Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Câu hỏi ôn tập môn Quản lý Nhà nước về an ninh quốc phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.26 KB, 12 trang )

                    Câu hỏi ôn tập môn qlnnn về an ninh quốc phòng 
26. Tại sao phải giáo dục quốc phòng cho các cấp lãnh đạo và thế hệ trẻ? 
Liên hệ thực tiễn? 
Phải giáo dục quốc phòng cho các cấp lãnh đạo và thế hệ trẻ vì:
­ đây là 2 lực lượng nòng cốt giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp bảo vệ và 
phát triển đất nước.
­ nêu cao tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc
­ xây dựng lập trường chính trị vũng vàng
­ giáo dục rèn luyện để sẵn sàng chiến đấu khi có giặc ngoại xâm
­ ngăn chặn các thế lực thù địch, phản động lôi kéo chống phá đảng và nhà 
nước.
Liên hệ thực tiễn
Trong sự  nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng, Nhà nước luôn coi trọng công  
tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân. Để  công tác này hoạt động  
hiệu quả, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở 
pháp lý cho các cơ quan, ban, ngành từ Trung  ương đến địa phương, nhất là hệ 
thống giáo dục quốc dân thực hiện công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho 
các đối tượng là cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và học sinh, sinh viên.
Ngày 19­11­1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 511­TTg về chế độ 
của sĩ quan tại ngũ biệt phái thực hiện nhiệm vụ  huấn luyện quân sự  tại các  
trường đại học. Tiếp đó, ngày 28­12­1961, Hội đồng Chính phủ  ban hành Nghị 
định 219/CP về  Huấn luyện quân sự  cho quân nhân dự  bị  và dân quân tự  vệ.  
Chủ trương của Đảng được thể chế hóa bằng các nghị định của Chính phủ nêu 
trên, kịp thời đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Lực  
lượng sinh viên đông đảo và lực lượng dự  bị, động viên, dân quân tự  vệ  được  
huấn luyện quân sự để có thể vừa trực tiếp chiến đấu tại chỗ, vừa bổ sung cho 
Quân đội và lực lượng thanh niên xung phong, góp phần quan trọng vào sự 
nghiệp bảo vệ  miền Bắc xã hội chủ  nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất 
đất nước.
Khi đất nước hòa bình, thống nhất, Đảng, Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chỉ 
thị, nghị định nhằm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng 


và an ninh cho toàn dân, trong đó có  đối tượng học sinh, sinh viên, nhất là nghị 
định 116/2007/NĐ­CP của Chính phủ  và Chỉ  thị  12 ­ CT/TW, ngày 03­5­2007  
của Bộ  Chính trị  về  Tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo 
dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới.
Được sự  quan tâm lãnh đạo, chỉ  đạo của Đảng, Nhà nước, công tác giáo dục  
quốc phòng và an ninh đã thực sự đi vào hệ thống giáo dục quốc dân, phát triển 


vững chắc cả  bề  rộng và chiều sâu, chất lượng ngày càng cao. Hệ  thống nhà 
trường đã tập trung giáo dục cho học sinh, sinh viên quan điểm, đường lối của 
Đảng về  quốc phòng, an ninh; nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng và rèn 
luyện kỹ năng quân sự  cần thiết tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần 
vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc. Để  công tác giáo dục  
quốc phòng và an ninh tiếp tục được thực hiện nền nếp, hiệu quả và trở  thành 
nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân, ngày 19­6­2013, Quốc hội nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành “Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh”. 
Trong đó, Điều 4 của Luật xác định mục tiêu: “Giáo dục cho công dân kiến thức 
quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước  
và giữ  nước, lòng tự  hào, tự  tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự  giác 
thực hiện nhiệm vụ  quốc phòng và an ninh, bảo vệ  Tổ  quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa”. Theo đó, công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong hệ thống các  
nhà trường được tổ chức chặt chẽ, duy trì nghiêm túc, đạt hiệu quả thiết thực.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt ưu điểm là cơ bản, công tác giáo dục quốc phòng và an 
ninh trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay cũng còn một số hạn chế về 
công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên và nội 
dung, chương trình, v.v.  
27. Nêu các hình thức quản lí nhà nước về an ninh quốc gia,trật tự an toàn 
xã hội.Liên hệ thực tế ở nước ta hiện nay.
Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp 
hành và điều hành của các cơ quan nhà nước hoặc các tô chức xã hội được nhà 

