân lành nghề
thì sẽ phải lao động cật lực khoảng mười
đến mười hai giờ đồng hồ liên tục. Ông

Hoàng Ba, theo truyền thuyết là con trai của
Long vương, dân thuyền chài hay mua để
thờ, hy vọng ngài sẽ xua đi những sự không
may trong cuộc đời sông nước. Có những
bức cầu kỳ hơn như " Tứ phủ công đồng "
(khổ rộng 105 cm x 130 cm) sẽ mất của
Tố nữ. Trang Hàng Trống
Ở tranh "Tô nữ" không có thần thánh nào cả, chỉ có cái đẹp dịu
dàng, mới mẻ mà quen thân. Chỉ có niềm vui của múa và hy vọng
của âm nhạc với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Thật là một lời chúc
Tết, đón xuân rất sâu sắc cho tất cả mọi người.
Thơ Hồ Xuân Hương vịnh tố nữ, người đẹp hát xương:
"Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình...
Chị cũng xinh mà em cũng xinh".
Hổ. Tranh hàng Trống
Các tranh "Hổ", "Tố nữ", tranh "Lý ngự vọng nguyệt" - (Cá chép
trông trăng) và tranh "Thất đồng" là những tranh nổi tiếng nhất của
dòng tranh Hàng Trống - Hà Nội. Nét khắc quý phái, tinh vi uyển
chuyển. Nghệ sĩ chỉ khắc một bản nét. In nét trước lên giấy rồi dùng
phẩm tô màu. Màu tô có đậm nhạt làm nổi khối nuột nà cho người
và cảnh vật.
nghệ nhân sáu ngày làm việc liên tục, mỗi
ngày từ mười đến mười hai tiếng. Công phu
như vậy nên Tranh Hàng Trống cũng dần bị
mai một và đến nay chỉ còn duy nhất một
nghệ nhân. Ông là Lê Đình Nghiên (sinh
năm 1950) con trai cụ Lê Đình Liệu (sinh
năm 1912). Gia đình ông đã làm tranh Hàng
Trống từ đời cụ tổ từ khoảng cuối thế kỷ XVI.
Hiện tại ở gia đình ông còn khoảng 30 mặt

ván và ông nói với một chất giọng hơi đau
xót: " Nếu khôi phục được tất cả số vốn cổ
truyền của ông cha để lại thì cũng phải ngót
nghét 100 bản ". Đấy là nỗi đau lòng của
ông, nhưng suy cho cùng, mỗi người chúng
ta mang trong mình một dòng máu đỏ da
vàng của người Việt, nghĩ đến câu nói đó,
liệu có khỏi ngậm ngùi?./.

Tranh §«ng Hå
Đánh ghen
Những tranh sinh hoạt dí dỏm
cũng mang tính giáo dục. Bà vợ
cả xắn váy quai cồng xông tới,
cầm kéo đòi cắt tóc ... Cô vợ lẽ
hớ hênh, thách thức, chanh
chua. Ông chồng bênh bên này
hòa hoãn với bên kia. Thật là
một tấm kịch đời thường. Sự
cường điệu trong mô tả làm cho
tranh mang tính hài hước nhẹ
nhàng. Trên tranh có những lời
thơ :
"...bớt giận làm lành", hàm ý
khuyên răn.

Hứng dừa
Cảnh hái dừa cũng hoạt



Bộ tranh tứ bình "Truyện
Kiều" thật là hoành tráng. Các
diễn biến chính được dàn ra
từ trên xuống dưới, từ phải
sang trái, liên hoàn, đan lồng
... ở đây lại vô cùng
Việt Nam. Tranh dân
gian Việt Nam có
nhiều bộ tranh truyện
Tranh khắc gỗ in trên giấy dó - Quen mà lạ.

