Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 10152:2013 - IEC 62301:2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.96 KB, 34 trang )

TIÊU CHUẨN QUỐC GIA
TCVN 10152:2013
IEC 62301:2011
THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG - ĐO CÔNG SUẤT Ở CHẾ ĐỘ CHỜ
Household electrical appliances - Measurement of standby power
Lời nói đầu
TCVN 10152:2013 hoàn toàn tương đương với IEC 62301:2011;
TCVN 10512:2013 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC/E1 Máy điện và khí cụ điện
biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công
bố.
Lời giới thiệu
Các phương pháp xác định trong tiêu chuẩn này dùng cho các chế độ công suất thấp. Các
phương pháp này không sử dụng để đo công suất tiêu thụ của các sản phẩm trong chế độ hoạt
động (còn gọi là “on mode”) vì chúng thường nằm trong các tiêu chuẩn IEC hoặc tiêu chuẩn sản
phẩm khác (xem tài liệu viện dẫn) mặc dù vậy các kỹ thuật đo, xác định độ không đảm bảo đo và
các yêu cầu kỹ thuật thử nghiệm có thể được chấp nhận cho những phép đo này nhưng cần xem
xét cẩn thận.
THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG - ĐO CÔNG SUẤT Ở CHẾ ĐỘ CHỜ
Household electrical appliances - Measurement of standby power
1. Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này quy định các phương pháp đo công suất tiêu thụ điện ở các chế độ chờ và chế
độ công suất thấp khác (chế độ tắt và chế độ mạng) tùy theo từng trường hợp. Tiêu chuẩn
này áp dụng cho các sản phẩm điện có điện áp vào danh định hoặc dải điện áp vào danh định
nằm hoàn toàn hoặc một phần trong dải từ 100 V xoay chiều đến 250 V xoay chiều đối với các
sản phẩm một pha và từ 130 V xoay chiều đến 480 V xoay chiều đối với các sản phẩm khác.
Mục đích của tiêu chuẩn này nhằm đưa ra phương pháp thử nghiệm để xác định công suất tiêu
thụ của một loạt sản phẩm ở chế độ công suất thấp liên quan (xem 3.4), thường là khi sản
phẩm không ở chế độ hoạt động (tức là không thực hiện chức năng chính của nó).
CHÚ THÍCH 1: Phép đo năng lượng tiêu thụ và tính năng của sản phẩm trong quá trình sử dụng
dự kiến thường được quy định trong các tiêu chuẩn sản phẩm liên quan mà không được đề cập
trong tiêu chuẩn này.


CHÚ THÍCH 2: Thuật ngữ “sản phẩm” trong tiêu chuẩn này nghĩa là sản phẩm sử dụng năng
lượng ví dụ như thiết bị điện gia dụng hoặc thiết bị khác thuộc lĩnh vực của Ban kỹ thuật IEC/TC
59 Tính năng của thiết bị điện gia dụng và thiết bị điện tương tự. Tuy nhiên, phương pháp đo có
thể áp dụng cho các sản phẩm khác.
CHÚ THÍCH 3: Trong trường hợp tiêu chuẩn này được viện dẫn bởi các tiêu chuẩn tính năng
hoặc các qui trình thì các tiêu chuẩn hoặc qui trình này cần xác định và gọi tên các chế độ công
suất thấp liên quan (xem 3.4) áp dụng cho qui trình thử nghiệm đó.
CHÚ THÍCH 4: Việc đưa các sản phẩm được cấp điện một chiều vào phạm vi áp dụng của tiêu
chuẩn này đang được xem xét.
Tiêu chuẩn này không quy định yêu cầu về an toàn. Tiêu chuẩn này không quy định các yêu cầu
về tính năng tối thiểu và cũng không đặt ra các giới hạn tối đa về công suất hoặc năng lượng tiêu
thụ.


2. Tài liệu viện dẫn
Các tài liệu viện dẫn sau là cần thiết cho việc áp dụng tiêu chuẩn. Đối với các tài liệu viện dẫn ghi
năm công bố thì áp dụng bản được nêu. Đối với các tài liệu viện dẫn không ghi năm công bố thì
áp dụng phiên bản mới nhất, bao gồm cả các sửa đổi.
TCVN 8095-300 (IEC 60050-300), Từ vựng kỹ thuật điện quốc tế - Chương 300: Phép đo và
dụng cụ đo điện và điện tử
IEC 60050-131, International Electrotechnical Vocabulary (IEV) - Part 131: Circuit theory (Từ
vựng kỹ thuật điện quốc tế (IEV) - Phần 131: Lý thuyết mạch)
3. Thuật ngữ và định nghĩa
Tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và định nghĩa có trong IEC 60050-131 và TCVN 8095-300
(IEC 60050-300) và các thuật ngữ và định nghĩa dưới đây.
3.1. Chức năng (function)
Hoạt động đã xác định trước được thực hiện bởi sản phẩm sử dụng năng lượng. Chức năng có
thể được điều khiển bởi sự tương tác của người sử dụng, của hệ thống kỹ thuật khác, của bản
thân hệ thống, từ các đầu vào đo được từ môi trường và/hoặc thời gian.
Trong tiêu chuẩn này, chức năng được chia làm 4 loại chính:

● chức năng phụ do người sử dụng định hướng (xem 3.6 - chế độ chờ)
● chức năng phụ liên quan đến mạng (xem 3.7 - chế độ mạng)
● chức năng chính (xem 3.8 - chế độ hoạt động, không phải là trọng tâm của tiêu chuẩn này)
● các chức năng khác (các chức năng này không ảnh hưởng đến việc phân loại chế độ)
CHÚ THÍCH: Danh mục các chức năng điển hình của các sản phẩm được đề cập trong Phụ lục
A. Việc ghi lại chính xác và lập tài liệu các chức năng trong chế độ sản phẩm liên quan là yếu
tố then chốt về lập tài liệu trong tiêu chuẩn này (xem 6.3). Các loại chức năng thường được
phân loại là chính hoặc phụ (từ xa, mạng, cảm biến và bảo vệ).
3.2. Chế độ (mode)
Trạng thái không có chức năng, có một chức năng hoặc kết hợp của nhiều chức năng.
CHÚ THÍCH 1: Việc phân loại chế độ công suất thấp trong tiêu chuẩn này nhằm cung cấp
hướng dẫn để xây dựng các định nghĩa về chế độ cụ thể cho các sản phẩm.
CHÚ THÍCH 2: Phụ lục A đưa ra hướng dẫn về các chế độ có thể có trong các cấu hình và thiết
kế sản phẩm khác nhau dựa trên mạch điện và sơ đồ bố trí của chúng nhưng không xác định các
chế độ này. Phụ lục A cũng đưa ra cơ sở và hướng dẫn cho người sử dụng tiêu chuẩn này liên
quan đến việc xây dựng các định nghĩa về chế độ cho các sản phẩm cụ thể.
CHÚ THÍCH 3: Xem Phụ lục C về các ví dụ cách tính tổng năng lượng tiêu thụ từ các phép đo
công suất khi đã biết thời gian của từng chế độ.
3.3. Chế độ sản phẩm (product mode)
Chế độ trong đó có các chức năng, nếu có, và việc chúng có được kích hoạt hay không phụ
thuộc vào cấu hình cụ thể của sản phẩm.
CHÚ THÍCH: Việc đặt tên gọi thích hợp cho các chế độ sản phẩm là một vấn đề đối với các ban
kỹ thuật khi xây dựng tiêu chuẩn cho các sản phẩm liên quan. Mặc dù tên gọi của chế độ sản
phẩm thường phản ánh các chức năng được kích hoạt nhưng chúng không nhất thiết phải có
các thuật ngữ “chờ” hoặc “mạng” ngay cả trong trường hợp chế độ sản phẩm nằm trong các
loại chế độ này.
3.4. Chế độ công suất thấp (low power mode)
Chế độ sản phẩm thuộc một trong các loại chế độ sau:



● (các) chế độ tắt
● (các) chế độ chờ
● (các) chế độ mạng
CHÚ THÍCH 1: Các chế độ công suất thấp được chia thành một trong các loại chế độ trên
(trong trường hợp thuộc đối tượng áp dụng) dựa trên cơ sở có các chức năng và được kích
hoạt trong từng chế độ liên quan. Trong trường hợp có các chức năng khác trong chế độ sản
phẩm (ngoài các chức năng yêu cầu đối với các loại chế độ được quy định ở trên), các chức
năng này không ảnh hưởng đến việc phân loại chế độ.
CHÚ THÍCH 2: Các loại chế độ công suất thấp được xác định để đưa ra hướng dẫn cho người
sử dụng tiêu chuẩn này và để đưa ra một khung nhất quán cho việc xây dựng các chế độ công
suất thấp.
CHÚ THÍCH 3: Bất kỳ việc chuyển đổi nào xảy ra giữa các chế độ, do sự can thiệp của người sử
dụng hoặc tự động, đều không được xem là một chế độ.
CHÚ THÍCH 4: Không phải tất cả các loại chế độ công suất thấp đều có trên mọi sản phẩm.
Một số sản phẩm có thể có nhiều hơn một chế độ sản phẩm trong mỗi loại chế độ công suất
thấp với việc kết hợp khác nhau các chức năng được kích hoạt. Công suất tiêu thụ trong từng
chế độ công suất thấp phụ thuộc vào thiết kế của sản phẩm và các chức năng được kích hoạt
trong chế độ sản phẩm cụ thể.
3.5. Chế độ tắt (off mode)
Chế độ sản phẩm bất kỳ trong đó sản phẩm sử dụng năng lượng được nối vào nguồn công suất
lưới và không cung cấp bất kỳ chức năng nào ở chế độ chờ, chế độ mạng hoặc chế độ hoạt
động và ở đó chế độ này thường được duy trì. Bộ chỉ thị chỉ để chỉ ra cho người sử dụng rằng
sản phẩm đang ở vị trí tắt thuộc phân loại của chế độ tắt.
CHÚ THÍCH: Hướng dẫn về các chế độ và chức năng được nêu trong Phụ lục A.
3.6. Chế độ chờ (standby mode)
Chế độ sản phẩm bất kỳ trong đó sản phẩm sử dụng năng lượng được nối vào nguồn lưới và
cho một hoặc nhiều chức năng được người sử dụng định hướng dưới đây hoặc chức năng bảo
vệ mà thường được duy trì
● tạo thuận lợi cho việc kích hoạt các chế độ khác (kể cả kích hoạt hoặc không kích hoạt chế độ
hoạt động) bằng cơ cấu đóng cắt từ xa (kể cả bộ điều khiển từ xa), cảm biến bên trong, bộ định