nước ủy quyền được tiến hành trên cơ sở pháp luật để thi hành pháp luật nhằm 
thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng quản lý nhà nước về an ninh 
quốc gia trật tự an toàn xã hội.
­ các hình thức quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã 
hội ( Gt 90­ 91)
Liên hệ thực tế ở việt nam
­ Những năm gần đây, tình hình thế giới, trong nước diễn biến hết sức phức 
tạp. Các nhân tố gây mất ổn định chính trị ngày càng gia tăng. Song, Đảng ta đã 
kịp thời có những chủ trương, đối sách quan trọng chỉ đạo lực lượng công an 
nhân dân đấu tranh có hiệu quả với số đối tượng xâm nhập từ bên ngoài vào nội 
địa; ngăn chặn hoạt động chống đối của các đối tượng cực đoan trong tôn giáo; 
vô hiệu hoá hoạt động của số cơ hội chính trị, không để liên kết, hình thành tổ 
chức chính trị đối lập trong nước. Tập trung đấu tranh ngăn chặn, dập tắt vụ 
bạo loạn chính trị xảy ra ở một số tỉnh Tây Nguyên tháng 2­2001 và tháng 4­
2004; phá rã âm mưu, ý đồ công khai hoá tổ chức Nhà nước "Đềga độc lập" và 


các vụ gây rối trật tự của các đối tượng ở Tây Nam Bộ... Tập trung giải quyết 
ổn định nhiều vụ tranh chấp khiếu kiện về đất đai, nhất là các vụ có yếu tố tôn 
giáo như ở 178 Thái Hà, 42 Nhà Chung, Hà Nội, không để kẻ địch kích động 
quần chúng biểu tình, gây rối
­ Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực tuyên truyền, báo chí xuất bản, đào 
tạo, hoạt động văn hoá nghệ thuật, phát hiện và xử lý kịp thời những cá nhân lợi 
dụng thông tin, báo chí, xuất bản để công khai quan điểm đối lập, đưa tin sai 
lệch về tình hình, kích động dư luận, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
­ Song song với lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh quốc gia, Đảng ta rất chú 
trọng lãnh đạo công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn đất nước 
đổi mới. Nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng chỉ đạo công tác này 
được ban hành và tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc như Nghị quyết của 
Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội 

trong tình hình mới; Chỉ thị số 54­CT/TW ngày 30­11­2005 của Ban Bí thư về 
tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS; Chỉ thị số 21­CT/TW 
ngày 26­3­2008 của Bộ Chính trị khoá X về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ 
đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới... Với những 
chỉ đạo sát sao đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có nhiều chuyển 
biến tích cực, đã phát huy được sức mạnh của toàn dân tham gia Chương trình 
quốc gia phòng, chống tội phạm. Với vai trò nòng cốt, lực lượng công an đã 
điều tra, triệt phá được nhiều băng, ổ, nhóm tội phạm nguy hiểm, tội phạm có 
tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen; phát hiện, ngăn chặn và xử lý 
nhiều vụ phạm tội kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, góp phần giữ vững kỷ 
cương phép nước, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và 
Nhà nước.
       Tuy nhiên, bên cạnh thành tích đạt được, nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc 
gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội còn có những hạn chế. Chúng ta chưa dự báo 
được đầy đủ, chính xác những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong quá trình mở cửa, 
hội nhập kinh tế quốc tế. Các phương án đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật 
tự xã hội và cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp trong xử lý các tình huống 
phức tạp chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Công tác quản lý nhà nước về an 
ninh, trật tự, an ninh kinh tế, văn hoá tư tưởng, báo chí, Internet có nơi, có lúc 
còn buông lỏng. Công tác nắm tình hình từ xa, từ cơ sở cần được tăng cường 
hơn mới chủ động đập tan những mưu đồ và hoạt động chống phá của các thế 
lực thù địch.
28. Hãy phân tích và Liên hệ việc thực hiện Nội dung "Quản lý tiềm lực 


quốc phòng quốc gia" trong Quản lí Nhà nước về Quốc phòng ở nước ta 
hiện nay?
Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy 
động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
Xây dựng tiềm lực chính trị  ­ tinh thần là thành tố  cơ  bản của tiềm lực quốc 

