Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần đầu tư phát triển đông dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.35 KB, 45 trang )

LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian thực tập, nghiên cứu tại công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông
Dương, đặc biệt là sự chỉ bảo nhiệt tình của các anh chị cán bộ nhân viên Công ty đã
tạo điều kiện cho em được làm quen với thực tế kinh doanh tại công ty, giúp em có
được những kiến thức thực tiễn về hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp cũng
như thực tế áp dụng và thực thi pháp luật của doanh nghiệp. Đây là những kiến thức
rất quý báu, rất cần thiết cho công việc và học tập của em sau này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý ông bà trong ban lãnh đạo, các anh
chị trong phòng kinh doanh và toàn thể nhân viên trong công ty đã giúp đỡ em trong
quá trình thực hiện đề tài khóa luận của mình.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn TS Đinh Thị Thanh Nhàn đã trực tiếp
hướng dẫn, tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận của
mình. Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong bộ môn Luật Chuyên
ngành nói riêng và các thầy cô trong khoa Kinh tế - Luật nói chung đã tận tình giảng
dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình học tập để có được kiến thức hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


DANH MỤC VIẾT TẮT
ST
T

Tên đầy đủ

Tên viết tắt

11


Bộ luật Dân sự

BLDS

22

Luật Thương mại

LTM

33

Luật Du lịch

LDL

2


MỤC LỤC

3


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận
1.1 Sự cần thiết của hợp đồng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập và phát triển như hiện nay, vấn đề toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển

kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Thời gian qua, nhà nước ta đã
từng bước tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế
giới bằng việc gia nhập ASEAN năm 1995, APEC năm 1998, ký kết Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000, đặc biệt khi gia nhập và trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 11/07/2007, và gần
đây nhất là Hiệp định hợp tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP vào ngày
05/10/2015, Việt Nam đã đạt được bước tiến dài trong ngành dịch vụ. Hiệp định về
thương mại dịch vụ GATS ra đời đã tạo cơ hội phát triển ngành dịch vụ cho các doanh
nghiệp Việt Nam. Dịch vụ đã trở thành hàng hóa và việc trao đổi, mua bán dịch vụ
ngày càng trở nên sôi động, phổ biến trên thị trường, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ
không chỉ giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau mà còn giữa các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ Việt Nam với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài. Chính
vì thế, hợp đồng dịch vụ đã được các doanh nghiệp sử dụng như một công cụ pháp lý
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia thị trường thương mại
dịch vụ, đồng thời tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng giữa các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ với nhau. Trên thực tế thì vai trò của hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh dịch vụ là không thể phủ nhận nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn
tại một số khuyết điểm nhất định gây kìm hãm sự phát triển của các hoạt động dịch vụ
trong thương mại. Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ thực tiễn tìm hiểu về việc áp
dụng hợp đồng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch tại Công ty Cổ phần Đầu
tư Phát triển Đông Dương, tôi cho rằng việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp
luật về hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động
thương mại nói riêng là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển
kinh tế của một đất nước đang hội nhập với nền kinh tế thế giới như đất nước ta.
1.2 Vai trò của ngành kinh doanh dịch vụ du lịch trong xã hội
Hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch là lĩnh vực có tiềm năng lớn trong các
hoạt động thương mại dịch vụ của Việt Nam và đã trở thành một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn, không thể thiếu trong xã hội. Ngành du lịch Việt Nam còn được biết
đến với tên gọi là ngành “công nghiệp không khói” bởi vô vàn những lợi ích khổng lồ
mà lĩnh vực này mang lại. Cụ thể là đã có đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế,

4


chính trị, xã hội, mang lại nguồn thu ngân sách quốc gia; góp phần thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập thường xuyên cho người
lao động tại các vùng, miền khác nhau trên cả nước; thúc đẩy, bảo tồn và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là cầu nối, giao lưu nền văn hóa
khác nhau giữa các nước trên thế giới, góp phần vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
và thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và
Nhà nước. Đặc biệt, phải kể đến lợi ích to lớn trong việc bảo vệ môi trường của ngành
du lịch. Đúng như tên gọi “công nghiệp không khói”, là một ngành sinh lợi nhuận
nhưng không phải sử dụng đến máy móc, ống khói như ngành công nghiệp, vì thế hạn
chế gây ô nhiễm, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Một trong những biện pháp thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam là
hoàn thiện dần hệ thống pháp luật quy định về các hoạt động kinh doanh du lịch.
Trong đó, để đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong hoạt động kinh doanh du lịch
cần có những quy định chặt chẽ về chế độ giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ giữa
các cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch với các cá nhân, tổ chức tiêu dùng dịch vụ du lịch.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Tính đến thời điểm hiện tại, có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan
đến hợp đồng và các hoạt động thương mại dịch vụ. Xin đưa ra một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu.
a. Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ – Khoa Luật, trường Đại
học Quốc gia Hà Nội (2011), “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn
giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”.
b. Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Yến - khoa Luật Kinh tế,
Viện đại học mở Hà Nội (2013), “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn
áp dụng tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long-GTC”
c. Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Đinh Thị Dinh - khoa Quản trị kinh
doanh, trường Đại học Ngoại thương (2009), “Các quy định của Luật Thương mại Việt

Nam năm 2005 về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn áp dụng”.
d. Thạc sỹ Lê Văn Sua (2015), “Một số quy định của pháp luật dân sự, thương
mại về chế định hợp đồng – Bất cập và kiến nghị”, Trang thông tin điện tử Bộ Tư
pháp, ngày 05/06/2015.
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra tương đối đầy đủ những cơ sở lý luận cũng như
thực tiễn thực hiện hợp đồng tại nhiều đơn vị khác nhau, tuy nhiên chưa phân tích chi
tiết, kỹ lưỡng những bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch
vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng.
Với mục đích tìm hiểu một cách chuyên sâu và áp dụng các quy định của pháp
luật về việc giao kết và thực hiện các hợp đồng dịch vụ du lịch thế nào là hợp lý cũng
5


như thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực
kinh doanh du lịch của công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông Dương diễn ra như thế
nào, đánh giá được những bất cập hạn chế còn tồn tại, từ đó kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch, em đã quyết định
lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch- Thực tiễn thực hiện tại Công
ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông Dương” là đề tài khóa luận của mình.
3. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp
luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ du lịch và thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần
Đầu tư Phát triển Đông Dương.
3.2 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn
thực hiện các quy phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại công
ty, đánh giá được những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện những quy định của
pháp luật, từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ du lịch tại công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển

Đông Dương.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu về những quy định hiện hành của pháp
luật trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại như Luật Thương
mại 2005 (LTM), Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS), Luật Du lịch 2005 (LDL),... và một số
văn bản dưới luật khác có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là phương pháp Chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về nền kinh tế thị trường, về thương mại dịch vụ trong điều kiện tự do hóa
thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề lý luận và pháp
lý liên quan đến các quy định về hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương
mại. Trong đó, chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm rõ
mối quan hệ giữa quy định về hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2005 với các quy định về
cung ứng dịch vụ trong LTM 2005.
Ngoài ra, khóa luận cũng sử dụng các phương pháp thu thập, xử lý số liệu và
phương pháp khảo sát, đánh giá thực tiễn để tìm hiểu một cách chuyên sâu thực tiễn
thực hiện các quy phạm pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ du lịch tại Công ty
Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông Dương, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng
6


-

-

-

-


cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ trong hoạt động
kinh doanh du lịch tại công ty.
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của bài khóa luận. Cụ
thể là được sử dụng để đi sâu vào tìm tòi, trình bày các quan điểm về hợp đồng dịch
vụ, các quy định và thực tiễn thực hiện loại hợp đồng này theo một trình tự, bố cục
hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục
đích, yêu cầu đã được đặt ra cho bài khóa luận.
Phương pháp thu thập dữ liệu
Phương pháp này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu thông tin về các vấn đề tại doanh nghiệp. Việc thu thập dữ liệu giúp người
nghiên cứu nắm được vấn đề cần nghiên cứu, có thêm kiến thức sâu rộng về lĩnh vực
đang nghiên cứu. Có nhiều phương pháp thu thập dữ liệu, khi tiến hành thu thập dữ
liệu thường phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp với nhau để đạt được mục tiêu
nghiên cứu.
+ Thu thập dữ liệu sơ cấp: Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của
pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ du lịch cũng như nắm bắt thực trạng áp dụng
tại công ty, đã thu thập các dữ liệu sơ cấp từ việc đọc các văn bản quy phạm pháp luật,
thông tin về lĩnh vực kinh doanh của công ty,..để có cơ sở dữ liệu hoàn thành đề tài
khóa luận.
+ Thu thập dữ liệu thứ cấp: Nguồn tài liệu này bao gồm: tài liệu bên trong của
công ty như báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh, các dự án, hợp đồng dịch vụ
du lịch đã và đang được ký kết giữa công ty và khách hàng nhằm làm rõ phần thực
trạng áp dụng pháp luật tại công ty.
Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp quan sát các hiện tượng một cách gián tiếp, từ đó chọn lọc
các thông tin cần thiết, có liên quan phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Phương pháp
này sử dụng các công cụ thống kê như: ghi chép, nghiên cứu tài liệu có sẵn,..Theo
phương pháp này, các thông tin được khai thác một cách gián tiếp thông qua internet,
sách báo, tạp chí,..

Phương pháp so sánh
Phương pháp này được sử dụng để so sánh dữ liệu giữa các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại và đối
chiếu với các văn bản pháp luật khác có liên quan.

7


5. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần Lời cảm ơn, Lời mở đầu, Kết luận, kết cấu của khóa luận gồm có 3
chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ du lịch.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ du lịch và thực
tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông Dương.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
hợp đồng dịch vụ du lịch tại Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông Dương.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ DU LỊCH
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến hợp đồng dịch
vụ du lịch
Các hợp đồng dịch vụ du lịch hàng năm đem lại cho các công ty du lịch những
khoản lợi nhuận rất lớn vì trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch của mình, các
công ty du lịch không chỉ giao kết hợp đồng với khách du lịch (người tiêu dùng dịch
vụ du lịch) mà còn giao kết hợp đồng bổ sung với các doanh nghiệp kinh doanh hoạt
động du lịch khác nhằm mục đích thực hiện tối đa hiệu quả của hợp đồng đã ký kết với

khách du lịch. Vì vậy, hợp đồng dịch vụ du lịch bao gồm hai loại hợp đồng là hợp
đồng du lịch mang bản chất là hợp đồng dân sự và hợp đồng du lịch mang bản chất là
hợp đồng kinh doanh thương mại. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài nghiên cứu, xin
chỉ đề cập đến hợp đồng dịch vụ du lịch với bản chất là hợp đồng dân sự (tức là những
hợp đồng dịch vụ du lịch được ký kết giữa cá nhân khách du lịch với một bên là đại
diện Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đông Dương).
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng dân sự
a. Khái niệm về hợp đồng dân sự
Theo quy định của BLDS năm 2005, tại Điều 388, hợp đồng dân sự được hiểu
như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”1. Hợp đồng là sự thống nhất về mặt ý chí của các
chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình
mà không được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ hợp đồng.
Vì vậy, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ trao đổi
lợi ích vật chất mới được hình thành và được gọi là quan hệ hợp đồng dân sự. Như vậy
cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận bằng ý chí tự
nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật khi ý chí của các
bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp
đồng, nhưng sự tự do đó được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích
chung của xã hội và lợi ích công cộng.
b. Đặc điểm của hợp đồng dân sự
- Chủ thể của hợp đồng dân sự:
Là các cá nhân, tổ chức (có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân) và mục
đích sinh lợi không phải là yếu tố bắt buộc cấu thành quan hệ hợp đồng.
1 Điều 388 BLDS 2005

9


- Hình thức của hợp đồng dân sự:

Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi
cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được giao kết dưới hình
thức cụ thể thì các bên phải tuân theo hình thức đó.2
c. Nội dung của hợp đồng dân sự
Nội dung của hợp đồng là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng thể hiện ý
chí của các bên trong quá trình thương lượng. Yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng
phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản phải rõ ràng cụ thể, ý chí của
các bên không được mập mờ và mâu thuẫn.
Bộ luật dân sự 2005 là luật chung, nên các quy định của nó về nội dung của hợp
đồng là những quy định mang tính chất mở, và dùng làm định hướng cho các lĩnh vực
luật chuyên ngành.
Theo quy định của pháp luật nội dung của hợp đồng được quy định như sau:
“ Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung
sau:
Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không
được làm.
Số lượng, chất lượng.
Giá phương thức thanh toán.
Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
Quyền, nghĩa vụ của các bên.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Phạt vi phạm hợp đồng.
Các nội dung khác.”3
1.1.2 Khái niệm về hợp đồng dịch vụ
a. Khái niệm hợp đồng dịch vụ
Hoạt động cung ứng dịch vụ ngày càng được chú trọng hơn và bắt đầu được các
nhà làm luật chú ý đến và đưa vào từng quy định cụ thể trong luật. Để đáp ứng nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong đó, các quy định về hoạt động thương mại cũng không ngừng được hoàn thiện

hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và với xu hướng hội nhập. Cụ thể, BLDS
2005 ra đời thay thế BLDS 1995, LTM năm 2005 ra đời thay thế LTM năm 1997. Với

2 Điều 401 BLDS 2005
3 Điều 402 BLDS 2005

10


hai đạo luật mới này, hoạt động thương mại được quy định một cách cụ thể hơn, tạo
điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức trong việc giao kết hợp đồng.
Theo Điều 518 BLDS 2005 thì, “hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên
thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”.
b. Đặc điểm hợp đồng dịch vụ
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy hợp đồng dịch vụ có những đặc điểm sau đây:
- Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và bên thuê
dịch vụ đều có nghĩa vụ đối với nhau. Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện hành vi
pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết
quả công việc và trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ.
- Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý nhất định và giao kết
quả cho bên thuê dịch vụ. Tức là bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các nghĩa vụ mà
được bên thuê dịch vụ yêu cầu nhưng phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật, và
khi thực hiện xong thì phải thông báo cho bên thuê dịch vụ đến nhận hoặc giao trực
tiếp cho bên thuê dịch vụ.
- Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù. Bên thuê dịch vụ phải trả tiền công
cho bên cung ứng dịch vụ, khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện công việc và mang
lại kết quả như đã thoả thuận.
c. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được. Tức là

công việc ấy phải có thực, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội (Điều
519 BLDS 2005 ).
1.1.3 Khái niệm hợp đồng dịch vụ du lịch
Theo LDL 2005: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”4
Theo định nghĩa đó thì hợp đồng du lịch là một loại hợp đồng được giao kết
nhằm đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch. Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ. Sản
phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu
kho lưu bãi, không chuyển quyền sở hữu khi sử dụng. Do vậy nó cũng mang đặc trưng
chung của dịch vụ. Chính vì thế, trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, chúng
ta có thể đưa ra khái niệm dịch vụ du lịch như sau: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại
nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng dịch vụ và khách du lịch và
thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang
4 Khoản 1 Điều 4 LDL 2005
11


lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ du lịch.
Theo khoa học pháp lý, Tại Khoản 11 Điều 4 LDL 2005: “ Dịch vụ du lịch
được hiểu là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui
chơi, giải trí, thông tin hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của
khách du lịch”5
Như vậy, hợp đồng dịch vụ du lịch chủ yếu đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng
của khách du lịch, người tiêu dùng dịch vụ cá nhân khi sử dụng dịch vụ du lịch do các
hãng lữ hành cung cấp không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu để thoả mãn nhu
cầu sinh hoạt của bản thân, nên thực chất hợp đồng dịch vụ du lịch mang yếu tố dân sự
nhiều hơn (được ký kết với khách du lịch) so với hợp đồng dịch vụ du lịch mang bản
chất thương mại (được ký kết với thương nhân khác).
b. Đặc điểm hợp đồng dịch vụ du lịch

Cũng như dịch vụ nói chung, dịch vụ du lịch có những đặc trưng sau:
* Tính phi vật chất.
Đây là tính chất quan trọng nhất của sản xuất dịch vụ du lịch. Tính phi vật chất
đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước. Cho nên
đối với du khách thì dịch vụ du lịch là trừu tượng khi mà họ chưa một lần tiêu thụ nó.
Dịch vụ luôn đồng hành với những sản phẩm vật chất nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại
tính phi vật chất của mình. Du khách rất khó đánh giá dịch vụ. Từ những nguyên nhân
nêu trên, nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần phải cung cấp đủ thông tin và thông tin cần
phải được nhấn mạnh tính lợi ích của dịch vụ chứ không chỉ đơn thuần mô tả quá trình
dịch vụ, qua đó làm cho du khách phải quyết định mua dịch vụ của mình.
* Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ.
Khi mua hàng hoá, người mua có quyền được sở hữu đối với hàng hoá và sau
đó có thể sử dụng như thế nào, nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có
quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang
mua quyền đối với tiến trình dịch vụ.
* Tính không thể di chuyển
Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ du lịch
thuộc loại không thể di chuyển được, khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến cơ sở
du lịch. Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh khi xây
dựng các điểm du lịch cần chọn địa điểm thoả mãn các điều kiện tự nhiên: Địa hình,
địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi trường sinh thái và điều kiện xã hội, dân
số dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở
hạ tầng. Đặc điểm này của họat động du lịch đòi hỏi các cơ sở du lịch tiến hành các
5 Khoản 11 Điều 4 LDL 2005

12


hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du khách đến các địa điểm du lịch.
* Tính thời vụ của dịch vụ du lịch