thời gian;
● chức năng liên tục: hiển thị thông tin hoặc hiển thị trạng thái kể cả đồng hồ;
● chức năng liên tục: các chức năng dựa vào cảm biến
CHÚ THÍCH: Hướng dẫn về chế độ và chức năng có trong Phụ lục A. Bộ định thời gian là chức
năng đồng hồ liên tục (có thể kết hợp hoặc không kết hợp bộ hiển thị) cung cấp các nhiệm vụ
được lập lịch trình đều đặn (ví dụ như đóng cắt) và hoạt động liên tục.
3.7. Chế độ mạng (network mode)
Chế độ sản phẩm bất kỳ trong đó sản phẩm sử dụng năng lượng được nối vào nguồn lưới và ít
nhất có một chức năng mạng được kích hoạt (ví dụ như kích hoạt lại thông qua yêu cầu mạng
hoặc truyền thông tích hợp mạng) nhưng trong đó chức năng chính không hoạt động.
CHÚ THÍCH: Trong trường hợp có chức năng mạng nhưng không hoạt động và/hoặc không
được nối vào mạng thì không áp dụng chế độ này. Chức năng mạng có thể hoạt động một cách
gián đoạn theo lịch trình cố định hoặc để đáp ứng với yêu cầu mạng. "Mạng’’ trong trường hợp
này bao gồm sự giao tiếp giữa hai hoặc nhiều cơ cấu hoặc sản phẩm riêng rẽ được cấp nguồn
độc lập. Mạng không bao gồm một hoặc nhiều bộ điều khiển dành riêng cho một sản phẩm đơn
lẻ. Chế độ mạng có thể gồm một hoặc nhiều chức năng chờ.


3.8. Chế độ hoạt động (active mode)
Chế độ sản phẩm trong đó sản phẩm sử dụng năng lượng được nối vào nguồn lưới và ít nhất
một chức năng chính được kích hoạt.
CHÚ THÍCH: Các thuật ngữ thường được sử dụng như “bật”, “đang sử dụng” và “hoạt động bình
thường” cũng mô tả chế độ này.
3.9. Chế độ ngắt điện (disconnected mode)
Trạng thái trong đó tất cả các dây nối vào nguồn lưới của sản phẩm sử dụng năng lượng được
tháo ra hoặc được gián đoạn.
CHÚ THÍCH: Các thuật ngữ thường được sử dụng như “không cắm điện” hoặc “cắt nguồn lưới"
cũng mô tả chế độ này. Chế độ này không thuộc loại chế độ công suất thấp.
3.10. Điện áp danh định (rated voltage)
(Dải) điện áp cung cấp được nhà chế tạo ấn định.

3.11. Tần số danh định (rated frequency)
(Dài) tần số cung cấp được nhà chế tạo ấn định.
3.12. Hướng dẫn sử dụng (instructions for use)
Thông tin cung cấp cho người sử dụng sản phẩm.
CHÚ THÍCH: Hướng dẫn sử dụng có thể bao gồm sổ tay sử dụng và có thể ở dạng bản in hoặc
bản điện tử. Hướng dẫn sử dụng không bao gồm các hướng dẫn mà nhà cung cấp sản phẩm
cung cấp riêng cho phòng thử nghiệm cho mục đích thử nghiệm.
4. Điều kiện chung của phép đo
4.1. Yêu cầu chung
Nếu không có quy định khác thì phải thực hiện phép đo trong các điều kiện thử nghiệm và với
thiết bị đo được quy định ở các điều từ 4.2 đến 4.4.
4.2. Phòng thử nghiệm
Các thử nghiệm phải được thực hiện trong phòng có vận tốc không khí bao quanh sản phẩm cần
thử nghiệm 0,5 m/s. Nhiệt độ môi trường xung quanh phải duy trì ở (23 ± 5) oC trong quá trình
thử nghiệm.
Trong trường hợp sản phẩm có bộ cảm biến ánh sáng môi trường xung quanh ảnh hưởng đến
công suất tiêu thụ thì phải thực hiện thử nghiệm trong các điều kiện ánh sáng môi trường xung
quanh có khống chế. Trong trường hợp độ rọi được xác định từ bên ngoài (trong qui trình thử
nghiệm hoặc trong hướng dẫn sử dụng) thì phải sử dụng các giá trị này. Trong trường hợp
không công bố hoặc không xác định các độ rọi thì sử dụng độ rọi chuẩn >300 Ix và <10 Ix.
Thông tin về phương pháp sử dụng để đạt được các mức độ rọi trên, trong trường hợp có liên
quan, phải được ghi lại trong báo cáo thử nghiệm (xem 6.3). Trong trường hợp đã cho các giá trị
về độ rọi thì chúng phải được đo càng gần càng tốt với bộ cảm biến ánh sáng của sản phẩm.
CHÚ THÍCH: Công suất đo được đối với một số sản phẩm và các chế độ có thể bị ảnh hưởng
bởi các điều kiện môi trường xung quanh (ví dụ như độ rọi, nhiệt độ).
4.3. Nguồn công suất
4.3.1. Điện áp và tần số cung cấp
Trong trường hợp tiêu chuẩn này được tham chiếu trong tiêu chuẩn hoặc quy định quản lý khác
có quy định điện áp và tần số thử nghiệm thì điện áp và tần số thử nghiệm đó phải được sử dụng
cho tất cả các thử nghiệm.

Trong trường hợp điện áp và tần số thử nghiệm chưa được xác định trong tiêu chuẩn khác thì


điện áp thử nghiệm và tần số thử nghiệm phải là điện áp danh nghĩa và tần số danh nghĩa của
quốc gia thực hiện thử nghiệm với dung sai ± 1 % (xem Bảng 1).
CHÚ THÍCH: Có thể yêu cầu nguồn công suất ổn định để đáp ứng các yêu cầu này.
Bảng 1 - Chi tiết về nguồn điện danh nghĩa điển hình cho một số khu vực
Quốc gia/Khu vực

Điện áp danh nghĩa và tần số danh nghĩa-

Châu Âu

230 V, 50 Hz

Bắc Mỹ
Nhật Bản

115 V, 60 Hz
b

100 V, 50/60 Hz

Trung Quốc

220 V, 50 Hz

Úc và Niu Di Lân

230 V, 50 Hz


a

Các giá trị chỉ sử dụng cho điện một pha. Một số điện áp nguồn một pha có thể gấp đôi điện áp
danh nghĩa nêu trên (nấc giữa của máy biến áp). Điện áp giữa hai pha của hệ thống ba pha bằng
1,73 lần giá trị một pha. (ví dụ 400 V đối với Châu Âu). Do đó, các bội số này của giá trị điện áp
danh nghĩa liệt kê ở trên cũng là điện áp danh nghĩa đối với một số thiết bị ở một số thị trường (ví
dụ lò và máy sấy quần áo).
b

“50 Hz” áp dụng cho phía Đông và “60 Hz” đối với phía Tây của Nhật Bản.

CHÚ THÍCH: Điện áp danh nghĩa và tần số danh nghĩa của Việt Nam là 220 V, 50 Hz.
4.3.2. Dạng sóng điện áp cung cấp
Thành phần hài tổng của điện áp cung cấp khi cung cấp cho sản phẩm cần thử nghiệm ở chế độ
xác định không được vượt quá 2 % (đến và bằng hài bậc 13); thành phần hài được xác định là
căn bậc hai của tổng bình phương (r.m.s.) của các thành phần hài riêng rẽ sử dụng thành phần
cơ bản là 100 %. Giá trị của thành phần hài của điện áp cung cấp phải được ghi lại trong quá
trình thử nghiệm và được ghi vào báo cáo (xem 6.3).
Ngoài ra, tỷ lệ giữa giá trị đỉnh và giá trị hiệu dụng của điện áp thử nghiệm (tức là hệ số đỉnh) khi
cung cấp cho sản phẩm cần thử nghiệm phải nằm trong khoảng từ 1,34 đến 1,49.
CHÚ THÍCH: Nguồn công suất đáp ứng IEC 61000-3-2 có nhiều khả năng đáp ứng các yêu cầu
trên.
4.4. Thiết bị đo công suất
CHÚ THÍCH: Nhiều đồng hồ đo công suất cũng có thể ghi lại thành phần hài như yêu cầu ở
4.3.2.
4.4.1. Độ không đảm bảo đo của phép đo công suất
Mục này bao gồm các yêu cầu đối với độ không đảm bảo đo do thiết bị đo công suất gây ra khi
thử nghiệm trên sản phẩm cần thử nghiệm kể cả các điện trở sun bên ngoài.
Độ không đảm bảo đo cho phép lớn nhất của phép đo phụ thuộc vào cỡ tải và đặc tính tải. Đặc

tính then chốt của tải sử dụng để xác định độ không đảm bảo đo lớn nhất cho phép là tỷ số dòng
điện lớn nhất (MCR), được tính như sau:
Tỷ số dòng điện lớn nhất (MCR) =