phòng, chứa đựng trong tố chất con người, trong truyền thống lịch sử ­ văn hoá 
dân tộc và trong hệ  thống chính trị. Đây là khả  năng tiềm tàng về  chính trị  tinh  
thần có thể  huy động nhằm tạo ra sức mạnh để  thực hiện nhiệm vụ  quốc 
phòng. Tiềm lực này biểu hiện  ở  nhận thức, ý chí, niềm tin, tâm lý, tình cảm 
của nhân dân và lực lượng vũ trang trước nhiệm vụ quốc phòng của đất nước.
Tiềm lực chính trị ­ tinh thần của quốc phòng Việt Nam hiện nay là kết quả của 
một quá trình xây dựng lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, 
của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, là sự  tiếp nối truyền thống dựng nước, giữ  nước  
của cả dân tộc trong hàng nghìn năm lịch sử.
Xây dựng tiềm lực chính trị ­ tinh thần đòi hỏi phải tiến hành giáo dục nâng cao 
ý thức quốc phòng cho toàn dân, nhất là cho thế  hệ  trẻ, học sinh, sinh viên và  
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ­ an ninh cho cán bộ  chủ  chốt các cấp, các  
ngành. Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo 
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh 
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề 
dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà 
nước, kích động chia rẽ  nhân dân, chia rẽ  các dân tộc, gây rối, xâm phạm an 
ninh quốc gia. Nhà nước có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế ­ xã hội ở vùng 
sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo, xoá đói giảm nghèo để từng bước giảm 
bớt, tiến tới xoá bỏ  chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.  
Tiềm lực chính trị ­ tinh thần cũng được xây dựng thông qua thực hiện dân chủ 
rộng rãi theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, triệt để 
đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xây dựng tiềm lực kinh tế là khả năng tiềm tàng về kinh tế (bao gồm cả kinh tế 
quân sự) có thể  huy động để  phát triển kinh tế  ­ xã hội, củng cố  quốc phòng  
hoặc tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở vật chất của các tiềm lực  
khác, thể hiện ở khối lượng, năng xuất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất  
xã hội,  ở  nhịp độ  tăng trưởng của nền kinh tế, nguồn dự  trữ  tài nguyên, chất  
lượng, trình độ lực lượng lao động… Trong lĩnh vực quốc phòng, tiềm lực kinh  
tế được biểu hiện ở các mặt chủ yếu như khối lượng nhân lực, vật lực, tài lực 

của nền kinh tế  có thể  động viên cho việc xử  lý các tình huống trong cả  thời  


bình và thời chiến.
Xây dựng tiềm lực kinh tế  của nền quốc phòng toàn dân của đất nước được  
thực hiện thông qua kết hợp chặt chẽ  giữa phát triển kinh tế  ­ xã hội với tăng 
cường quốc phòng ­ an ninh bảo vệ  Tổ  quốc; phát triển kinh tế  ­ xã hội gắn  
liền với xây dựng các khu vực phòng thủ  tỉnh (thành phố) theo quy hoạch, kế 
hoạch đã xác định.
Trong những năm qua, kinh tế  Việt Nam liên tục đạt nhịp độ  tăng trưởng cao.  
Tổng sản phẩm trong nước tăng đáng kể, cơ  cấu kinh tế  tiếp tục chuyển dịch  
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết cấu hạ tầng phát triển.
Nhờ  sự  phát triển kinh tế  những năm qua, việc xây dựng tiềm lực kinh tế  cho  
nền quốc phòng toàn dân đã đạt những kết quả  quan trọng. Việt Nam đã có 
lượng dự  trữ  hậu cần đáp  ứng yêu cầu đối phó với mọi tình huống khẩn cấp; 
hệ  thống cơ  sở  hạ  tầng phát triển ngày càng hoàn chỉnh và hiện đại tạo điều 
kiện thuận lợi cho các hoạt động quốc phòng. Mặc dù nền kinh tế còn có nhiều  
khó khăn trong quá trình phát triển, lại chịu tác động của suy thoái kinh tế  toàn 
cầu nhưng Nhà nước Việt Nam đã dành một phần cần thiết ngân sách quốc gia  
cho các nhu cầu quốc phòng nói chung và đảm bảo trang bị, vũ khí cho lực  
lượng vũ trang nói riêng.
Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ là khả năng tiềm tàng về khoa học và 
công nghệ (cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội ­ nhân văn, khoa học kỹ thuật  
và công nghệ...) có thể  huy động nhằm giải quyết những nhiệm vụ trước mắt  
và lâu dài của xã hội và xử lý các tình huống quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Tiềm  
lực khoa học và công nghệ là thành tố có vai trò ngày càng quan trọng trong tiềm  
lực quốc phòng. Tiềm lực đó được biểu hiện ở trình độ  và khả  năng phát triển 
khoa học; số lượng và chất lượng các nhà khoa học; cơ sở vật chất phục vụ cho 
công tác nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng khoa học và công nghệ vào lĩnh vực 
quốc phòng. Tiềm lực khoa học và công nghệ  tác động trực tiếp đến sự  phát 

