Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Thích một bài thơ trước hết là thích một cách nhìn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.39 KB, 6 trang )

Thích một bài thơ trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một
cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người.
Trình bày suy nghĩ về câu nói.
Mở bài:
Âm điệu những vần thơ tự bao giờ đã ngân vang trong trái tim. Là giọng ru ngọt
ngào của mẹ, là câu thơ dậy lên màu xanh mướt của ruộng đồng, là tiếng ca lảnh
lót của niềm yêu đời… Mỗi bài thơ mở ra một hình sắc riêng, một cảm xúc
riêng về thế giới. Nhận xét về sức quyến rũ của thi ca, nhà phê bình Hoài Thanh
cho rằng: “Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn,
một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một
con người”.

Thân bài:
Cảm nhận thơ ca đòi hỏi một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm. Một bài thơ là nguồn
phát ra những tần sóng dao động phong phú, mà mỗi người đọc tuỳ sở trường,
cách nghĩ riêng sẽ lấy tần số tâm hồn mình mà giao thoa. Thích một bài thơ, có
ai giống ai đâu. Tuy nhiên, có thể tạm qui về những tiêu chuẩn nào đó.

Ý kiến của Hoài Thanh thật là có lí: Thích một bài thơ… trước hết là thích một
cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là
thích một con người. Thích là trạng thái, sắc độ cảm xúc yêu mến, nghiêng về
cảm tính, khoái cảm. Đứng trước một bài thơ mà như bị nam châm hút, ấy là
thích vậy. Nói thích một bài thơ có nghĩa là tác phẩm ấy phải có sức hấp dẫn
riêng. Có nhiều yếu tố để gợi ra đam mê nghệ thuật, theo người viết, trước hết là
một cách nghĩ, một cách xúc cảm tức sức hấp dẫn về nội dung; một cách nói
hay sức hấp dẫn từ hệ thống các phương tiện biểu đạt.

Tựu trung lại là thích một con người. Con người ở đây không đơn thuần hay
đồng nhất với con người ngoài đời mà đó là một cá tính văn chương, một gương



mặt nghệ thuật riêng. Như vậy, bằng năng lực cảm nhận thơ tinh tế, nhà phê
bình đã nói lên một khía cạnh trong vẻ đẹp thơ, đó là sự sáng tạo. Chữ một điệp
lên như một nốt nhấn, làm nổi bật tính duy nhất, riêng có của
tác phẩm nghệ thuật. một con người thực chất là phong cách nghệ thuật.

Trong xã hội có vô vàn những cá tính, hình hài riêng thì trong thơ cũng vậy,
muôn hình muôn vẻ. Sẽ ra sao nếu bài thơ nào cũng nhác giống nhau? Văn
chương sẽ đi về đâu nếu tác phẩm này là bản sao của tác phẩm kia? Khi ấy, liệu
người đọc có còn say mê ngâm nga những dòng thơ. Cho nên, một bài thơ hay,
có sức sống, theo Hoài Thanh, gồm nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải mới mẻ,
độc đáo, in dấu một phong cách riêng biệt. Mỗi tứ thơ phải như viên ngọc long
lanh, lấp lánh toả ra thứ ánh sáng riêng. Nó cuốn người đọc vào tâm xoáy của
cảm xúc, làm say mê bằng nhịp điệu, ngôn ngữ. Sáng tạo có thể xem là yếu tố
đầu tiên của thơ hay vậy.

Xuất phát từ suy nghĩ cá nhân, song dường như bằng sự trải nghiệm của một đời
nghiên cứu, Hoài Thanh đã đồng cảm được những trăn trở của nhiều người đọc
khi đến với một bài thơ hay. Ai từng băn khoăn trước một câu ca dao ngọt ngào,
từng say đắm một vần thơ sẽ rất thấm thía điều này. Quy luật tiếp nhận cho thấy
dường như có một vận động trái ngược. Những tác phẩm không có gì mới sẽ bị
thời gian đào thải. Nhắc đi nhắc lại điều đã cũ, diễn lại một vài cách rất quen,
cũng giống như con khướu, con vẹt bắt chước tiếng người; sớm muộn ngày một
ngày hai sẽ phôi pha.