Hệ số đỉnh (CF)
Hệ số công suất (PF)

trong đó
● Hệ số đỉnh (CF) là dòng điện đỉnh đo được từ sản phẩm chia cho dòng điện hiệu dụng đo được
từ sản phẩm;
● Hệ số công suất (PF) là đặc tính của công suất do sản phẩm tiêu thụ. Hệ số này là tỷ số giữa
công suất thực tế đo được và công suất biểu kiến đo được.


a) Độ không đảm bảo đo cho phép đối với các giá trị MCR

10

Đối với các giá trị công suất đo được lớn hơn hoặc bằng 1,0 W, độ không đảm bảo đo tương đối
cho phép lớn nhất do thiết bị đo công suất đưa vào, Umr, phải nhỏ hơn hoặc bằng 2 % giá trị công
suất đo được ở mức tin cậy 95 %.
Đối với các giá trị công suất đo được nhỏ hơn 1,0 W, độ không đảm bảo đo tuyệt đối cho phép
lớn nhất do thiết bị đo công suất đưa vào, Uma, phải nhỏ hơn hoặc bằng 0,02 W ở mức tin cậy 95
%.
b) Độ không đảm bảo đo cho phép đối với các giá trị MCR >10
Giá trị Upc phải được xác định theo công thức dưới đây:
Upc = 0,02 x [1 + (0,08 x {MCR -10})]
trong đó Upc là độ không đảm bảo đo tương đối cho phép lớn nhất đối với các trường hợp MCR
>10.
Đối với các giá trị công suất đo được lớn hơn hoặc bằng 1,0 W, độ không đảm bảo đo tương đối

cho phép lớn nhất do thiết bị đo công suất đưa vào phải nhỏ hơn hoặc bằng U pc ở mức tin cậy 95
%.
Đối với các giá trị công suất đo được nhỏ hơn 1,0W, độ không đảm bảo đo tuyệt đối cho phép
lớn nhất phải lớn hơn Uma (0,02 W) hoặc Upc khi thể hiện là độ không đảm bảo đo tuyệt đối tính
bằng W (Upc x giá trị đo được) ở mức tin cậy 95 %.
CHÚ THÍCH 1: Tốt nhất là thiết bị đo công suất phát hiện, chỉ thị, tạo tín hiệu và ghi lại các điều
kiện “ngoài dải” bất kỳ.
CHÚ THÍCH 2: Xem Phụ lục D và hướng dẫn thể hiện độ không đảm bảo đo (GUM) để có mô tả
chi tiết hơn.
CHÚ THÍCH 3: Mặc dù yêu cầu kỹ thuật đối với đồng hồ đo công suất liên quan đến hệ số đỉnh
cho phép không được đề cập ở đây nhưng điều quan trọng là dòng điện đỉnh của dạng sóng đo
được không vượt quá dòng điện đỉnh đo được cho phép trong dải được chọn, nếu không thì sẽ
không đạt được các yêu cầu về độ không đảm bảo đo ở trên. Xem B.1.2 ví dụ về cách tính toán
cho Upc và để có thêm thông tin.
Đối với các sản phẩm được nối đến hai pha trở lên thì thiết bị đo công suất phải có khả năng đo
công suất tổng của tất cả các pha được nối đến.
Trong trường hợp công suất được đo bằng phương pháp năng lượng tích lũy (xem 5.3.3) thì độ
không đảm bảo đo công suất tính được phải đáp ứng các yêu cầu trên.
4.4.2. Đáp tuyến tần số trong phép đo công suất
Thiết bị đo công suất phải có khả năng đáp ứng các yêu cầu ở 4.4.1 khi đo theo:
● điện một chiều
● điện xoay chiều với tần số nằm trong khoảng từ 10 Hz đến 2 000 Hz.
CHÚ THÍCH: Nếu đồng hồ đo công suất có chứa bộ lọc giới hạn băng thông thì phải có khả năng
lấy bộ lọc này ra được khỏi mạch đo.
4.4.3. Yêu cầu lấy trung bình dài hạn trong phép đo công suất
Trong trường hợp cần thực hiện phép đo theo 5.3.3, dụng cụ đo công suất phải có khả năng:
- đo công suất trung bình trong khoảng thời gian hoạt động được chọn bất kỳ, hoặc
- tích phân năng lượng trong khoảng thời gian hoạt động được chọn bất kỳ.
CHÚ THÍCH: Khả năng ghi dữ liệu (lấy mẫu) hoặc đầu ra đến một máy tính hoặc bộ ghi dữ liệu là
khả năng mong muốn nhất theo yêu cầu ở 5.3.2 - xem B.2.5 để có thêm thông tin.



5. Phép đo
5.1. Yêu cầu chung
Mục đích của phương pháp thử nghiệm này là xác định công suất tiêu thụ ở chế độ sản phẩm
liên quan, thường được duy trì hoặc tồn tại trong một khoảng thời gian giới hạn. Chế độ được
xem là duy trì khi mức công suất là không đổi hoặc trong trường hợp có một vài mức công suất
xuất hiện theo một trình tự đều đặn trong một khoảng thời gian không xác định.
CHÚ THÍCH 1: Trong quá trình chuyển đổi từ một chế độ này sang chế độ khác (tự động hoặc do
người sử dụng khởi động), một số thiết bị có thể chờ ở trạng thái công suất cao hơn trong khi
các nhiệm vụ chuyển đổi được thực hiện hoặc các mạch điện được đóng hoặc ngắt điện, vì vậy
có thể phải mất một khoảng thời gian để chúng đi vào trạng thái ổn định.
CHÚ THÍCH 2: Trong trường hợp chế độ sản phẩm này thay đổi tự động, đôi khi có thể cần tác
động đến sản phẩm thông qua một trình tự tự động trong một vài lần trên cơ sở thử để đảm bảo
rằng trình tự này được thông hiểu hoàn toàn và được tài liệu hóa trước khi kết quả thử nghiệm
được ghi lại và được báo cáo lại. Trình tự của các chế độ sản phẩm riêng rẽ cũng có thể thể
hiện một dạng đồ thị đều đặn của các mức công suất đang diễn ra. Xem Phụ lục B để có hướng
dẫn thêm.
CHÚ THÍCH 3: Mặc dù các chế độ thời gian giới hạn có thể được lập thành tài liệu bằng cách sử
dụng các phép đo trong tiêu chuẩn này thì các kết quả cho các chế độ này cần được báo cáo ở
dạng năng lượng tiêu thụ (Wh) và thời gian. Chế độ sản phẩm ổn định cần được duy trì mà
không có sự can thiệp của người sử dụng.
5.2. Chuẩn bị sản phẩm
Thử nghiệm trong tiêu chuẩn này được thực hiện trên một sản phẩm đơn lẻ.
Sản phẩm phải được chuẩn bị và bố trí theo hướng dẫn sử dụng trừ khi có mâu thuẫn với yêu
cầu của tiêu chuẩn này và/hoặc tiêu chuẩn tính năng của sản phẩm liên quan. Nếu không có
hướng dẫn sử dụng thì phải sử dụng các chế độ đặt của nhà máy hoặc chế độ “mặc định" hoặc
trong trường hợp không có chỉ dẫn cho các chế độ đặt này thì sản phẩm được thử nghiệm như
được cung cấp.
CHÚ THÍCH: Tiêu chuẩn sản phẩm thích hợp có thể là, ví dụ IEC 60436 (máy rửa bát) hoặc IEC

60456 (máy giặt).
Một khi sản phẩm đã được chọn và sẵn sàng để thử nghiệm thì phải theo các bước dưới đây và
lập tài liệu trong báo cáo thử nghiệm nếu áp dụng:
- lấy sản phẩm ra khỏi bao gói (nếu có);
- đọc hướng dẫn sử dụng và thiết lập cấu hình sản phẩm theo các hướng dẫn đó;
- xác định xem sản phẩm có chứa bộ cảm biến ảnh hưởng đến kết quả đo hay không, ví dụ cảm
biến ánh sáng môi trường xung quanh;
- xác định xem sản phẩm có chứa pin/acqui và sản phẩm có chứa mạch để nạp lại pin/acqui nạp
lại được hay không. Phải xác định xem có điều khoản pháp lý nào quy định các điều kiện cần áp
dụng trong trường hợp này hay không, nếu không có thì phải áp dụng như dưới đây. Đối với sản
phẩm có chứa mạch nạp lại, công suất tiêu thụ ở:
● chế độ tắt và chế độ chờ phải được đo sau khi đã thực hiện các phòng ngừa để đảm bảo
rằng pin/acqui không được nạp trong khi thử nghiệm, ví dụ bằng cách lấy pin/acqui ra, trong
trường hợp có thể, hoặc đảm bảo rằng pin/acqui được nạp đầy nếu pin/acqui không lấy ra được;
● chế độ duy trì phải được đo với pin/acqui được lắp và nạp đầy trước khi thực hiện các phép đo
bất kỳ.
- tham chiếu qui trình thử nghiệm sản phẩm liên quan, yêu cầu bên ngoài (ví dụ quy định kỹ
thuật) hoặc hướng dẫn sử dụng quy định (các) chế độ sản phẩm cần thử nghiệm (trong
trường hợp áp dụng). Các chế độ sản phẩm được thử nghiệm cần liên quan đến khách hàng và