Phố cổ Hà nội và phong cách sinh hoạt cũng như sản xuất của người Việt nam
dường như là một nguồn cảm hứng sáng tạo vô cùng, vô tận cho bất cứ một thời
đại nghệ thuật nào. Những chủ đề ấy có sức hút kỳ lạ với người nghệ sỹ. Những
ngôi nhà cổ chứa đựng sự bí ẩn và phong vị của thời gian. Những đường cong
uốm lượn quyến rũ của bờ vòm, bờ mái. Những hẻm phố liêu xiêu, cô tịch. Khi là
sự hiu hắt của mái chùa chiều. Những chiễc xích lô, những gánh hàng rong vẫn
thong thả với công việc thường nhật và những bóng người vẫn khép nép đi ngược
dòng lịch sử. Tất cả những hình ảnh sinh động ấy được thể hiện một cách tài tình
trong một dòng tranh mới mà cũ, đó là tranh khắc gỗ , in đen trên nền giấy dó Bưởi,
Đông hồ.
Vỏ dó mang từ rừng chở về những làng nghề, ngâm trong nước vôi thật lâu , sau
đó được nấu trong những chiếc vạc lớn trong khoảng 24 - 30 giờ đồng hồ. Khi dó
đã " chín ", thợ dó vớt ra ngâm trong nước lạnh và được bàn tay của các bà, các cô
bóc, phân loại từ lớp vỏ sần sùi đến lớp tơ vàng nõn nà phía trong. Sau đó dó được
giã nhuyễn thành một thứ bột mịn màng. Tiếng chày canh khuya một thời ấy đã in
đậm trong tâm khảm của người Hà nội:
...." Mịt mù khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ "...
Bột dó sau khi được giã nhuyễn sẽ trộn với một dung dịch nhựa của một loại cây

rừng; Đó là nước ngâm từ những phoi bào của gỗ mò. Nước mò láng khắp, bột dó
tơi ra và dưới cái lắc tay uyển chuyển của các chị thợ seo, những tờ giấy dó cứ lần
lượt, lần lượt ra đời, nhẫn nại như bản tính hiền hoà của các cô gái Việt, đời này
qua đời khác.
Mặt giấy dó trong trẻo. Xơ dó tạo thành những đường ganh kỳ diệu và trên nền
vàng ngà của chất liệu cầu kỳ ấy, phố cổ Hà nội, những cảnh sinh hoạt của đời
thường hiện ra như mơ, như thực. Và nếu bạn có trong tay một bức tranh khắc gỗ
in trên nền giấy đó, bạn sẽ cảm nhận được nhiều điều. Và chất thơ ấy sẽ mãi mãi ở
lại với bạn như một hồi ức đẹp về Việt nam, về Hà nội, cho dù bạn chưa từng đến
bao giờ./.
Làm đồ sơn mài
Dệt vải
Đây cũng là ước mơ lãng mạn
nhất của anh học trò và của cả
bạn gái anh ta nữa.
Nét vẽ và khắc luôn gọn gàng,
liền mọt mạch, khép kín khuôn
hình và đều đặn dù có khi to
khi nhỏ.
Chợ lớn
Thị nghĩa là chợ. Tới một đô thị
hãy đi xem chợ. Nơi đó tấp nập
các loại người khác nhau.Thật
vui, thật nhốn nháo...
Người bán chuối


Khắc gỗ
Tranh in khắc gỗ: Rồng trên đỉnh Fuji, Hokusai
Khắc gỗ là một kỹ thuật in đồ họa sử dụng một bản in bằng gỗ có hình nổi. Khắc gỗ được dùng để