Lại có những tác phẩm mãi tồn tại như một dấu khắc trong trái tim muôn người,
không thôi được luận bàn. Nó ẩn chìm bao tầng sâu ngữ nghĩa, bao lớp ngôn từ
độc đáo mà mỗi người đọc bằng sự tìm tòi riêng sẽ thấy những tầng nghĩa lấp
lánh. Không phải ngẫu nhiên mà Leptônxtôi từng tâm niệm: khi đứng trước một
nhà văn, điều đầu tiên chúng ta bao giờ cũng hỏi liệu anh ta có đem đến một cái
nhìn mới, một cách thể hiện mới hay không?



Hình ảnh đất nước quyện trong nỗi nhớ hương cốm mới, từng ngỡ ngàng vì sao
một chút hương mong manh thế, thảng hư thế mà vương được hồn quê từng làm
me hoặc biết bao tâm hồn. Cứ ngỡ đó là một đất nước đẹp nhất. Vậy mà đến với
chương V Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước một lần nữa
sống dậy trong ta. Gần gũi mà thiêng liêng. Quá khứ trong hiện tại. Vô hình
trong hữu hình. Đất nước đâu gì xa lạ mà ngay trong miếng trầu bây giờ bà ăn.
Câu thơ nghiêng nghiêng cái nhìn của huyền thoại, của truyền thống văn hoá từ
nghìn đời. Mới hay, mỗi bài thơ là một hình sắc riêng. Người đọc đến với tác
phẩm là để tìm những suy nghĩ sâu sắc, thấm thía một cách nhìn, một cách nghĩ,
một cách xúc cảm say mê trong khoái cảm thẩm mĩ mà một cách nói đem lại.

Ý kiến của nhà phê bình có lẽ cũng có nguyên cớ từ bản chất sáng tạo của lao
động nghệ thuật. Con chim cất tiếng hót mong lưu lại giọng ca lảnh lót. Nghệ sĩ
cầm bút ai chẳng nguyện đem đến một tiếng nói mới mẻ, độc đáo. Sáng tác
nghệ thuật không phải là công việc sản xuất hàng loạt. Nó là sản phẩm cá thể, cá
nhân thi sĩ làm. Tác phẩm càng không phải là sự cộng ghép giản đơn từ người
này hay người khác.

Sẽ ra sao nếu tác phẩm này song sinh với tác phẩm kia. Lối đi của văn chương
muôn đời không phải con đường thẳng duy nhất, nó là vô vàn ngã rẽ, là đại
dương dạt dào hợp lưu từ muôn dòng chảy. Không sáng tạo, lặp lại người, lặp
lại mình kể như là cái chết của nghệ thuật vậy. Làm sao để từ một nguồn vút lên
những âm thanh, từ một cung đàn ngân bao cung bậc. Eptusencô có lí khi nói
rằng: tự tử với đời nghệ sĩ không phải phát súng hay sợi dây thừng mà khi ngồi
vào bàn viết, không đem đến một cái gì mới mẻ thì hoá ra anh đã tự tử từ lâu
rồi.

Nhìn vào lịch sử văn chương có thể thấy diện mạo đa dạng, phong phú của các

gương mặt nghệ thuật. Điều này lí giải vì sao thơ ca cho đến bây giờ vẫn là sự
hấp dẫn vĩnh viễn, vẫn không ngừng sinh sắc. Cùng viết về tình yêu, trái tim
nghệ sĩ Tagor muốn dành cho người yêu tất cả những gì đẹp nhất, có đôi mắt
nào băn khoăn nhìn vào thăm thẳm trái tim người thương để suy tư, để trăn trở.
Còn Puskin, một trái tim hồn hậu, vị tha, vừa bốc men say sưa vừa dịu lắng vào
lí trí tỉnh táo lại tìm đến lẽ cao thượng: “Cầu em được người tình như tôi đã yêu


em”. Không lặp lại người khác đã đành, sáng tạo nghệ thuật cũng không chấp
nhận sự lặp lại của một cá nhân.