triển của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cơ cấu tổ 
chức lực lượng vũ trang, công tác chỉ huy và quản lý bộ đội…
Trong những năm qua, khoa học ­ kỹ  thuật và nghệ  thuật quân sự  Việt Nam  
được quan tâm phát triển, tập trung nghiên cứu các giải pháp kỹ  thuật và chiến  
thuật để  đối phó có hiệu quả  với chiến tranh sử  dụng vũ khí công nghệ  cao. 
Việt Nam chú trọng kế  thừa và phát huy nghệ  thuật chiến tranh nhân dân cả 
trong nghệ  thuật tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật... đáp ứng các 
điều kiện chiến tranh hiện đại, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của con 
người và vũ khí trong chống chiến tranh xâm lược. Khoa học ­ kỹ thuật quân sự 


Việt Nam phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu trước mắt về trang bị vũ khí của  
lực lượng vũ trang nhân dân đồng thời từng bước nghiên cứu phát triển các giải 
pháp công nghệ, các loại khí tài mới đáp  ứng yêu cầu chiến tranh trong tương  
lai. Nhà nước Việt Nam đang hoàn thiện cơ  chế  thu hút, sử  dụng nhân tài, phát 
huy mọi tiềm lực khoa học cả  trong và ngoài nước cho xây dựng nền quốc 
phòng toàn dân.
Xây dựng tiềm lực quân sự là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động 
để  tạo thành sức mạnh phục vụ  nhiệm vụ  quân sự, quốc phòng trong cả  thời  
bình và thời chiến. Tiềm lực quân sự  là nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, 
được xây dựng trên nền tảng của tiềm lực chính trị ­ tinh thần, tiềm lực kinh tế 
và tiềm lực khoa học và công nghệ. Tiềm lực quân sự không chỉ thể hiện ở khả 
năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển sức mạnh chiến đấu, trình độ 
sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang mà còn biểu hiện ở nguồn dự trữ 
về sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ quân sự.
Nhà nước Việt Nam xây dựng tiềm lực quân sự theo kế hoạch chiến lược thống  
nhất, phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Năng lực chiến đấu  
và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang thể hiện ở tổ chức, biên  
chế, trang bị, cơ  sở  bảo đảm hậu cần, nghệ  thuật quân sự  và khoa học ­ kỹ 
thuật thường xuyên được quan tâm duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát 

triển, đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Tiềm lực quân sự bao gồm cả hai yếu tố cơ bản là con người và vũ khí, trang bị 
trong đó con người là yếu tố  quyết định. Việt Nam có tiềm lực quân sự  mạnh 
một phần nhờ  nguồn nhân lực trẻ  dồi dào. Nhà nước Việt Nam quan tâm xây  
dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Tiềm lực quân sự còn thể hiện ở khả năng động viên công nghiệp, nông nghiệp, 
khoa học ­ kỹ thuật, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ công cộng khác để 
đáp  ứng yêu cầu quốc phòng. Xây dựng tiềm lực quân sự  được gắn chặt với  
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các thành tựu trên các lĩnh 
vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá tư  tưởng... là cơ  sở  để  xây dựng lực 
lượng vũ trang, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân  
văn quân sự. Nhà nước Việt Nam chủ trương gắn việc xây dựng tiềm lực quân 
sự  với việc xây dựng tiềm lực chính trị  ­ tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực  
khoa học và công nghệ, coi đó là yêu cầu tất yếu trong xây dựng tiềm lực của  
nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm khả  năng huy động tạo thành sức mạnh để 
bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