diễn đạt ý tưởng của các nhà nghệ thuật trước nhất là trong thế kỷ 16 và sau đó là bởi các nhà nghệ
thuật theo trường phái biểu hiện (tiếng Anh: expressionism).
Để tạo nên một bản in gỗ người ta dùng dao cắt các phần không in ra khỏi một mảnh gỗ đã được
bào nhẵn, các phần nổi sau đó được quét màu lên và mang đi in hoặc bằng tay dùng một búa là
(tiếng Đức: Falzbein) chà lên hay bằng máy in.
Cách tạo bản khắc gỗ
Chế tạo bản in
Thông thường gỗ được cắt thành một mảnh dầy từ 2 đến 4 cm có sợi chạy theo chiều của hình (cắt
dài). Mảnh gỗ được bào, mài và làm nhẵn cho đến khi bề mặt hoàn toàn phẳng có thể được phủ
một lớp sơn nền, thường là một lớp phấn trắng mỏng. Theo thông lệ bản vẽ trước của nghệ sĩ được
mang đặt lên lớp phấn này rồi dùng nhiều loại dao cắt theo các đường vẽ trước. Người ta không
cắt thẳng đứng mà cắt hai lần, một lần cắt nghiên từ đường vẽ ra ngoài và một lần nghiên ngược
lại rồi tách dăm bào ra. Trong phương pháp gọi là cắt đường đen này việc tạo hình được tiến hành
bằng đường nét đen trên nền trắng.
Minh họa khắc gỗ ("Woody Allen" của Manfred Behrens) - bên trái là bản đã được in ra, bên phải
là bản khắc gỗ
Sau đấy bản in khắc gỗ đã hoàn chỉnh được phết mực in lên bằng một quả banh tròn tẩm mực to
bằng nắm tay hay thường hơn là bằng một con lăn.
In
Người ta in bằng cách ép lên bản khắc gỗ một tờ giấy có khả năng hút nước tức là không có pha
keo và vì thế mà hút mực và đã được làm ẩm một ít (hoặc là ngược lại ép bản gỗ lên giấy). Có thể
dùng một trái banh lăn trên tờ giấy hay dùng một cây cọ quét lên để tạo lực cần thiết ép giấy sát
vào bản in gỗ. Thông thường nhất là bản in được in bằng máy in sách (máy ép in nổi) có thể ép
đều lực lên bản in gỗ và giấy. Sau mỗi lần in phải quét mực lại cho bản in khắc gỗ.
Đôi khi bản khắc gỗ lại được in qua đá và sau đó in ra như là một bản in thạch bản (tiếng Anh:
lithography).
Các loại gỗ được sử dụng
Hartmann Schedel: Tàn phá Jerusalem (1493)
Gần như tất cả các loại gỗ thông dụng đều có thể sử dụng trong khắc gỗ. Một trong số ít loại gỗ
không thích hợp cho việc khắc gỗ là gỗ của cây thông (Pinus) vì gỗ này có nhiều mấu và nhựa.

Gỗ thường được cắt dọc theo chiều dài của sợi (gỗ dài). Các loại gỗ cứng như gỗ của cây lê, hồ
đào hay anh đào rất được ưa chuộng dùng trong các bản in có nhiều chi tiết vì so với loại gỗ mềm
có thể cắt đều đặn hơn và vì thế có thể tạo những đường nhỏ tốt hơn. Gỗ mềm rất thích hợp cho
những tác phẩm lớn và ngoài ra có ưu điểm là các tấm gỗ lớn không đắt như từ loại gỗ cứng.
Vân hay cấu trúc của gỗ đôi khi cũng được cố ý sử dụng như là một yếu tố đồ họa. Thích hợp nhất
là những tấm gỗ đã qua mưa nắng mà vân của nó nổi lên như hình nổi vì những lớp mềm qua mưa
nắng dễ bị mòn nhiều hơn. Tính chất này có thể được làm nhân tạo bằng cách quét tấm gỗ với một
cây cọ bằng sắt hay dùng axít nitric loãng để xử lý bề mặt.
Nếu như trong phần lớn các kỹ thuật khắc gỗ việc lựa chọn gỗ chủ yếu chỉ là quyết định của nhà
nghệ thuật thì trong chạm gỗ (wood engraving) gỗ phải có sợi nhỏ sát với nhau. Được ưa thích là
gỗ của cây hoàng dương (Buxus sempervivens) được cắt ngang chiều của sợi nhưng lại rất đắt tiền
vì loại cây này tăng trưởng chậm. Vì thế ở các bản khắc gỗ cũ từ cây hoàng dương mặt dưới được
sử dụng lại hay mặt trên được bào đi để có thể khắc bản mới.
Dụng cụ
Trang bị cơ bản của một người khắc gỗ bao gồm:
• Dao khắc dùng để khắc các đường thẳng và song song
• Dao trổ dùng để tạo rãnh hình chử V
• Cây đục bán nguyệt để cắt bỏ đi những phần lớn không phải
in.
• Dao mỏng dùng để khắc các đường viền.
Một số nhà khắc gỗ chỉ sử dụng các cây đục bán nguyệt nhỏ và lớn chứ không dùng đến những
dụng cụ như dao nhỏ. Ngày nay người ta cũng sử dụng các dụng cụ hiện đại như máy phay. HAP
Grieshaber còn dùng đến cả máy cưa trong các bản khắc gỗ rất lớn của ông.
Đặc điểm của khắc gỗ bằng tay
Köln năm 1531 - Khắc gỗ của Anton von Worms
Một bản in khắc gỗ nghệ thuật có những đặc điểm khác với các bản in đồ họa sử dụng các kỹ thuật
khác như khắc đồng hay khắc nạo (tiếng Anh: mezzotint):
• Mặt trái của bản in có dấu ấn nhẹ khi sờ vào có thể cảm
nhận được.
• Nếu in bằng tay, mặt trái của giấy sẽ bóng hơn một ít vì