Bởi đâu cùng viết về mùa thu đồng bằng Bắc bộ mà mỗi bài thơ trong chùm ba
của Nguyễn Khuyến vẫn làm bao trái tim người rung động. Một thoáng thẹn,
một chút bâng khuâng ngơ ngẩn trong Thu vịnh. Một chút man mác buồn của
những câu thơ ngậm nỗi niềm thời thế trong Thu điếu. Một mình một chén mắt
đỏ hoe trong Thu ẩm. Ấy là tâm hồn Yên Đổ, tài năng Yên Đổ. Trái tim nghệ sĩ
như dây dăng giữa đất trời, chút gió thoảng qua, làm sao chẳng ngân rung một
nhịp riêng. Thế nên một điệu tâm hồn mà vút lên nhiều cung bậc, ba bài thơ thu
mà bài nào cũng thoát bay một ý vị riêng, một sức hấp dẫn riêng. Mới thấm thía
muôn đời là sự đi về của sáng tạo.

Từ trái tim đến trái tim, thơ bắc nhịp cầu giao cảm bằng những nghĩ suy sâu sắc.
Hấp dẫn người đọc, thơ trước hết phải có một cách nhìn, một cách nghĩ, một
cách xúc cảm là như vậy. Song chẳng lẽ chỉ cảm xúc mãnh liệt là đủ thôi sao?
Thơ cần có đôi cánh nghệ thuật để nâng đỡ sức mạnh trái tim. Sự hài hoà giữa
nội dung và hình thức mãi là qui luật văn chương muôn đời vậy.

Thơ rất cần những ý tứ sâu sắc, những ý tứ ấy phải được chuyển tải trong một
hệ thống các phương tiện biểu hiện độc đáo. Thế nên có nhà thơ từng tâm niệm:
Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác. Một suy nghĩ rất sâu sắc nếu chuyển tải trong

hình thức vụng về sẽ không đủ sức hấp dẫn. Lớp ngôn từ sắc sảo mà thiếu đi vẻ
đẹp nội dung cũng phù phiếm như bông hoa làm bằng vỏ bào vậy. Đọc thơ
Xuân Hương, người đọc như bị cuốn vào tâm xoáy của bão táp cảm xúc. Dẫu là
tiếng thơ trào lộng hay lắng vào tâm tình sâu xa thì nổi lên vẫn là một cá tính
ngang tàng. Ngôn ngữ thơ gai góc, gập ghềnh như cái đứt gãy tự bên trong trái
tim nữ sĩ.

Nếu thơ Bà Huyện Thanh Quan cổ kính, trang nhã như một tòa thành, một lâu
đài thì thơ Xuân Hương tươi sắc, phong phú như đồng ruộng, nước non. Một cá
tính mạnh mẽ đâu thể dung hợp trong thi pháp tĩnh tại mà phải dồn trong thế
giới thơ sống động. Người ta yêu thích thơ nữ sĩ họ Hồ có lẽ cũng bởi lần đầu


tiên sự sống sinh sắc như thế trong thơ. Bông hoa làm say lòng người bởi hương
thơm và màu sắc. Thơ giữ mãi ngọn lửa rực cháy qua bao thế hệ một phần bởi
sức sáng tạo kì diệu của nó.

Đã bao lần đứng trước mùa thu, lắng nghe nhịp đến nhịp đi của mùa lòng không
khỏi bâng khuâng, náo nức mà không sao nói lên lời. Chỉ khi đến với những vần
thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu…mới thấy từng nhịp thổn thức đang lắng trong
từng con chữ. Song không phải vì cùng một đề tài mà hai nhà thơ chỉ có nét
giống nhau. Đọc Thu vịnh và Đây mùa thu tới, ta vẫn nhận ra những xao xuyến
riêng. Thu của cụ Tam Nguyên là mùa thu ở nông thôn, đượm vẻ buồn đồng
ruộng, còn thu của Xuân Diệu lại bâng khuâng cái cảm xúc thị thành. Một bên
mùa thu đã hoàn tất còn một bên thu vừa mới chớm. Một bên trước thu mà gợi
tình, một bên tìm cảm xúc vương mang trong nhịp bước của nàng thu. Một bên
là đối khách còn bên này là kẻ đi tìm mình trong thu. Ngay cảnh vật thôi, cách
miêu tả thật khác. Ám ảnh đến thế màu xanh vời vợi trong thơ cổ nhân:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”