29.  Anh (chị) hãy phân tích nội dung qlnn về bảo vệ an ninh thông tin ? 
Cùng với quá trình hoàn thiện các cơ sở pháp lý trong lĩnh vực an ninh, an toàn 
thông tin, việc triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn 
thông tin là trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách trong lĩnh vực này. 
Phần cốt lõi của công tác quản lý nhà nước về an toàn thông tin là xây dựng và 
hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về an toàn thông tin. Đây là một hệ 
thống chỉnh thể hữu cơ trên các phương diện pháp chế, thể chế quản lý nhà 
nước, phương diện kỹ thuật và nhân lực về An toàn thông tin, là một bộ phận 
cơ bản hợp thành an ninh quốc gia, là cơ sở đảm bảo triển khai thành công ứng 
dụng công nghệ thông tin cho các hoạt động kinh tế ­ xã hội.
Để thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thông tin, trước tiên cần phải xác 
định được chiến lược bảo đảm an toàn thông tin quốc gia và những nội dung 

quản lý nhà nước cần triển khai.
Giúp cho các tổ chức, cá nhân ý thức được mức độ rủi ro trong kết nối 
mạng, kết nối Internet và an toàn máy tính để chủ động áp dụng các biện 
pháp đảm bảo an toàn thông tin trong các hoạt động của tổ chức và cá 
nhân. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể sử dụng được các hệ 
thống công nghệ thông tin ­ viễn thông an toàn, linh hoạt và chủ động. 
Xây dựng chính sách Nhà nước để hỗ trợ phát triển hạ tầng công nghệ 
thông tin ­ truyền thông, tăng cường khả năng bảo đảm an toàn thông tin 
và có đủ khả năng phòng chống với những nguy cơ về an ninh, an toàn 
trong môi trường mạng.
tăng cường phát hiện, phân tích và ứng phó với những nguy cơ trong môi 
trường mạng, quan tâm có trọng điểm tới các cơ sở hạ tầng quan trọng và 
các hệ thống thông tin trọng yếu của quốc gia;
 Cung cấp dịch vụ đào tạo, phổ cập kiến thức về an toàn thông tin, cung 
cấp các công cụ để đảm bảo an toàn mạng;
 Tăng cường hợp tác thương mại chuyển giao công nghệ, thúc đẩy phát 
triển thị trường sản phẩm và dịch vụ an toàn thông tin một cách linh hoạt; 
Thúc đẩy khả năng bảo đảm an toàn, tính linh hoạt và tính tin cậy của 
thông tin trong không gian mạng toàn cầu, nhằm phục vụ cho lợi ích quốc 
gia;
 Duy trì hệ thống pháp luật và tính hiệu quả trong việc chấp hành pháp 
luật, từ đó xác định các yếu tố cấu thành và căn cứ khởi tố tội phạm 
mạng; 
Bồi dưỡng nhân lực có trình độ cao và kỹ năng về an toàn mạng, có khả 


năng nghiên cứu và đề xuất những phương án giải quyết vấn đề an toàn 
mạng một cách chủ động, sáng tạo; 
Xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, thể chế quản lý và 
các biện pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin.

Công tác quản lý nhà nước về an toàn thông tin cần tập trung vào một số trọng 
tâm sau:
­ Kiện toàn hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn 
liên quan tới an toàn thông tin;
­ Xây dựng thể chế phù hợp, có cơ chế phối hợp hiệp đồng giữa các Bộ, ngành 
và địa phương; 
­ Có sách lược cụ thể từng giai đoạn, đầu tư trọng điểm vào cơ sở hạ tầng bảo 
vệ thông tin quan trọng quốc gia; Quán triệt nguyên tắc phòng thủ trọng điểm 
trong công tác an toàn thông tin; tiêu chuẩn hóa để thực hiện tốt công tác bảo 
đảm an toàn thông tin của các Bộ, ngành và hạ tầng cơ sở quan trọng;
­ Tăng cường giáo dục ý thức bảo đảm an toàn thông tin của toàn xã hội: Trong 
kế hoạch bảo đảm an toàn thông tin của quốc gia, cần có những nội dung đề 
cao năng lực tự bảo vệ an toàn thông tin của doanh nghiệp vừa và nhỏ, người 
dùng cá nhân; Thông qua bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ để nâng cao ý thức 
về an toàn thông tin như cập nhật phương tiện, công cụ chống xâm nhập trái 
phép, cảnh báo người dùng về các sản phẩm không tin cậy;
­ Bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao về an toàn thông tin, xây dựng hệ thống 
chứng nhận chuyên gia chuyên ngành an toàn thông tin:  Bổ sung thêm giáo trình 
về an toàn thông tin trong chương trình đào tạo đại học và một số chương trình 
chuyên ngành; Xây dựng hệ thống chức danh chuyên ngành an toàn thông tin 
trong các cơ quan, tổ chức.
­ Duy trì thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá, hoàn thiện hệ 
thống kiểm định sản phẩm an toàn thông tin. Có quy định kiểm soát phù hợp các 
sản phẩm, dịch vụ bảo đảm an toàn thông tin của tổ chức, doanh nghiệp và các 
cá nhân.
Cùng với việc xác định và triển khai các nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh 
vực an toàn thông tin, cần phải xây dựng chiến lược quốc gia về an ninh, an 
toàn thông tin. Qua đó, xác định hệ thống các chính sách, giải pháp, biện pháp 
mang tính toàn diện, lâu dài, tăng cường khả năng phòng, chống các nguy cơ tấn 
công, ngăn chặn, khắc phục kịp thời các sự cố an toàn thông tin trên không gian 