đại diện cho việc sử dụng bình thường dự kiến. Trong trường hợp hướng dẫn sử dụng đưa ra
các lựa chọn cấu hình thì từng lựa chọn liên quan cần được thử nghiệm riêng rẽ. (Các) chế độ
hoạt động cần được đo theo tiêu chuẩn tính năng liên quan đối với sản phẩm;
- thực hiện thử nghiệm trên các chế độ sản phẩm liên quan theo 5.3;
- phân loại từng chế độ trong các chế độ sản phẩm được thử nghiệm thành một trong các loại
chế độ công suất thấp (xem 3.4) hoặc chế độ khác nếu thuộc đối tượng áp dụng.
5.3. Qui trình
5.3.1. Yêu cầu chung
Trong phạm vi của tiêu chuẩn này, công suất tiêu thụ phải được xác định bằng:

- phương pháp lấy mẫu: bằng cách sử dụng thiết bị để ghi các số đo công suất ở các khoảng
thời gian đều đặn trong suốt thời gian đo (xem 5.3.2). Lấy mẫu là phương pháp ưu tiên của phép
đo cho tất cả các chế độ và các loại sản phẩm trong tiêu chuẩn này. Đối với các chế độ trong đó
công suất thay đổi theo chu kỳ hoặc không ổn định hoặc các chế độ có thời gian giới hạn thì lấy
mẫu là phương pháp đo duy nhất cho phép trong tiêu chuẩn này; hoặc
- phương pháp số đọc trung bình: trong trường hợp giá trị công suất là ổn định và chế độ ổn
định, bằng cách lấy trung bình các số đọc công suất của thiết bị đo trong khoảng thời gian quy
định hoặc, một cách khác, bằng cách ghi lại năng lượng tiêu thụ trong khoảng thời gian xác định
và chia cho thời gian (xem 5.3.3 để có mô tả chi tiết khi nào phương pháp này có hiệu lực); hoặc
- phương pháp lấy số đọc trực tiếp trên đồng hồ đo: trong trường hợp giá trị công suất là ổn định
và chế độ ổn định, bằng cách ghi lại số đọc công suất trên thiết bị đo (xem 5.3.4 để có mô tả chi
tiết khi nào phương pháp này có hiệu lực).
CHÚ THÍCH: Việc xác định công suất trung bình từ năng lượng tích lũy trong một khoảng thời
gian là tương đương. Bộ tích lũy năng lượng được sử dụng phổ biến hơn các chức năng lấy
trung bình công suất trong một khoảng thời gian do người vận hành xác định.
5.3.2. Phương pháp lấy mẫu
Phương pháp luận này phải được sử dụng trong trường hợp công suất không ổn định (chu kỳ
hoặc không ổn định) hoặc chế độ có thời gian giới hạn. Phương pháp này cũng đưa ra phương
pháp thử nghiệm nhanh nhất khi chế độ là ổn định. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng phương
pháp luận này cho tất cả các chế độ và là phương pháp tiếp cận được khuyến cáo cho tất cả
các phép đo trong tiêu chuẩn này. Nên sử dụng phương pháp này nếu có nghi ngờ liên quan đến
đáp ứng của sản phẩm hoặc độ ổn định của chế độ.
Nối sản phẩm vào nguồn công suất và thiết bị đo công suất. Chọn chế độ sản phẩm cần đo
(việc này có thể đòi hỏi một chuỗi các thao tác, kể cả việc chờ cho sản phẩm tự động vào chế độ
mong muốn) và bắt đầu ghi công suất. Số đọc công suất cùng với các tham số then chốt khác
như điện áp, dòng điện phải được ghi lại ở các khoảng thời gian bằng nhau và không quá 1 s với
giai đoạn nhỏ nhất quy định.
CHÚ THÍCH 1: Thu thập dữ liệu ở các khoảng thời gian bằng nhau bằng 0,25 s hoặc nhanh hơn
được khuyến cáo cho các tải không ổn định hoặc trong trường hợp có thăng giáng công suất đều
hoặc không đều.

Trong trường hợp công suất tiêu thụ trong một chế độ là không chu kỳ thì công suất trung bình
được đánh giá như sau:
- sản phẩm phải được đóng điện trong ít nhất 15 min; giá trị này là thời gian tổng;
- dữ liệu bất kỳ từ một phần ba đầu tiên của thời gian tổng luôn được bỏ qua. Dữ liệu ghi được ở
hai phần ba còn lại của thời gian tổng được sử dụng để đánh giá độ ổn định;
- thiết lập độ ổn định phụ thuộc vào công suất trung bình ghi được trong hai phần ba còn lại của
thời gian tổng. Đối với các công suất đầu vào nhỏ hơn hoặc bằng 1 W, độ ổn định được thiết lập
khi đường hồi quy tuyến tính đi qua tất cả các số đọc công suất đối với hai phần ba còn lại của


thời gian tổng có độ dốc nhỏ hơn 10 mW/h. Đối với công suất vào lớn hơn 1 W, độ ổn định được
thiết lập khi đường hồi quy tuyến tính đi qua tất cả các số đọc công suất đối với hai phần ba còn
lại của thời gian tổng có độ dốc nhỏ hơn 1 % của công suất đầu vào đo được trong một giờ.
- trong trường hợp thời gian tổng bằng 15 min không thỏa mãn các tiêu chí ổn định ở trên thì thời
gian tổng được kéo dài liên tục cho đến khi đạt được các tiêu chí liên quan ở trên (trong hai phần
ba còn lại của thời gian tổng).
- khi đạt được ổn định thì kết quả được lấy là công suất trung bình tiêu thụ trong hai phần ba còn
lại của thời gian tổng.
CHÚ THÍCH 2: Nếu không thể đạt được ổn định trong thời gian tổng bằng 3 h thì dữ liệu thô cần
được đánh giá để xem có xuất hiện dạng chu kỳ hoặc tuần hoàn hay không.
Các chế độ được biết đến là không chu kỳ và có công suất tiêu thụ biến đổi (dựa vào hướng
dẫn sử dụng, yêu cầu kỹ thuật hoặc phép đo) phải được ghi lại trong thời gian đủ dài để trung
bình tích lũy của tất cả các điểm dữ liệu lấy được trong hai phần ba còn lại của thời gian tổng
nằm trong phạm vi bằng ±0,2 %. Khi thử nghiệm các chế độ này, thời gian tổng không được nhỏ
hơn 60 min.
Trong trường hợp công suất tiêu thụ trong một chế độ là chu kỳ (tức là một trình tự đều đặn các
trạng thái công suất xuất hiện trong vài phút hoặc vài giờ), công suất trung bình trong tối thiểu
bốn chu kỳ hoàn chỉnh được đánh giá như sau:
- sản phẩm phải được đóng điện trong thời gian vận hành ban đầu không nhỏ hơn 10 min. Dữ
liệu trong thời gian này không được sử dụng để đánh giá công suất tiêu thụ của sản phẩm;

- sau đó, đóng điện cho sản phẩm trong thời gian đủ để bao trùm hai giai đoạn so sánh, mỗi giai
đoạn phải bao gồm không ít hơn hai chu kỳ và có thời gian không nhỏ hơn 10 min (các giai đoạn
so sánh phải có số chu kỳ bằng nhau);
- tính công suất trung bình cho từng giai đoạn so sánh;
- tính điểm giữa trong thời gian của từng giai đoạn so sánh, tính bằng giờ;
- độ ổn định được thiết lập khi chênh lệch công suất giữa hai giai đoạn so sánh chia cho chênh
lệch thời gian của các điểm giữa của các giai đoạn so sánh có độ dốc nhỏ hơn:
● 10 mW/h, đối với các sản phẩm có công suất vào nhỏ hơn hoặc bằng 1 W; hoặc
● 1 % công suất vào đo được trong một giờ đối với các sản phẩm có công suất vào lớn hơn 1 W.
- trong trường hợp tiêu chí ổn định nêu trên không được thỏa mãn thì thêm số lượng bằng nhau
các chu kỳ bổ sung vào từng giai đoạn so sánh cho đến khi đạt được tiêu chí liên quan nêu trên;
- khi đạt được ổn định, công suất được xác định là giá trị trung bình của tất cả các số đọc từ cả
hai giai đoạn so sánh.
Trong trường hợp các chu kỳ không ổn định hoặc không đều, phải đo đủ dữ liệu để định rõ đủ
đặc điểm công suất tiêu thụ của chế độ (nên sử dụng tối thiểu 10 chu kỳ).
CHÚ THÍCH 3: Trong mọi trường hợp, công suất trong giai đoạn ghi dữ liệu cần được thể hiện ở
dạng đồ thị để hỗ trợ thiết lập giai đoạn khởi động, giai đoạn có dạng chu kỳ, giai đoạn không ổn
định và giai đoạn ổn định.
Các chế độ được biết đến là có thời gian giới hạn (dựa vào hướng dẫn sử dụng, yêu cầu kỹ
thuật hoặc phép đo) phải được ghi lại trong toàn bộ thời gian của chúng. Kết quả cho các chế độ
này phải được ghi vào báo cáo là năng lượng tiêu thụ (Wh) và thời gian cùng với công bố rằng
chế độ có thời gian giới hạn.
CHÚ THÍCH 4: Không yêu cầu sản phẩm hoạt động trong một khoảng thời gian ban đầu nhỏ
nhất trước khi các số đo dữ liệu được ghi lại khi thực hiện thử nghiệm nêu trên.
Đối với các sản phẩm trong đó một chuỗi các chế độ sản phẩm riêng rẽ xuất hiện ở dạng đều
đặn thì mức công suất cho từng chế độ phải được xác định theo điều này và lập tài liệu trình tự


và thời gian đã biết của từng chế độ theo dạng này. Xem Phụ lục B để có hướng dẫn thêm.
5.3.3. Phương pháp số đọc trung bình