Một màu xanh ngắt là cái cao rộng, không cùng của đất trời cũng là điểm xoáy
đậm đặc của con mắt yêu say. Không gắn bó với quê hương, thi sĩ có lẩy ra
được từ đất trời một màu xanh thăm thẳm đến thế. Người Việt Nam ai chẳng
một lần rung động trước màu xanh ấy. Cũng là sắc thu nhưng cảm quan thi sĩ
Thơ mới lại bắt được khoảnh khắc thu phôi phai trong sắc lá: “Với áo mơ phai
dệt lá vàng”.

Mơ phai là màu gì? Không rõ. Câu thơ nhập nhoà giữa thực và hư. Đó là cái
nhoè đi của cảm xúc hay cảnh vật đang sinh sắc trong thơ. Cũng là màu vàng
từng in dấu qua bao tác phẩm thi ca cổ điển, nhưng bước vào thơ Xuân Diệu nó
lại tái sinh một sắc mới. Ấy là màu của mùa thu hay là màu sắc trái tim nghệ sĩ.
Nếu Thu vịnh đem đến một mùa thu gợi cảm, tinh tế bằng bút pháp cổ điển thì


Đây mùa thu tới lại hấp dẫn bằng bút pháp tả thực. Người đọc chạm đến từng
con chữ là chạm tới bước đi của mùa.

Cảnh đã khác, tình cũng đổi thay. Khoảnh khắc thu sang, thi sĩ họ Nguyễn
chạnh một chút bâng khuâng, một cái thẹn vút lên nhân cách sáng ngời. Tiếng
ngỗng giữa không trung rơi vào khoảng lặng vắng chơi vơi của trái tim người.
Chút ngẩn ngơ, bâng khuâng ấy chẳng phải còn mãi ám ảnh người đọc hay sao.
Với thi sĩ Thơ mới, cảm xúc không nghiêng về nỗi niềm ưu thời mẫn thế của cổ
nhân mà man mác sầu buồn. Tâm trạng đi chênh vênh giữa náo nức và tủi sầu.
Cái động thái tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì khép lại bài thơ mà vẫn để lại giữa
không cùng một cái nhìn vô định, mông lung.

Thế đấy, mùa thu bao lần đi qua, mỗi khoảnh khắc trái tim thi sĩ lại rung lên một
nhịp riêng. Giữa bao vần thơ thu, mãi đi về trong trái tim ta một Thu vịnh, một

Đây mùa thu tới. Có phải những tác phẩm ấy đã hấp dẫn chúng ta, mãi sinh sắc,
xanh tươi bởi mạch nguồn sáng tạo. Thế mới hay thích một bài thơ…trước hết
là thích một con người. Một Nguyễn Khuyến lắng vào thâm trầm. Một Xuân
Diệu băn khoăn gửi cái buồn vương vất vào hư không.

Kết bài:
Ý kiến của Hoài Thanh nhấn vào cái hấp dẫn trước hết của một bài thơ. Làm
nên vẻ đẹp một bài thơ có nhiều yếu tố: tính dân tộc, tính nhân loại…nhưng cái
tiên quyết vẫn là gương mặt nghệ thuật riêng. Có những bài thơ sáng tạo, hấp
dẫn người đọc bằng chính sự chân thành. Thêm nữa, sáng tạo bao giờ cũng phải
có gốc rễ sâu xa từ truyền thống. Cho nên, thích thú một bài thơ vì nó là mạch
chảy bắt nguồn từ truyền thống vậy. Suy nghĩ của Hoài Thanh không chỉ hợp lí
cho sự tiếp nhận thơ nói riêng mà với cả văn học nói chung. Càng thấm thía bài
học với nghệ sĩ: muốn tạo ra những tác phẩm có giá trị, có sức sống phải sáng
tạo. Vẫn âm vang mãi nhịp mùa thu trong những vần thơ ấy.



×