mạng.
30. Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của MQH biện chứng giữa hai 
nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế xã hội với nhiệm vụ ANQP? Quan 
điểm của Đảng và NN trong việc xử lý MQH này nhưu thế nào ? 
 
Phát triển kinh tế ­ xã hội đi đôi với tăng cường củng cố quốc phòng ­ an ninh là 
hai nhiệm vụ chính trị quan trọng xuyên suốt, luôn đồng hành với nhau trong cac 
́
giai đoạn của lịch sử. Sự gắn kết giữa chúng là phù hợp với mối quan hệ biện 
chứng duy vật lịch sử, là quy luật khách quan của sự phát triển bền vững của 
mọi quốc gia, dân tộc; dựa trên cơ sở chính là sự tổng hòa, toàn diện trên hai 
phương hướng: đúc kết lý luận và tổng kết từ thực tiễn công tác xây dựng và 
bảo vệ Tổ quốc qua các thời kì của lịch sử dân tộc.
Về cơ sở lý luận 
Kinh tế quyết định việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt 
động quốc phòng ­ an ninh. Ph. Ăng­ghen đã khẳng định: thất bại hay thắng lợi 
của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế. Vì vậy, để xây dựng quốc 
phòng ­ an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế. Mặt khác, kinh tế 
còn quyết định việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc 
phòng, an ninh. Qua đó, quyết định tổ chức biên chế của lực lượng quân đội 
nhân dân và công an nhân dân; quyết định đường lối chiến lược quốc phòng ­ an 
ninh. Tuy nhiên, quốc phòng ­ an ninh, không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn 
tác động ngược trở lại với kinh tế ­ xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.
Thứ nhất, quốc phòng ­ an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định 
lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ­ xã hội. Hoạt động quốc 
phòng ­ an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính 
của xã hội. Những tiêu dùng này, theo V.I. Lê­nin, là những tiêu dùng “mất đi”, 
không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng xã hội 

va s
̀ ự phát triển kinh tế.
Thứ hai, hoạt động quốc phòng ­ an ninh có thể dẫn đến hủy hoại nền kinh tế, 
môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi co chi
́ ến 
tranh... Để hạn chế những tác động tiêu cực này đoi hoi k
̀ ̉ ết hợp tốt tăng cường 
củng cố quốc phòng ­ an ninh với phát triển kinh tế ­ xã hội vào một chỉnh thể 
thống nhất. Kết hợp chặt chẽ bảo vệ an ninh kinh tế với phát triển kinh tế, đẩy 


mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm cho nền kinh tế phát 
triển với tốc độ cao, ổn định, bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa là 
điều kiện tiên quyết để tăng cường tiềm lực an ninh, quốc phòng, giữ vững ổn 
định chính trị ­ xã hội, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã 
hội.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: kinh 
tế ­ xã hội phát triển, tăng trưởng kinh tế không chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, 
nguồn lực kinh tế cho tăng cường tiềm lực quốc phòng ­ an ninh mà còn tạo cơ 
sở chính trị ­ xã hội thuận lợi cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân 
đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã 
hội trong tình hình mới. Đại hội XI cua Đang đã phát tri
̉
̉
ển nhận thức đó ở chỗ, 
coi sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước là nền tảng của quốc phòng 
­ an ninh. Chúng ta hiểu rằng, sự ổn định và phát triển bền vững đòi hỏi tăng 
trưởng kinh tế phải trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, kết hợp hài hòa với phát 
triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội. Vì thế, xét cho cùng sự ổn định và 
phát triển bền vững đời sống kinh tế ­ xã hội đã tạo điều kiện để giải quyết tốt 