Dịch vụ có tính đặc trưng là tính thời vụ, có những mùa mà du khách rất đông
nhưng cũng có những thời điểm do yếu tố thời tiết mà hoạt động này kém sôi động hơn.
* Tính trọn gói của dịch vụ du lịch.
Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ chọn gói bao gồm dịch vụ cơ bản (dịch vụ
chính mà nhà cung cấp dịch vụ cung cấp cho khách hàng), dịch vụ bổ sung (những
dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng), dịch vụ đặc trưng (những dịch vụ thoả mãn
nhu cầu đặc trưng của du khách như tham quan, tìm hiểu vui chơi giả trí).
* Tính không đồng nhất
Do khách hàng muốn được chăm sóc như những người riêng biệt nên dịch vụ
du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất.
c. Phân loại hợp đồng dịch vụ du lịch
Trong quá trình hoạt động kinh doanh du lịch, các công ty du lịch không chỉ
giao kết hợp đồng với khách du lịch mà còn giao kết hợp đồng với các đơn vị kinh
doanh hoạt động du lịch khác.Vì vậy ngoài hợp đồng du lịch mà công ty ký với khách
hàng, công ty còn ký các hợp đồng khác nhằm mục đích thực hiện được hợp đồng ký
với khách du lịch. Các hợp đồng dịch vụ du lịch bao gồm:
- Hợp đồng kinh doanh lữ hành.
Hoạt động kinh doanh lữ hành gồm có hai hình thức cung cấp dịch vụ là: dịch
vụ lữ hành nội địa và lữ hành quốc tế. Hai loại dịch vụ lữ hành này có những đặc trưng
riêng về phương thức cung cấp các dịch vụ. Căn cứ vào hai hình thức cung cấp dịch vụ
lữ hành nói trên ta có thể phân chia hợp đồng kinh doanh lữ hành thành hai loại như
sau: Hợp đồng kinh doanh lữ hành nội đia và hợp đồng kinh doanh lữ hành quốc tế.
Hiện nay hầu hết các Công ty du lịch chủ yếu hoạt động về mảng kinh doanh dịch vụ
lữ hành nên trong chuyên đề thực tập này chỉ đề cập đến mảng hợp đồng dịch vụ lữ
hành với tư cách là hợp đồng dân sự.
- Hợp đồng kinh doanh lưu trú du lịch. Hợp đồng này được giao kết nhằm đáp
ứng nhu cầu ăn ở của du khách tại các địa điểm du lịch. Hợp đồng này được ký kết
giữa công ty du lịch với đơn vị kinh doanh hoạt động lưu trú như khách sạn, nhà hàng,
khu du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi vui chơi cho khách du lịch.
Hợp đồng kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Đây là loại hợp đồng mà nội

dung chủ yếu là các bên thỏa thuận về việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du
lịch theo tuyến du lịch, theo chương trình du lịch và tại các khu du lịch, điểm du lịch,
đô thị du lịch
Hợp đồng kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch. Đây là loại hợp đồng
13


nhằm mục đích đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đưa các tài nguyên
du lịch tiềm năng vào khai thác; phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh
xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch.
Hợp đồng kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
d. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia hợp đồng dịch vụ du lịch
Trong hợp đồng dịch vụ du lịch mang bản chất hợp đồng dân sự, các bên trong
quan hệ hợp đồng bao gồm: doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và khách du lịch
(người tiêu dùng dịch vụ du lịch)
*) Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh du lịch
Điều 39, Điều 40 LDL 2005 quy định về các nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh
doanh du lịch như sau:
- Lựa chọn ngành, nghề kinh doanh du lịch; đăng ký một hoặc nhiều ngành,
nghề kinh doanh du lịch.
- Được Nhà nước bảo hộ hoạt động kinh doanh du lịch hợp pháp.
- Tổ chức, tham gia các hoạt động xúc tiến du lịch; được đưa vào danh mục
quảng bá chung của ngành du lịch.
- Tham gia hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp về du lịch ở trong nước và nước
ngoài.
- Thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
- Kinh doanh du lịch theo đúng nội dung trong giấy đăng ký kinh doanh du lịch
đối với ngành nghề cần có giấy phép.
- Thông báo bằng văn bản với cơ quan Nhà nước về du lịch có thẩm quyền về
thời điểm bắt đầu kinh doanh hoặc khi có thay đổi nội dung trong giấy đăng ký kinh

doanh du lịch.
- Thông tin rõ ràng, công khai, trung thực số lượng, chất lượng, giá cả các dịch
vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đó cam kết với
khách du lịch, bồi thường thiệt hại cho khách du lịch do lỗi cuả mình gây ra.
- Áp dụng biện pháp bảo đảm an toàn tính mạng sức khỏe, tài sản của khách du
lịch; thông báo kịp thời cho cơ quan có thẩm quyền về tai nạn hoặc nguy hiểm, rủi ro
có thể xảy ra với khách du lịch.
- Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê, kế toán lưu trữ hồ sơ, tài liệu theo quy
định của pháp luật.
*) Quyền và nghĩa vụ của khách du lịch
Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Trong đó
khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam
đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài
14


vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra
nước ngoài du lịch.
Theo Điều 35 LDL 2005 quyền của khách du lịch bao gồm:
- Lựa chọn hình thức du lịch lẻ hoặc du lịch theo đoàn; lựa chọn một phần hoặc
toàn bộ chương trình du lịch, dịch vụ du lịch của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch cung cấp thông tin cần thiết về
chương trình du lịch, dịch vụ du lịch.
- Được tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, hải
quan, lưu trú; được đi lại trên lãnh thổ Việt Nam để tham quan, du lịch, trừ những khu
vực cấm.
- Hưởng đầy đủ các dịch vụ du lịch theo hợp đồng giữa khách du lịch và tổ
chức, cá nhân kinh doanh du lịch; được hưởng bảo hiểm du lịch và các loại bảo hiểm
khác theo quy định của pháp luật.
- Được đối xử bình đẳng, được yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch

thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài sản khi sử dụng
dịch vụ du lịch; được cứu trợ, cứu nạn trong trường hợp khẩn cấp khi đi du lịch trên
lãnh thổ Việt Nam.
- Được bồi thường thiệt hại do lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch gây
ra theo quy định của pháp luật.
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật về du lịch.
Khi đi du lịch trên lãnh thổ Việt Nam hay nước ngoài khách du lịch phải tuân
thủ các quy định của pháp luật quốc gia đó. Tại Điều 36 LDL 2005 quy định rõ khách
du lịch phải tuân thủ các nghĩa vụ sau:
- Tuân thủ quy định của pháp lụât Việt Nam về an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
tôn trọng và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, danh lam, thắng cảnh, môi trường, tài
nguyên du lịch, bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục nơi đến du lịch.
- Thực hiện nội quy, quy chế của khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch, cơ sở
lưu trú du lịch.
- Thanh toán tiền dịch vụ theo hợp đồng và các khoản chi, lệ phí theo quy định
của pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân kinh doanh
du lịch theo quy định của pháp luật.
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp
đồng dịch vụ du lịch
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch
a. Cơ sở thực tiễn ban hành pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch
15


Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ và đã chứng tỏ được vị trí của mình trong trong nền kinh tế với vai trò là một
ngành kinh tế thực sự và có khả năng đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. So với thời điểm năm 1999, du lịch Việt Nam hiện nay đang hội
nhập mạnh mẽ với du lịch khu vực và quốc tế, thông qua các cam kết về du lịch song

phương, đa phương, trong Tổ chức du lịch thế giới (WTO), của khu vực (PATA,
ASEANTA...) và đã đạt được những thành tựu to lớn. Không chỉ là nguồn thu ngoại tệ
quan trọng cho đất nước, du lịch còn tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động trực tiếp
và hàng triệu lao động gián tiếp trong xã hội.
Mặc dù hoạt động du lịch đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và lợi thế phát triển du lịch to lớn của đất nước. Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra chủ trương “phát triển du lịch thật sự trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn”. Để thực hiện chủ trương này, cần có những quy định mới tạo điều
kiện để thu hút các nguồn lực trong xã hội cho phát triển du lịch, xây dựng những sản
phẩm du lịch có sức hấp dẫn cao đối với khách du lịch, qua đó góp phần tăng thu cho
ngân sách và thu nhập xã hội. Điều đó đòi hỏi hệ thống pháp luật về du lịch phải được
nâng cao, đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc, thể chế hóa chủ trương của Đảng để
du lịch có điều kiện phát triển là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Thêm nữa, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch có liên quan đến nhiều ngành,
nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khác như văn hóa, giao thông, tài nguyên môi trường, quốc
phòng, an ninh, nông nghiệp, thương mại...Từ khi ban hành Pháp lệnh Du lịch năm
1999 đến nay, nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành nhưng thực tế triển khai các
văn bản pháp luật đã cho thấy, một số quy định của Pháp lệnh Du lịch không còn phù
hợp với thực tiễn cũng như quy định của một số luật liên quan. Điều này đặt ra yêu cầu
phải ban hành LDL nhằm đảm bảo sự đồng bộ, tương thích trong hệ thống pháp luật
và tạo sự phát triển nhanh, bền vững cho ngành du lịch Việt Nam.
Phát triển bền vững đang là vấn đề thời sự toàn cầu. Đảng và Nhà nước ta đã
dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển bền vững về mặt kinh tế, xã hội và môi
trường, trong đó có du lịch. Để phát triển du lịch bền vững, cần phải bảo vệ, duy trì và
tôn tạo các nguồn tài nguyên du lịch, bảo vệ môi trường du lịch. Pháp lệnh Du lịch có
một số quy định về bảo vệ tài nguyên song còn chung chung, thiếu cụ thể nên hiệu lực
thực tế còn yếu. Hiện nay, ở nhiều nơi, tài nguyên du lịch đang bị xâm phạm, xuống
cấp, cảnh quan, môi trường bị suy giảm, an ninh trật tự chưa tốt, hiện tượng chèo kéo,
đeo bám khách du lịch vẫn diễn ra phổ biến, ảnh hưởng tới sự hấp dẫn đối với khách

du lịch. Vì vậy, nguyên tắc phát triển bền vững, đặc biệt là việc bảo vệ và sử dụng hợp
16


lý tài nguyên du lịch cần phải được ghi nhận là nguyên tắc xuyên suốt trong LDL.
Đồng thời, cần có những quy định đầy đủ và cụ thể hơn về việc bảo vệ, sử dụng và
khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch, làm rõ trách nhiệm và sự phối hợp của
các ngành, các cấp trong việc quy hoạch phát triển và quản lý nhà nước đối với tài
nguyên du lịch; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư trong việc
bảo vệ, sử dụng và khai thác tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường, xây dựng môi
trường du lịch trong sạch, văn minh, an toàn, đặc biệt tại các khu du lịch, điểm du lịch,
tuyến du lịch.
Từ những lý do nêu trên, việc ban hành LDL để tạo khuôn khổ pháp lý cho sự
phát triển ổn định và bền vững của ngành du lịch ở nước ta là đòi hỏi khách quan và
cấp thiết. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua LDL và ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chủ tịch
nước ký Lệnh số 14/2005/L/CTN công bố LDL.
b. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ du lịch
Theo khoản 1 điều 3 LTM 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Trong đó, cung ứng dịch
vụ là một hoạt động thương mại mà một bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một
bên khác và nhận thanh toán, bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên
cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Do đó, hợp đồng dịch vụ du lịch
mang bản chất của hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại nên chịu sự điều chỉnh của
LTM và pháp luật có liên quan.
Ngoài ra, hợp đồng dịch vụ du lịch còn mang bản chất của hợp đồng dân sự vì
có sự thỏa thuận giữa các bên, sự thống nhất về mặt ý chí của các chủ thể khi tham gia
giao kết hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng dịch vụ du lịch, cụ thể chịu sự điều chỉnh của LTM 2005,

BLDS 2005 và LDL 2005. Trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của LTM, BLDS và LDL thì
áp dụng quy định của Điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch có yếu tố nước ngoài
được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp
luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ du lịch
1.2.2.1 Đối tượng áp dụng của hợp đồng dịch vụ du lịch
Xét về phương diện mục đích của hợp đồng thì có những hợp đồng nhằm mục
17