phải dùng dụng cụ để chà xát.
• Vì chỉ cần lực ép tương đối ít hơn nên các cạnh của bản in
ra không có vết hằn (tiếng Anh: platemark).
• Màu của đường kẻ đều hòa trên khắp tờ giấy vì lực ép đều
nhau.
Các biến thể của kỹ thuật khắc gỗ
Albrecht Dürer: "Bốn người cỡi ngựa của Khải Huyền"
Các kỹ thuật cổ điển của khắc gỗ bao gồm:
• "Cắt đường đen": Các phần nổi (và vì thế được in ra) của
bản khắc gỗ sẽ tạo hình, đây là cách đầu tiên của kỹ thuật
khắc gỗ.
• "Cắt đường trắng": Đường nét được chạm trổ chìm vào gỗ,
khi in bề mặt, thật ra là nền của bức tranh, sẽ được in ra,
hình ảnh được tạo thành bởi các đường nét trắng do không
được in. Phương pháp này được sử dụng nhiều nhất là trong
thế kỷ thứ 16. Albrecht Dürer là một trong những nhà nghệ
thuật đã sử dụng phương pháp này để tăng thêm ấn tượng
cho các tác phẩm của ông.
• Nhiều nhà nghệ thuật (Paul Gauguin, Edvard Munch, Ewald
Maraté, Gerhard Altenbourg) ngược lại đã sử dụng những
bản khắc gỗ lớn, nhấn mạnh đến hình dáng của bề mặt. Kỹ
thuật này chú ý đến các tính chất tự nhiên của gỗ với các
vân và cấu tạo của nó và là tiêu biểu cho kỹ thuật khắc gỗ
trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
• Chạm gỗ (tiếng Anh: xylography): Dùng dao chạm trong
khắc đồng khắc trên gỗ được cắt ngang chiều của sợi để có
thể tạo ra nhiều tông màu hơn.
Sơ lược lịch sử
Nguồn gốc
Kỹ thuật in nổi, về nguyên tắc rất đơn giản, là một trong những phương pháp lâu đời nhất của loài

người để giữ lại những ý tưởng về hình ảnh. Trong các kỹ thuật in nổi khắc gỗ là phương pháp in
lâu đời nhất. Người Babylon và người Ai Cập đã từng in con dấu làm bằng gỗ khắc nổi trên đất sét
mềm, tại Trung Quốc ngay từ thế kỷ 4 người ta đã biết dùng mực quét lên những tảng đá có khắc
chữ và chà giấy lên để in ra.
Trong thời nhà Đường (618 – 907) tranh vẽ và chữ kèm theo (trên cùng một bản in) đã được in ra
bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản khắc gỗ cũng đã được biết đến từ thế kỷ 9, trong khi loại này
ở châu Âu mãi đến thế kỷ 15 mới xuất hiện. Quyển sách lâu đời nhất in bằng bản khắc gỗ được

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×