Phương pháp này không cho phép đối với các tài chu kỳ hoặc các chế độ thời gian giới hạn.
CHÚ THÍCH 1: Có thể rút ngắn khoảng thời gian đo bằng cách sử dụng phương pháp lấy mẫu xem 5.3.2.
Nối sản phẩm vào nguồn công suất và thiết bị đo công suất. Chọn chế độ sản phẩm cần đo
(việc này có thể đòi hỏi một chuỗi các thao tác và có thể cần chờ cho sản phẩm tự động vào chế
độ mong muốn) và theo dõi công suất. Sau khi sản phẩm được ổn định trong ít nhất 30 min,
đánh giá độ ổn định của hai giai đoạn đo liền kề. Công suất trung bình trong các giai đoạn đo
được xác định bằng cách sử dụng phương pháp công suất trung bình hoặc phương pháp
năng lượng tích lũy như sau:
- chọn hai giai đoạn so sánh, từng giai đoạn không nhỏ hơn 10 min (các giai đoạn phải có thời
gian xấp xỉ nhau), ghi lại thời gian bắt đầu và khoảng thời gian của từng giai đoạn;
- xác định công suất trung bình của từng giai đoạn so sánh;
- độ ổn định được thiết lập khi chênh lệch công suất giữa hai giai đoạn so sánh chia cho chênh
lệch thời gian của các điểm giữa của các giai đoạn so sánh có độ dốc nhỏ hơn:
● 10 mW/h, đối với các sản phẩm có công suất vào nhỏ hơn hoặc bằng 1 W; hoặc
● 1 % công suất vào đo được trong một giờ đối với các sản phẩm có công suất vào lớn hơn 1 W.
- trong trường hợp các tiêu chí ổn định nêu trên không được thỏa mãn thì thêm các giai đoạn dài
hơn có thời gian xấp xỉ nhau cho đến khi đạt được các tiêu chí liên quan nêu trên;
- khi đạt được ổn định, công suất được xác định là trung bình của tất cả các số đọc từ cả hai giai
đoạn so sánh;
- trong trường hợp không thể đạt được ổn định với các giai đoạn so sánh có thời gian 30 min cho
từng giai đoạn thì phải sử dụng phương pháp lấy mẫu ở 5.3.2.
Cách tiếp cận công suất trung bình: trong trường hợp thiết bị đo công suất có thể ghi lại công
suất trung bình thực trong giai đoạn do người sử dụng chọn, giai đoạn được chọn không được
nhỏ hơn 10 min.
Cách tiếp cận năng lượng tích lũy: trong trường hợp thiết bị đo công suất có thể đo năng
lượng trong giai đoạn được chọn thì giai đoạn được chọn đó không được nhỏ hơn 10 min. Giai
đoạn tích phân phải sao cho tổng giá trị ghi được về năng lượng và thời gian lớn hơn 200 lần độ
phân giải của đồng hồ đo năng lượng và thời gian. Xác định công suất trung bình bằng cách chia
năng lượng tích lũy cho thời gian trong khoảng thời gian quan sát.
CHÚ THÍCH 2: Để đảm bảo các đơn vị là nhất quán, nên sử dụng oát-giờ và giờ để cho kết quả

lá oát.
CHÚ THÍCH 3: Ví dụ 1 - nếu thiết bị đo có độ phân giải về thời gian ví dụ là 1 s thì đòi hỏi phải có
tối thiểu 200 s (3,33 min) để lấy tích phân trên thiết bị đo này.
CHÚ THÍCH 4: Ví dụ 2 - nếu thiết bị đo có độ phân giải về năng lượng ví dụ là 0,1 mWh thì đòi
hỏi phải có tối thiểu 20 mWh để tích lũy năng lượng trên thiết bị đo này (ở tải bằng 0,1 W mất
khoảng 12 min, ở tải bằng 1 W mất khoảng 1,2 min). Lưu ý rằng các số đọc cũng như giai đoạn
ghi nhỏ nhất được quy định ở trên (10 min) cần thỏa mãn cả yêu cầu về độ phân giải thời gian và
năng lượng.
5.3.4. Phương pháp số đọc trực tiếp từ đồng hồ đo
Phương pháp số đọc trực tiếp từ đồng hồ đo chỉ có thể được sử dụng trong trường hợp chế độ
không thay đổi và số đọc công suất hiển thị trên thiết bị đo là ổn định. Phương pháp này không
được sử dụng cho mục đích chứng nhận. Trong trường hợp có nghi ngờ, bất kỳ kết quả nào sử
dụng các phương pháp ở 5.3.2 hoặc 5.3.3 đều được ưu tiên hơn các kết quả sử dụng phương


pháp này.
CHÚ THÍCH 1: Có thể rút ngắn khoảng thời gian đo bằng cách sử dụng phương pháp lấy mẫu xem 5.3.2.
Công suất tiêu thụ sử dụng phương pháp số đọc trực tiếp được đánh giá như sau:
- nối sản phẩm cần thử nghiệm vào nguồn công suất và thiết bị đo công suất rồi chọn chế độ
sản phẩm cần đo;
- cho sản phẩm hoạt động trong ít nhất 30 min. Nếu công suất được xem là ổn định thì lấy số đọc
trong phép đo công suất từ thiết bị đo. Nếu số đọc vẫn biến đổi thì kéo dài giai đoạn 30 min cho
đến khi được xem là ổn định;
- sau một khoảng thời gian không nhỏ hơn 10 min, lấy số đọc bổ sung trong phép đo công suất
và ghi lại thời gian giữa các số đọc trong phép đo công suất, tính bằng giờ;
- kết quả là trung bình của hai số đọc với điều kiện là chênh lệch công suất giữa hai số đọc chia
cho khoảng thời gian giữa hai lần đọc nhỏ hơn:
● 10 mW/h, đối với các sản phẩm có công suất vào nhỏ hơn hoặc bằng 1 W; hoặc
● 1 % công suất vào đo được trong một giờ đối với các sản phẩm có công suất vào lớn hơn 1 W.
- trong trường hợp tiêu chí liên quan nêu trên không đáp ứng thì không được sử dụng phương

pháp số đọc trực tiếp trên đồng hồ đo.
6. Báo cáo thử nghiệm
6.1. Mô tả chi tiết sản phẩm
Các thông tin dưới đây phải được ghi lại trong báo cáo thử nghiệm:
● Nhãn hiệu, model, kiểu và số seri
● Mô tả sản phẩm, nếu thích hợp
● (Các) điện áp danh định và (các) tần số danh định
● Thông tin chi tiết về nhà chế tạo được ghi nhãn trên sản phẩm (nếu có)
● Nguồn thông tin được sử dụng để thiết lập các chế độ sản phẩm (hướng dẫn sử dụng) và
luận chứng kỹ thuật, nếu thuộc đối tượng áp dụng, liên quan đến việc chọn các chế độ được đo
và chế độ bị loại trừ bất kỳ.
Trong trường hợp sản phẩm có nhiều chức năng hoặc có các tùy chọn để đưa thêm vào các mô
đun bổ sung hoặc phụ kiện bổ sung thì cấu hình của thiết bị khi thử nghiệm phải được ghi vào
báo cáo.
6.2. Tham số thử nghiệm
Các giá trị dưới đây phải đạt được và được ghi lại trong khi thử nghiệm. Nếu các giá trị này thay
đổi trong khi thử nghiệm thì phải ghi các giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất.
● Nhiệt độ môi trường xung quanh (°C)
● (Các) điện áp thử nghiệm (V) và (các) tần số thử nghiệm (Hz)
● Méo hài tổng của hệ thống cung cấp điện
● Thông tin và tài liệu về thiết bị đo, bố trí thiết bị và mạch điện được dùng cho thử nghiệm về
điện.
6.3. Dữ liệu đo được, đối với từng chế độ sản phẩm khi áp dụng
Các thông tin dưới đây phải được ghi lại trong báo cáo thử nghiệm:
● mô tả chế độ sản phẩm và lập tài liệu về các chức năng do người sử dụng định hướng và
các chức năng hoạt động khác và mô tả cách kích hoạt chế độ;


● trình tự các sự kiện để đạt được chế độ đó trong trường hợp thiết bị tự động thay đổi chế độ.
● công suất trung bình tính bằng oát được làm tròn đến số thập phân thứ hai. Đối với tải lớn hơn

hoặc bằng 10 W, phải ghi vào báo cáo tối thiểu là đến ba chữ số có nghĩa.
● độ không đảm bảo đo tính được của kết quả do thiết bị đo (Ue) (xem Phụ lục D) và kết quả có
phù hợp với 4.4.1 hay không;
● phương pháp đo được sử dụng (xem 5.3.2, 5.3.3 hoặc 5.3.4). Trong trường hợp 5.3.3, cần chỉ
ra xem sử dụng cách tiếp cận công suất trung bình hay năng lượng tích lũy;
● khoảng thời gian lấy mẫu, thời gian tổng của các phép đo và giai đoạn ổn định (5.3.2 nếu thuộc
đối tượng áp dụng);
● năng lượng tích lũy và khoảng thời gian đo (giây/phút/giờ) (5.3.3 nếu thuộc đối tượng áp
dụng);
● năng lượng và thời gian của bất kỳ chế độ có thời gian giới hạn nào. Lập tài liệu mô tả dạng
đồ thị (hoặc các dạng đồ thị) đối với chế độ tự động lặp lại theo trình tự;
● lưu ý bất kỳ liên quan đến hoạt động của sản phẩm;
● ghi lại các điều kiện môi trường xung quanh như mức độ chói trong khi đo trong trường hợp
các mức độ chói này ảnh hưởng đến số đọc công suất;
● phân loại chế độ sản phẩm đo được thành một trong các loại chế độ liên quan trong Điều 3,
hoặc chế độ khác nếu thuộc đối tượng áp dụng.
CHÚ THÍCH 1: Công suất biểu kiến (VA), hệ số công suất thực và hệ số đỉnh đều là các tham số
hữu ích và nên đưa vào báo cáo thử nghiệm. Nên thể hiện các dữ liệu thu thập được bằng cách
lấy mẫu ở dạng đồ thị.
CHÚ THÍCH 2: Khuyến cáo rằng độ không đảm bảo đo tổng của kết quả (U total) cũng cần tính
toán và ghi vào báo cáo (xem Phụ lục D).
6.4. Mô tả chi tiết thử nghiệm và phòng thử nghiệm
Các thông tin dưới đây phải được ghi lại trong báo cáo thử nghiệm:
● số hiệu/tham chiếu của báo cáo thử nghiệm
● ngày thử nghiệm
● tên và địa chỉ phòng thử nghiệm
● (các) thử nghiệm viên.