vấn đề lợi ích của nhân dân, bảo đảm sự thống nhất lợi ích giữa cá nhân với 
cộng đồng và toàn xã hội, tăng cường sự cố kết nhà ­ làng ­ nước trong thời đại 
mới, do đó nó cho phép huy động được sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp 
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
Về cơ sở thực tiễn 
Lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới đã chứng minh, dù là nước lớn 
hay nước nhỏ, kinh tế phát triển hay chưa phát triển, dù chế độ chính trị như thế 
nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với 
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, các nước khác nhau, với 
chế độ chính trị ­ xã hội khác nhau, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì sự kết 
hợp cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và kết quả.
Ở Việt Nam, sự kết hợp đó đã có lịch sử lâu dài. Dựng nước đi đôi với giữ 
nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta. Trước kia, để xây dựng và 
phát triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện sự 
kết hợp phát triển kinh tế ­ xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng ­ an ninh, 
như các kế sách giữ nước với tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu, 
nước mạnh”, “quốc phú binh cường”; thực hiện kế sách “ngụ binh ư nông”, 
“động vi binh, tĩnh vi dân” để vừa phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh 
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.


Từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng nươc ta, do n
́
ắm vững quy luật và biết 
thừa kế kinh nghiệm của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện sự kết 
hợp phát triển kinh tế ­ xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, 
phòng, chống tội phạm một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo, 
phù hợp với từng thời ky c
̀ ủa cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vao giai đoan 1945 ­ 

̀
̣
1954, Đảng ta đề ra chủ trương “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “vừa chiến 
đấu, vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”. Chúng ta đồng thời thực hiện 
phát triển kinh tế địa phương và tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp, “xây 
dựng làng kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất, “diệt 
ác, phá tề”, bảo vệ an ninh, trật tự các vùng giải phóng...
Trong cuộc kháng chiến chống My c
̃ ứu nước (1954 ­ 1975), việc kết hợp phát 
triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, phòng, chống tội 
phạm đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức 
thích hợp. Ở miền Bắc, để bảo vệ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương 
lớn cho miền Nam đánh giặc, Đại hội III của Đảng đã đề ra chủ trương: trong 
xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong 
củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng 
kinh tế. Ở miền Nam, Đảng ta chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa 
đánh địch với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam 
vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước 
ta đi đến thắng lợi.
Ở thời ky này, chúng ta ph
̀
ải tập trung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ 
miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, nên việc kết hợp phát 
triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, phòng, chống tội 
phạm được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực, 
đã tạo được sức mạnh tổng hợp xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ 
an ninh, trật tự, đánh thắng giặc My xâm l
̃
ược và để lại nhiều bài học quý giá 
cho thời kỳ sau.

Trong thời ky đ
̀ ất nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 
1975 đến nay), Đảng ta khẳng định kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường 
củng cố quốc phòng, an ninh, phòng, chống tội phạm là một nội dung quan 
trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa 


và được triển khai trên quy mô rộng lớn hơn, toàn diện hơn.
Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định thực hiện “kết hợp chặt chẽ kinh tế với 
quốc phòng ­ an ninh, quốc phòng ­ an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, 
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế ­ xã hội và trên từng địa bàn”. 
Đây là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, phòng, 
chống tội phạm hiện nay. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương đã quán triệt và 
xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ­ xã hội kết hợp với quốc 
phòng ­ an ninh, phòng, chống tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ của mình; 
đồng thời, cơ quan quân sự, công an các cấp tham gia thẩm định các kế hoạch, 
quy hoạch và dự án kinh tế ­ xã hội liên quan đến quốc phòng, an ninh, phòng, 
chống tội phạm, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lập kế hoạch động viên 
nhân lực, phương tiện phục vụ nhiệm vụ, xây dựng khu vực phòng thủ, nền an 
ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận phòng, chống tội phạm vững 
mạnh cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận, thực sự phát huy tác dụng trong 
phát triển kinh tế ­ xã hội và bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm ở 
địa phương. 



×