đích kinh doanh thương mại vì vậy ngoài Luật dân sự những hợp đồng đó còn chịu sự
điều chỉnh của lĩnh vực Luật chuyên nghành là LTM 2005 hiện hành. Còn những hợp
đồng dịch vụ được giao kết nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt, đáp ứng về mặt
tinh thần của người tiêu dùng dịch vụ thì đó là quan hệ dân sự va nó chịu sự điều chỉnh
của BLDS.
Theo Điều 518 BLDS 2005 thì “đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công
việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội”. 6
Như vậy, không phải công việc nào cũng trở thành đối tượng của hợp đồng dịch
vụ, mà chỉ những công việc mà khi nhà cung cấp dịch vụ cung cấp cho người tiêu
dùng dịch vụ thì nó mang lại lợi ích cho người tiêu dùng nhưng đồng thời nó cũng
không được trái với các quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, cũng không
được xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức khác.
Theo Khoản 11 Điều 4 LDL 2005 “ Dịch vụ du lịch là những dịch vụ về lữ
hành, vận chuyển lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những
dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”7
Từ khái niệm trên về dịch vụ du lịch thì ta có thể thấy rằng: đối tượng của hợp
đồng du lịch là sự thoả thuận giữa nhà cung cấp dịch vụ với người tiêu dùng dịch vụ

du lịch về việc nhà cung cấp dịch vụ cung cấp các dịch vụ về du lịch như khoản 11
Điều 4 LDL 2005. Các dịch vụ du lịch này chỉ được coi là hợp pháp nếu nó không trái
pháp luật và đạo đức xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
xã hội.
1.2.2.2 Về vấn đề giao kết hợp đồng dịch vụ du lịch
Luật Du lịch 2005 không có điều khoản cụ thể về việc giao kết hợp đồng du
lịch. Với bản chất là một hợp đồng dân sự nên vấn đề giao kết hợp đồng du lịch được
áp dụng theo luật chung là BLDS 2005.
Giao kết hợp đồng du lịch là việc công ty du lịch và khách du lịch bày tỏ ý chí
với nhau theo những nguyên tắc trình tự nhất định để qua đó xác lập quyền và nghĩa
vụ về hoạt động du lịch.
a. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dịch vụ du lịch
Theo quy định tại Điều 390 BLDS 2005 khi giao kết hợp đồng du lịch các bên
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đây là nguyên tắc nhằm thừa nhận quyền tự do ký kết hợp đồng. Theo đó mọi
cá nhân, tổ chức có tư cách chủ thể đều có quyền tham gia ký kết hợp đồng du lịch nói
6 Điều 518 BLDS 2005
7 Khoản 11 Điều 4 LDL 2005

18


riêng cũng như các hợp đồng dân sự nói chung.
- Các bên tự nguyện bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Hợp đồng được giao kết
không bình đẳng và tự nguyện thì không được pháp luật thừa nhận. Ý chí tự nguyện là
sự thống nhất về ý muốn chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài.
b. Trình tự giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng

Tại Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 xác định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện ý định muốn giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”8
Lời đề nghị giao kết có thể xuất phát từ nhu cầu của nhà cung cấp hoặc từ
người có nhu cầu sử dụng. Trong hợp đồng du lịch lời đề nghị giao kết có thể do khách
du lịch đặt ra hoặc có thể là do công ty lữ hành nêu nên.
Khách hàng có thể trực tiếp đến công ty du lịch để đề nghị giao kết hợp đồng và
tham khảo các chương trình du lịch mà công ty đưa ra, sau đó mới tiến hành đàm phán
ký kết hợp đồng. Tuy nhiên khách hàng có thể gián tiếp đưa ra lời đề nghị giao kết hợp
đồng du lịch thông qua việc gửi thư điện tử hoặc uỷ quyền cho người khác đề nghị
giao kết hợp đồng. Công ty du lịch có thể tự mình đưa ra một lời đề nghị giao kết hợp
đồng với mọi cá nhân tổ chức bằng các hình thức như: tờ rơi, quảng cáo, thông báo
trên phương tiện báo chí truyền hình,… Sau khi đưa ra lời đề nghị đó thì mặc dù chưa
biết khách hàng của mình là ai nhưng công ty cũng phải chịu trách nhiệm với những
thông tin mà họ đưa ra. Công ty du lịch có thể cử nhân viên của mình đến từng cá nhân
trong xã hội để đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Tại Điều 396 BLDS 2005 quy định như sau: “chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ
nội dung của đề nghị”9
Vậy, hợp đồng được giao kết khi bên được đề nghị nhận lời đề nghị, chấp
nhận toàn bộ nội dung của đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với
người đề nghị giao kết.
Tuy nhiên, cũng có thể chấp nhận một phần nội dung của lời đề nghị. Khi đó
người được đề nghị có thể đưa ra một lời đề nghị mới và họ lại trở thành bên đề nghị
mới. Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là cơ sở cho việc chuẩn bị thực hiện
hợp đồng. Sau khi hai bên trong quan hệ hợp đồng đồng ý với toàn bộ nội dung của đề
8 Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005
9 Điều 396 BLDS 2005


19


nghị giao kết thì họ phải chịu trách nhiệm với những gì mà họ đã cam kết, và nếu có
bất cứ sự vi phạm nào thì đều phải chịu các hình thức chế tài của pháp luật và các bên
thoả thuận trong nội dung hợp đồng.
1.2.2.3 Thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch
a. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch
Sau khi các bên đã giao kết hợp đồng du lịch dưới hình thức nhất định phù hợp
với pháp luật và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật (quy định tại Điều 122
BLDS) thì hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Thực hiện hợp đồng du lịch
là việc bên cung ứng dịch vụ du lịch và bên tiêu dùng dịch vụ du lịch tiến hành các
hành vi mà các bên đã tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền
dân sự tương ứng của bên kia và tuân theo các nguyên tắc theo Điều 412 BLDS 2005:
- Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại,
thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác.
- Thực hiện một cách trung thực theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau.
- Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi
ích hợp pháp của người khác.
b. Nội dung thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch
Khi hợp đồng đã được giao kết, các bên trong quan hệ hợp đồng phải thực hiện
đúng, đầy đủ các điều khoản về đối tượng, địa điểm, thời hạn, phương thức, và các
thỏa thuận khác mà nội dung của hợp đồng xác định.
Hợp đồng du lịch là hợp đồng song vụ (tức là hợp đồng mà ở đó cả bên cung
ứng dịch vụ du lịch và khách du lịch đều có quyền và nghĩa vụ với nhau). Theo Điều
414 BLDS 2005: Trong hợp đồng song vụ, mỗi bên đều phải thực hiện nghĩa vụ của
mình khi đến thời hạn. Các bên không được lấy lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ
đối với mình mà hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, (trừ trường hợp việc không thực hiện
nghĩa vụ của bên kia làm cho bên này không thực hiện được nghĩa vụ). Nếu hợp đồng

song vụ không xác định bên nào phải thực hiện nghĩa vụ trước, thì cùng một lúc các
bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Mặt khác, để bảo đảm tính công
bằng và quyền lợi của các bên trong hợp đồng, pháp luật còn quy định cho bên phải
thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn việc thực hiện nghĩa vụ đó, nếu tài sản của
bên kia giảm sút nghiêm trọng đến mức không có khả năng thực hiện hợp đồng. Khi
nào bên kia khôi phục được khả năng để có thể thực hiện được hợp đồng hoặc đã có
người bảo lãnh, thì người phải thực hiện nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng.
1.2.2.4 Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng dịch vụ du lịch
a. Sửa đổi hợp đồng dịch vụ du lịch
20


Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa
đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng
thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó.
b. Chấm dứt hợp đồng dịch vụ du lịch
Điều 525 BLDS quy định: trong trường hợp việc thực hiện công việc không có
lợi cho khách hàng thì khách hàng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
nhưng phải báo ngay cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý, khách
hàng phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng đã thực hiện và bồi thường
thiệt hại. Nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không
đúng thỏa thuận thì bên cung ứng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Điều 424 BLDS 2005 quy định, hợp đồng chấp dứt trong các trường hợp:
Khi hợp đồng đã được hoàn thành. Tức là bên cung ứng dịch vụ du lịch và
khách du lịch đã thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ và do vậy, mỗi bên đều đáp
ứng được quyền dân sự của mình, thì hợp đồng được coi là hoàn thành.
Hợp đồng chấm dứt theo thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện được hợp đồng hoặc việc thực hiện hợp đồng gây thiệt hại

vật chất cho một hoặc cả hai bên, thì các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.
Hợp đồng được giao kết được coi là chấm dứt tại thời điểm các bên đạt được sự thỏa
thuận nói trên.
Hợp đồng sẽ chấm dứt khi cá nhân giao kết hợp đồng chết. Khi một bên trong
quan hệ hợp đồng chết thì một bên trong quan hệ hợp đồng không còn nên không còn
căn cứ để tiếp tục thực hiện hợp đồng và như vậy hợp đồng phải đương nhiên chấm
dứt
Hợp đồng cũng chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng. Theo
Điều 424 BLDS 2005 khi một bên vi phạm hợp đồng, thì bên kia có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng được thực hiện theo
quy định tại Điều 426 BLDS 2005. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phần hợp
đồng chưa thực hiện chấm dứt. Khi hợp đồng bị chấm dứt các bên không phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ của mình, nhưng các bên vẫn phải thanh toán phần hợp đồng đã
được thực hiện.
Hợp đồng chấm dứt khi một bên hủy bỏ hợp đồng. Để nâng cao tính kỷ luật
trong việc thực hiện hợp đồng, pháp luật cho phép các bên được thỏa thuận điều khoản
hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia vi phạm hợp đồng. Khi đó bên bị vi phạm có quyền đơn
phương hủy hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Khi hợp đồng bị
21


hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên phải hoàn trả
cho nhau những lợi ích vật chất đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì
phải hoàn trả bằng tiền.
c. Hủy bỏ hợp đồng dịch vụ du lịch
Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên
kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định.
Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết việc hủy bỏ hợp
đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không còn có hiệu lực từ thời điểm giao
kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng
hiện vật thì phải trả tiền.
Và bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại.
d. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch
Điều 426 BLDS 2005 quy định chi tiết việc đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng. Cụ thể:
Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải
thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt tại thời
điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. các bên không phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Bên có lỗi
trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại.
1.2.2.4 Các chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng
Các trường hợp vi phạm hợp đồng và các chế tài áp dụng đối với mỗi trường
hợp được quy định cụ thể tại Điều 297, 300, 302, 307, 308, 310, 312 LTM 2005. Cụ thể:
- Trong trường hợp vi phạm hợp đồng mà một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm
cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, thì bên vi phạm có
thể bị áp dụng một trong các chế tài sau, tùy theo mức độ vi phạm: buộc thực hiện
đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp
đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng; các biện pháp khác.
- Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp: xảy ra trường hợp
miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; xảy ra sự kiện bất khả kháng; hành vi vi
phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực
22


hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không biết

được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
- Trong trường hợp bên vi phạm không chứng minh được hành vi vi phạm của mình thuộc
trường hợp miễn trách thì bị áp dụng các hình thức chế tài trên.
1.2.2.5 Tranh chấp và giải quyết tranh chấp
Những tranh chấp có thể xảy ra trong các hợp đồng dịch vụ là những tranh
chấp về việc các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết, chẳng hạn như:
khách du lịch không chịu thanh toán đầy đủ chi phí, không chấp hành quy định của
đoàn du lịch, quy định của Công ty du lịch, không có trách nhiệm trong việc duy trì
trật tự kỷ luật của chuyến đi, đối với du khách nước ngoài thì vi phạm pháp luật của
nước đến du lịch…, Còn từ phía Công ty du lịch thì không đáp ứng đầy đủ các nghĩa
vụ như cam kết trong hợp đồng gây thiệt hại cho hành khách như: không đảm bảo an
toàn cho hành khách, điều kiện, chất lượng dịch vụ không đảm bảo như cam kết, có sự
lừa dối khách hàng….
Đa số các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Tranh chấp nảy sinh khi một trong
hai bên hoặc cả hai bên không thực hiện đúng những cam kết như đã nêu trong hợp
đồng. Cụ thể như, Công ty sau khi ký hợp đồng không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
đã cam kết, tự ý huỷ bỏ hợp đồng, thay đổi địa điểm du lịch, chất lượng bữa ăn không
được đảm bảo, tuỳ tiện thay đổi lịch trình của đoàn du lịch.
Việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu kiến nghị của khách du lịch đầu tiên
phải được gửi đến tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch hoặc tổ chức tiếp nhận yêu cầu
kiến nghị của khách du lịch theo khoản 2 Điều 86 LDL để giải quyết hoặc chuyển đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp tổ chức cá nhân kinh doanh
du lịch, tổ chức tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch quy định tại khoản 2
Điều 86 không giải quyết hoặc khách du lịch không đồng ý với việc giải quyết đó thì
có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật.