PHỤ LỤC A
(tham khảo)

HƯỚNG DẪN VỀ CÁC CHẾ ĐỘ VÀ CHỨC NĂNG ĐỐI VỚI CÁC KIỂU SẢN PHẨM ĐƯỢC
CHỌN
A.1. Yêu cầu chung
Khi các tiểu ban kỹ thuật hoặc các nhóm làm việc tham khảo tiêu chuẩn này thì điều quan trọng
là đặt ra các tên gọi cho các chế độ sản phẩm trong phạm vi các loại được xác định để phản
ánh các chức năng liên quan hiện có và đang vận hành.
Tiêu chuẩn này là một qui trình đo cho các chế độ công suất thấp và không đủ để đưa ra một
sự ước lượng cho tổng năng lượng tiêu thụ. Các vấn đề như thói quen của người sử dụng, cũng
như các lưu ý liên quan đến tần số và thời gian của từng chế độ công suất thấp có thể có cùng
với chế độ hoạt động và chế độ ngắt điện là cần thiết để xác định năng lượng tiêu thụ nhưng
không phải là đối tượng của tiêu chuẩn này.


A.2. Chế độ sản phẩm
Sản phẩm có thể có hoặc không có từng chế độ được xác định và có thể có nhiều hơn một trong
các chế độ liên quan. Thông tin về các chức năng được đề cập ở A.3.
Chế độ ngắt điện được đưa vào định nghĩa vì nhiều sản phẩm được người sử dụng ngắt ra khỏi
nguồn lưới trong một khoảng thời gian đáng kể. Năng lượng tiêu thụ (từ lưới) ở trạng thái này tất
nhiên là bằng zero và tiêu chuẩn này không qui định các phép đo. Tuy nhiên, thông thường chế
độ này phụ thuộc vào người sử dụng (thói quen và thực tế) và chỉ được tính đến khi nó có tác
động nào đó đến năng lượng tiêu thụ tổng của sản phẩm trong các trường hợp khi quan tâm đến
năng lượng tiêu thụ tổng này.
Sản phẩm có thể có một số chế độ tắt hoặc có thể không có chế độ tắt. Cơ cấu đóng cắt trên
sản phẩm được ghi nhãn là nguồn điện, bật/tắt hoặc chờ có thể không phản ánh sự phân loại
chế độ dựa trên các chức năng hoạt động thực tế ở chế độ đó.
Việc có cơ cấu đóng cắt (bằng công nghệ bất kỳ) đặt trên sản phẩm không được xem là chức
năng (do người sử dụng định hướng) trong các chế độ chờ. Cơ cấu đóng cắt từ xa (không nằm
trên sản phẩm) (ví dụ, cơ cấu điều khiển từ xa, cơ cấu đóng cắt từ xa có điện áp thấp) cần được
xem là chức năng hoạt động từ xa và vì vậy, thường là một phần của chế độ chờ. Ngoại lệ là
khi cơ cấu đóng cắt từ xa tác động ở điện áp lưới bằng cách điều khiển nguồn lưới đến sản

phẩm; trong trường hợp này, đây được xem là chế độ ngắt điện. Việc có mặt các thành phần để
tạo điều kiện thuận lợi cho tương thích điện từ (EMC) không được xem là chức năng do người
sử dụng định hướng và không liên quan đến việc xác định chế độ sản phẩm.
Các chức năng liên quan đến lưu giữ bộ nhớ và lịch sử sử dụng, ưu tiên của người sử dụng,
v.v... không được xem là chức năng trong chế độ chờ vì các chức năng này cần được giữ lại
trong chế độ tắt, trong thời gian ngừng cấp điện và trong chế độ ngắt điện (ví dụ lưu giữ trong
bộ nhớ không thay đổi được).
Các chức năng không phải là bảo vệ và/hoặc không thể kiểm chứng (ví dụ trong hướng dẫn sử
dụng hoặc thông tin) không được xem là chức năng trong chế độ chờ.
Trong chế độ mạng, cần cẩn thận để đảm bảo rằng mạng có cấu hình đúng là sẵn có và được
nối đến sản phẩm khi thử nghiệm để đạt được phép đo chính xác về công suất tiêu thụ trong chế
độ này. Cần cẩn thận trong các chế độ này vì có thể có một số mức công suất (ví dụ công suất
có thể bị ảnh hưởng bởi tốc độ nối mạng hoặc số lượng và kiểu đấu nối mạng). Công suất tiêu
thụ cũng có thể thay đổi theo chu kỳ trong các chế độ này. Đối với mạng không dây, có thể có
sự chênh lệch trong công suất tiêu thụ giữa cơ cấu không dây đang tìm kết nối (đang nghe) và
trường hợp đấu nối mạng đã thực sự được thiết lập. Trong môi trường mạng, điều quan trọng là
cân nhắc xem năng lượng tiêu thụ của sản phẩm tiêu thụ năng lượng có thể bị ảnh hưởng bởi
thiết kế sản phẩm và tương tác của người sử dụng cũng như tương tác của mạng.
Trong hầu hết các trường hợp, năng lượng tiêu thụ trong chế độ hoạt động là phức tạp và đòi
hỏi phân tích chi tiết chu kỳ làm việc của sản phẩm cùng với sự ảnh hưởng do tương tác bất kỳ
của người sử dụng và dãy các nhiệm vụ chung. Trong nhiều trường hợp có sẵn các tiêu chuẩn
sản phẩm cụ thể đề cập đến năng lượng tiêu thụ trong chế độ hoạt động và cần được viện dẫn
trong trường hợp sẵn có. Tuy nhiên, ban kỹ thuật về sản phẩm có thể quyết định xem phương
pháp đo xác định trong Điều 5 của tiêu chuẩn này có thể áp dụng cho chế độ hoạt động có công
suất tương đối thấp và công suất tiêu thụ ổn định.
Đối với các sản phẩm xách tay có pin/acqui nạp lại được, các chế độ công suất thấp liên quan có
thể:
● có bộ nạp hoặc trạm nối/trạm gốc nối vào nguồn lưới nhưng tách rời với sản phẩm (pin/acqui
được tháo ra); và
● có bộ nạp hoặc trạm nối/trạm gốc nối vào nguồn lưới cùng với sản phẩm và được nạp đầy

(còn được gọi là thả nổi hoặc duy trì).
Các chế độ trong đó pin/acqui được nạp (ngoài chế độ thả nổi hoặc duy trì) không được xác
định trong tiêu chuẩn này.


Chế độ công suất thấp có mức công suất nhỏ nhất (chế độ có công suất thấp nhất) đối với sản
phẩm riêng rẽ có thể là chuẩn mực hữu ích cho các sản phẩm có chức năng so sánh.
Trong phiên bản 1 của tiêu chuẩn này, chế độ chờ được định nghĩa như sau:
Chế độ tiêu thụ công suất thấp nhất mà người sử dụng không thể ngắt (tác động) và có thể duy
trì trong một khoảng thời gian không hạn định khi thiết bị được nối với nguồn điện lưới và sử
dụng theo hướng dẫn của nhà chế tạo.
Trong phiên bản 2 hiện tại, định nghĩa này không còn được dùng là chế độ chờ. Định nghĩa ở
trên không có mức chức năng xác định và nếu được sử dụng thì cần áp dụng rất cẩn thận vì
các sản phẩm được so sánh có thể có các mức chức năng khác nhau. Chế độ tiêu thụ công suất
nhỏ nhất không phải là một chế độ trong tiêu chuẩn này và không liên quan đến bất kỳ một trong
các loại chế độ công suất thấp nào như xác định ở phiên bản 2.
A.3. Chức năng
Chức năng được định nghĩa ở 3.1.
Chức năng có thể được phân loại chung là chức năng chính hoặc chức năng phụ. Chức năng
phụ có thể bao gồm các chức năng đóng cắt từ xa, mạng, cảm biến và kiểu bảo vệ. Chức năng
chính liên quan đến mục đích chính của sản phẩm. Đối với một số sản phẩm, chức năng mạng
hoặc chức năng cảm biến có thể là chức năng chính. Có thể có nhiều hơn một chức năng
chính.
Tải làm việc (như minh họa ở Hình A.1) là chức năng chính của sản phẩm. Bộ điều nhiệt hoặc
cơ cấu khống chế nhiệt độ điều khiển tải làm việc để duy trì các điều kiện không đổi thường
được xem là một phần của tải làm việc (chức năng chính) mà không phải là cơ cấu đóng cắt
nguồn công suất hoặc chức năng phụ.
Ví dụ về chức năng phụ như sau:
● điều khiển từ xa công suất đến tải làm việc (cơ cấu đóng cắt công suất từ xa) - thường là
không dây hoặc điện áp thấp (dành riêng cho một sản phẩm);

● điều khiển thứ cấp tải (tự động tắt, khởi động hoặc tắt có trễ);
● bộ cảm biến như cảm biến ánh sáng, có người, nhiệt, khói, nhiệt độ, lưu lượng nước (lưu ý
rằng bộ điều nhiệt khống chế tải làm việc không được xem là một cảm biến trong trường hợp
này);
● hiển thị (có thể là chế độ, trạng thái, chương trình, điều kiện hoặc đồng hồ, v.v...);
● chức năng nhớ và định thời gian;
● bộ điều khiển điện tử, khóa và cơ cấu đóng cắt;
● chức năng mạng (có dây, không dây, hồng ngoại);
● nạp pin/acqui (trong trường hợp đây không phải chức năng chính của thiết bị);
● bộ lọc tương thích điện từ (EMC);
● cảm biến để bảo vệ sản phẩm và/hoặc người sử dụng.
Một số ví dụ về chức năng và phân loại chế độ tương ứng được trình bày trong Bảng A.1.
Việc xem xét (các) chức năng phụ như các mô đun riêng rẽ với tải chính (hoặc chức năng
chính) là hữu ích để hiểu tại sao công suất tiêu thụ có thể xuất hiện trong một số chế độ công
suất thấp. Chức năng phụ sẽ tiêu thụ một lượng nhỏ công suất trong một số cấu hình thiết kế.
Một số chức năng phụ có thể có cơ cấu đóng cắt riêng rẽ để ngắt chúng khỏi nguồn lưới ở một
số chế độ sản phẩm. Dãy các cấu hình có thể có đối với mô đun chức năng phụ được thể hiện
trên Hình A.1.
A.4. Cơ cấu đóng cắt công suất


Cơ cấu này cho phép người sử dụng kích hoạt và khử kích hoạt một chức năng chính. Cơ cấu
đóng cắt công suất thường được đặt trên sản phẩm. Một số chức năng phụ có thể duy trì hoạt
động hoặc được kích hoạt khi chức năng chính bị khử kích hoạt. Một số sản phẩm có thể có
nhiều hơn một cơ cấu đóng cắt công suất (một số cơ cấu đóng cắt có thể chỉ tác động lên các
chức năng phụ). Một số sản phẩm có thể không có cơ cấu đóng cắt. Cơ cấu đóng cắt công suất
không được phân loại là một chức năng trong tiêu chuẩn này. Cơ cấu đóng cắt công suất có
một số dạng như sau:
● cơ cấu đóng cắt công suất nguồn lưới: nguồn công suất cho chức năng chính được điều
khiến bởi cơ cấu đóng cắt điện áp nguồn lưới do người sử dụng kích hoạt. Một số chức năng

phụ có thể duy trì hoạt động hoặc được kích hoạt khi chức năng chính bị khử kích hoạt;
● cơ cấu đóng cắt công suất điện áp thấp hoặc cơ cấu đóng cắt “mềm”: nguồn công suất cho
chức năng chính được điều khiển bởi cơ cấu đóng cắt điện áp thấp thứ cấp do người sử dụng
kích hoạt. Một số chức năng phụ có thể duy trì hoạt động hoặc được kích hoạt khi chức năng
chính bị khử kích hoạt;
● bộ định thời gian hoặc cơ cấu đóng cắt tự động: một biến thể của cơ cấu đóng cắt trong đó
chức năng chính được điều khiển bên trong sản phẩm chứ không phải do người sử dụng điều
khiển trực tiếp (có thể tự động (ví dụ khi hoàn thành một nhiệm vụ) hoặc do người sử dụng lập
trình để bật hoặc tắt ở thời điểm xác định hoặc trong khoảng thời gian được chọn và có thể bao
gồm cả quản lý công suất);
● cơ cấu đóng cắt điều khiển từ xa: một biến thể của cơ cấu đóng cắt trong đó chức năng chính
được điều khiển từ xa bởi người sử dụng hoặc cơ cấu khác;
● cơ cấu đóng cắt điều khiển công suất: cơ cấu đóng cắt công suất có kết hợp một số dạng cơ
cấu điều khiển công suất như bộ điều chỉnh tắt dần hoặc thyristor.
Bảng A.1 - Bảng các cơ cấu, chức năng và các chế độ kết hợp của chúng - chỉ để hướng
dẫn
Cơ cấu

Mô tả

Kiểu
Chế độ
chức
kết hợp
năng phụ

Ghi chú/vấn đề

Cơ cấu Cơ cấu đóng cắt từ xa Người sử Chờ
đóng cắt sử dụng tín hiệu điện áp dụng định

từ xa
thấp (có dây) hoặc tín
hướng
hiệu radio hoặc tín hiệu
hồng ngoại (không dây)

Chức năng từ xa phải hoạt động. Không
bao gồm cơ cấu đóng cắt điện áp nguồn
lưới có thể gắn ở xa sản phẩm. Bao gồm
các bộ điều khiển từ xa bình thường phổ
biến trên các sản phẩm tiêu dùng và một
số thiết bị (ví dụ máy sưởi).

Cơ cấu Cơ cấu đóng cắt đưa
Khác
đóng cắt sản phẩm sang một chế
bên trong độ mà không có chức
năng do người sử dụng
định hướng bên ngoài
hoạt động.

Tắt

Cơ cấu đóng cắt đặt trên sản phẩm. Làm
mất hiệu lực các cơ cấu đóng cắt từ xa và
chức năng mạng. Một số cơ cấu đóng cắt
không khử kích hoạt tất cả các chức năng
(ví dụ đồng hồ, điều khiển từ xa v.v...) chúng ở chế độ chờ.

Khóa

Cơ cấu để ngăn trẻ em Người sử
ngăn
kích hoạt sản phẩm một dụng định
ngừa trẻ cách ngẫu nhiên
hướng
em

Tắt
(xem
chú
thích 1)

Thường là một khóa điện (cũng có thể là
khóa cơ) để đảm bảo sản phẩm ở chế độ
tắt. Thường kết hợp với LED. Một dạng
tắt nhưng có thể đòi hỏi một ít công suất.

LED báo Đi ốt phát quang (LED) Khác
tín hiệu báo cho người sử dụng
chế độ biết sản phẩm đã tắt
tắt

Tắt

Trường hợp đặc biệt cần được xem là chế
độ tắt (xem 3.5). Không bao gồm các
trường hợp trong đó cơ cấu đóng cắt từ
xa vẫn hoạt động (xem cơ cấu đóng cắt từ
xa ở trên).


Cơ cấu

Xem

Cơ cấu bảo vệ ngắt nguồn công suất trong

Cơ cấu dòng rò xuống

Khác


đóng cắt đất, cơ cấu dòng dư
an toàn hoặc bộ ngắt sự cố
mạch điện với đất hoặc
bộ ngắt sự cố mạch điện
hồ quang

chú
trường hợp sự cố điện để bảo vệ người
thích 3 sử dụng hoặc sản phẩm - người sử dụng
không nhận biết được sự có mặt của cơ
cấu này.

Bộ lọc
EMC

Bộ lọc tương thích điện Khác
từ

Tắt


Cần có bộ lọc EMC để hạn chế nhiễu với
các cơ cấu khác. Có thể nối hoặc không
nối khi sản phẩm tắt.

Bộ bảo
vệ khi
ngập
nước

Hệ thống phát hiện để Khác
đảm bảo rằng không xảy
ra ngập nước do các
cuộn hút bị hỏng (ví dụ
như máy giặt)

Tắt
(xem
chú
thích 2)

Khi các cuộn hút đã hút thì chúng ít có khả
năng nhả ra - Cần có bộ bảo vệ này để
đảm bảo cuộn hút đã hút và không rò khi
kết thúc chu kỳ (thiết kế thay đổi).

Bộ bảo
vệ tràn
ngược


Chặn nước chảy ngược Khác
từ sản phẩm về nguồn
nước cung cấp (ví dụ
như máy giặt)

Tắt

Nhiều sản phẩm đòi hỏi bộ bảo vệ này và
hầu hết đây là cơ cấu cơ (không điện).
Bảo vệ người sử dụng khác nối vào nguồn
nước.

Cơ cấu
khử kích
hoạt khi
không di
chuyển

Tắt sản phẩm nếu không Khác
di chuyển trong một
khoảng thời gian xác
định (ví dụ như bàn là)

Hoạt
động

Tự động thay đổi chế độ từ hoạt động
sang tắt hoặc chờ - không phải là trạng
thái hoạt động bình thường, bảo vệ tài sản
trong trường hợp sử dụng sai (ngẫu

nhiên) sản phẩm, không phổ biến khi sử
dụng bình thường. Chức năng này theo
định nghĩa liên quan đến sử dụng trong
chế độ hoạt động. Không liên quan đến
tiêu thụ năng lượng. Cơ cấu bảo vệ tài
sản.

Cơ cấu Sau một khoảng thời
Người sử Chờ
tắt chậm gian nhất định (người sử dụng định
dụng có thể chọn) sản hướng
phẩm được chuyển sang
trạng thái thấp hơn

Khi công suất chuyển sang trạng thái thấp
hơn, chế độ thu được sẽ phụ thuộc vào
chức năng đang hoạt động (ví dụ cơ cấu
đóng cắt điều khiển từ xa hoạt động hoặc
không hoạt động). Có liên quan đến tiêu
thụ năng lượng.