23


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU LỊCH
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN ĐÔNG DƯƠNG
2.1 Tổng quan tình hình pháp luật điều chỉnh hợp đồng
dịch vụ du lịch
Hệ thống pháp luật du lịch Việt Nam hiện hành bao gồm hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật trực tiếp hay gián tiếp điều chỉnh các hoạt động du lịch. Có thể
nói, hệ thống pháp luật du lịch về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu của sự phát
triển du lịch trong nước cũng như thực hiện các cam kết quốc tế về du lịch. Điều này
thể hiện qua các ưu và nhược điểm sau:
2.1.1 Ưu điểm
Trước hết, LDL đã đáp ứng được yêu cầu thể chế hóa chủ trương, chính sách
phát triển du lịch của Đảng để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cũng
như đáp ứng được nhu cầu phát triển và tiến trình hội nhập của Việt Nam. Luật đã bổ
sung, điều chỉnh nhiều nội dung chưa được quy định hoặc đã trở nên bất cập
trong Pháp lệnh Du lịch 1999.
Hệ thống pháp luật du lịch nhìn chung đã thể hiện sự linh động, cập nhật kịp
thời các quy phạm phù hợp với luật chung, luật mới và phù hợp với thực tiễn phát triển
du lịch. Điều này được thể hiện khá rõ qua hàng loạt văn bản sửa đổi, bổ sung ra đời
trong những năm gần đây, như: Nghị định 180/2013 sửa đổi Nghị định 92/2007; Nghị
định 158/2013 thay thế Nghị định16/2012,...
Việc ban hành văn bản pháp luật du lịch ngày càng thể hiện sự khoa học và
trình độ pháp điển hóa cao, thông qua việc một văn bản ra đời thay thế cho nhiều văn
bản. Chẳng hạn, Nghị định 92/2007 hướng dẫn thi hành LDL (thay thế cho 3 Nghị
định: 39/2000, 45/2000 và 27/2001); Nghị định 158/2013 về xử phạt vi phạm hành
chính (thay thế 3 Nghị định là 75/2010, 16/2012, 37/2012 và sửa đổi 5 Nghị định trước đó).
2.1.2 Hạn chế
Ngoài những đóng góp rất lớn của pháp luật du lịch trong những năm qua đối
với lĩnh vực này, chúng ta cần khách quan nhìn nhận một số điểm chưa ổn xét trên
phương diện ban hành và thực hiện pháp luật du lịch. Chẳng hạn:

Thứ nhất, việc ban hành văn bản pháp luật còn tư duy cục bộ và thiếu tính dự báo.
Chính điểm yếu này đã khiến cho văn bản pháp luật vừa được ban hành đã trở
nên lạc hậu, cần phải cập nhật, sửa đổi ngay, kéo theo hệ quả là làm mất tính ổn định
của pháp luật. Nhất là vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.
24


Ví dụ như Nghị định 16/2012 vừa có hiệu lực vào ngày 30/4/2012 thì chỉ hơn
một năm sau (ngày 12/11/2013), Nghị định 158/2013 lại được ban hành, thay thế nó.
Dẫu biết rằng Nghị định 158/2013 được ban hành theo tư duy mới, thể hiện trình độ
pháp điển hóa cao (thông qua việc sáp nhập 3 văn bản xử phạt vi phạm hành chính
trong cả 3 lĩnh vực tương ứng do Bộ Văn hóa- Thể thao & Du lịch quản lý) nhưng lẽ ra
sự sáp nhập này phải được thực hiện ngay từ khi ban hành Nghị định 16/2012. Bởi lẽ,
việc quản lý ba lĩnh vực nói trên đã được sáp nhập từ tháng 7/2007 nhưng mãi đến
năm 2013, Chính phủ mới sáp nhập ba nghị định xử phạt này thành một.
Riêng văn bản LDL đến nay cũng đã bộc lộ một số hạn chế, cần được sửa đổi
bổ sung. Nhiều quy phạm còn thiếu, chưa phù hợp với thực tiễn trong nước và cam kết
quốc tế. Từ ngữ trong Luật có đôi chỗ diễn đạt chưa chính xác và thống nhất...
Thứ hai, tiến độ ban hành văn bản hướng dẫn còn chậm, làm mất tính đồng bộ.
Mặc dù các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã tích cực ban hành các văn bản
pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động du lịch nhưng công tác xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật thời gian qua vẫn chưa đáp ứng so với yêu cầu cuộc sống.
Hiện tượng Luật chờ Nghị định, Nghị định chờ Thông tư vẫn cứ diễn ra. Chính điều
này đã khiến cho hệ thống pháp luật mất tính đồng bộ, vì phải lấy văn bản hướng dẫn
cũ gắn vào luật mới.
Khảo sát thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch từ khi
có Pháp lệnh Du lịch 1999 ta thấy thời gian văn bản chính chờ văn bản hướng dẫn
ngắn nhất là 6 tháng và dài nhất là 36 tháng. Riêng trong giai đoạn từ khi có LDL năm
2005 đến nay, con số này có khi là 18 hay 21 tháng.
Thứ ba, việc áp dụng pháp luật trong du lịch vẫn còn hạn chế và thiếu nhất

quán:
Việc áp dụng pháp luật trong du lịch nói riêng cũng như trong công tác quản lý
nhà nước nói chung vẫn còn hạn chế và chưa có sự thống nhất. Điều đó cho thấy tính
pháp chế bị vi phạm và nhà quản lý sẽ không nhận được sự đồng thuận từ xã hội. Ví
dụ tiêu biểu là sự kiện tái thành lập Sở Du lịch Tp.HCM, theo Quyết định số
32/2014/QĐ-UBND ngày 16/10/2014 của UBND Tp. Hồ Chí Minh. Có nhiều ý kiến
bình luận về sự kiện trên nhưng có lẽ không cần bàn thêm trong phạm vi bài viết này.
Nhìn chung, hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ du
lịch (quy định tại LDL 2005, Luật Dân sự 2005 và LTM 2005) quy định khá đầy đủ
các nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của bên cung ứng dịch vụ và
khách hàng; vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng cũng như các chế tài được áp dụng
khi tranh chấp xảy ra. Bên cạnh đó còn không ngừng được nghiên cứu, sửa đổi, bổ
25


×