Chế độ sản phẩm cuối cùng sẽ phụ thuộc vào sự kết hợp các chức năng (cơ cấu) có mặt và
được kích hoạt.
CHÚ THÍCH 1: Nên là chế độ tắt vì sản phẩm được tắt hoàn toàn và được xem là được người
sử dụng tắt. Tuy nhiên, có thể yêu cầu công suất để giữ khóa điện tử hoạt động do đó có thể cần
được xem là loại chế độ tắt đặc biệt. Một số tùy chọn cho chức năng này là dạng cơ và có thể
không yêu cầu tiêu thụ công suất.
CHÚ THÍCH 2: Một số thiết kế cung cấp bảo vệ bổ sung bằng cách phát hiện rò phía trước cuộn
hút, ví dụ rò ống và mối nối. Tuy nhiên, tất cả các chức năng đó không hiển nhiên đối với người
sử dụng và có thể có tranh cãi rằng người sử dụng có thể không thấy sự khác nhau với chế độ

tắt bình thường. Tuy nhiên, chúng là các chức năng thực và có thể đòi hỏi một ít công suất. Đây
là một vấn đề có các quan điểm khác nhau và ban kỹ thuật sản phẩm cần xem xét các trường
hợp đặc biệt. Cơ cấu này bảo vệ tài sản.
CHÚ THÍCH 3: Cơ cấu đóng cắt an toàn cần được bỏ qua khi xác định loại chế độ nhưng nếu
được ghi chú trong sổ tay hướng dẫn cho người sử dụng thì có thể cần phân loại là chế độ chờ.
Cơ cấu này bảo vệ người sử dụng.
A.5. Kiểu thiết bị
Điều này trình bày theo dạng sơ đồ một số cấu hình sản phẩm phổ biến và liệu chúng có tiêu thụ


công suất hay không ở chế độ công suất thấp. Các thành phần chính trong sản phẩm ảnh
hưởng đến công suất tiêu thụ được mô tả dưới đây cùng với một số ví dụ và mô tả cho từng kiểu
(A đến G) (xem Hình A.1). Dưới đây cũng đưa ra mô tả tóm tắt từng kiểu và một số ví dụ. Các
sản phẩm ví dụ được liệt kê để minh họa các sản phẩm gia dụng điển hình có cấu hình theo
cách riêng và việc đưa chúng vào ví dụ vào không nhất thiết đã là một sự phân loại chính xác đối
với các biến thể sản phẩm có thể có.
CHÚ THÍCH: Các chữ cái ấn định cho từng kiểu thiết bị là tùy chọn.
Kiểu A: Sản phẩm không có tải chức năng phụ và không có cơ cấu đóng cắt công suất. Sản
phẩm hoạt động khi cắm phích cắm vào. Có thể có một số điều chỉnh bên trong tải (ví dụ bộ điều
nhiệt hoặc cơ cấu điều khiển nhiệt độ). Không có chế độ công suất thấp.
Vi dụ về sản phẩm kiểu A là: ấm điện (không có cơ cấu cắt tự động), một số thiết bị cỡ nhỏ dùng
cho nhà bếp, bình đun nước nóng có giữ nhiệt dùng điện và máy sưởi phòng, tủ lạnh và tủ kết
đông.
Kiểu B: Sản phẩm có cơ cấu đóng cắt công suất. Chức năng chính của sản phẩm hoạt động khi
được bật cơ cấu đóng cắt công suất bằng tay và ngừng khi tắt. Cơ cấu đóng cắt công suất có
thể là loại tự động tắt (tự động tắt khi hoàn thành công việc). Vì không có chức năng phụ nên
chế độ công suất thấp thường tiêu thụ ít công suất hoặc không tiêu thụ công suất.
Ví dụ về sản phẩm kiểu B: máy sưởi điện (không có bộ điều nhiệt), máy sấy tóc, lò nướng bánh,
ấm điện (ngắt khi sôi), một số thiết bị chính (một số máy rửa bát, máy giặt và máy sấy quần áo),
nhiều thiết bị cỡ nhỏ dùng cho nhà bếp, bếp và một số lò.

Kiểu C: Sản phẩm không có cơ cấu đóng cắt công suất nguồn lưới nhưng có chức năng phụ
điều khiển chức năng chính hoặc thực hiện một số chức năng liên quan. Có thể có bộ điều
khiển từ xa hoặc cơ cấu đóng cắt công suất điện áp thấp. Năng lượng ở chế độ công suất thấp
có thể kết hợp với chức năng phụ.
Ví dụ về sản phẩm kiểu C: máy làm bánh mỳ, một số thiết bị cỡ nhỏ dùng cho nhà bếp, một số
thiết bị chính (một số máy rửa bát, máy giặt quần áo và máy sấy quần áo), một số lò vi sóng, sản
phẩm có điều khiển từ xa và không có cơ cấu ngắt cứng, sản phẩm có cơ cấu đóng cắt công
suất (bằng điện tử) “mềm”.
Kiểu D: Sản phẩm có cơ cấu đóng cắt công suất ngắt chức năng chính và có chức năng phụ
được nối cố định vào nguồn công suất. Năng lượng ở chế độ công suất thấp có thể kết hợp với
chức năng phụ.
Ví dụ về sản phẩm kiểu D: lò thông thường, một số loại máy sưởi, lò vi sóng, thiết bị đòi hỏi tiêu
thụ công suất cho chức năng phụ (đồng hồ, hiển thị, bộ định thời gian, v.v...).
Kiểu E: Sản phẩm có cơ cấu đóng cắt công suất ngắt chức năng chính. Sẩn phẩm này có thể
có chức năng phụ được nối cố định vào nguồn công suất và/hoặc một chức năng được ngắt
bằng cơ cấu đóng cắt công suất. Năng lượng ở chế độ công suất thấp có thể kết hợp với chức
năng phụ được nối cố định. Các chế độ công suất thấp khác có thể kết hợp với chức năng phụ
được đóng cắt.
Ví dụ về sản phẩm kiểu E: một số lò vi sóng, một số thiết bị chính (một số máy rửa bát, máy giặt
và máy sấy khô quần áo), một số loại máy sưởi, sản phẩm đòi hỏi tiêu thụ công suất cho chức
năng phụ (đồng hồ, hiển thị, bộ định thời gian, v.v...), sản phẩm có thiết bị điện tử hoặc bộ lọc
EMC nối cố định, cơ cấu đóng cắt và cơ cấu điều khiển điện áp thấp hoặc cơ cấu điều khiển từ
xa có dây.
Kiểu F: Sản phẩm có nguồn công suất bên ngoài cấp điện cho sản phẩm. Nguồn cung cấp
thường là điện áp cực thấp (< 50 V), có thể là điện xoay chiều hoặc điện một chiều và có thể nối
qua một phích cắm. Cấu hình sản phẩm có thể là kiểu A đến kiểu E ở trên. Tất cả các chức
năng đòi hỏi nguồn công suất bên ngoài được nối vào nguồn lưới. Năng lượng tiêu thụ được kết
hợp với nguồn cung cấp và có thể có nhiều chế độ công suất thấp.
Ví dụ về sản phẩm kiểu F: một số sản phẩm chăm sóc cá nhân cỡ nhỏ, một số thiết bị cỡ nhỏ



dùng cho nhà bếp, sản phẩm bất kỳ thường được nối đến nguồn lưới qua một nguồn công suất
bên ngoài.
Kiểu G: Sản phẩm có nguồn công suất bên ngoài cung cấp điện cho sản phẩm chủ yếu dùng để
nạp pin/acqui. Chức năng chính của sản phẩm thường được thực hiện với bộ phận chính của
sản phẩm được ngắt khỏi nguồn công suất (sản phẩm hoạt động bằng pin/acqui và sản phẩm di
động) nhưng một số sản phẩm cũng có thể được sử dụng với nguồn công suất được nối vào.
Nguồn cung cấp thường là điện áp cực thấp (<50 V) và có thể là xoay chiều hoặc một chiều và
được nối qua một phích cắm tháo rời được. Đối với các kiểu sản phẩm này, pin/acqui có thể
được nạp trong khi vẫn nằm trong sản phẩm hoặc nối vào sản phẩm (trong trường hợp nguồn
công suất có thể được gắn với bản thân sản phẩm qua một phích cắm, hoặc sản phẩm có thể ở
trong giá riêng của nó nạp điện cho sản phẩm khi được đặt trong giá này trong khi không sử
dụng) hoặc có thể tháo pin/acqui ra khỏi thiết bị để nạp (có thể đòi hỏi cơ cấu nạp pin/acqui riêng
hoặc chung). Năng lượng tiêu thụ thường kết hợp với nguồn công suất (ngay cả khi sản phẩm
được ngắt điện) và có thể có các chế độ công suất thấp và/hoặc chế độ hoạt động kết hợp
với nạp và sử dụng pin/acqui.
Ví dụ về sản phẩm kiểu G: sản phẩm xách tay hoạt động bằng pin/acqui như máy cạo râu dùng
pin/acqui, bàn chải đánh răng bằng điện, máy hút bụi xách tay.


CHÚ THÍCH: Giá nạp pin/acqui riêng chỉ được cung cấp ở một số cấu hình sản phẩm.
Hình A.1 - Sơ đồ mạch điện của các kiểu sản phẩm

PHỤ LỤC B
(tham khảo)


LƯU Ý VỀ PHÉP ĐO Ở CHẾ ĐỘ CÔNG SUẤT THẤP
B.1. Vấn đề về đo công suất thấp
B.1.1. Yêu cầu chung

Có một số vấn đề khi đo công suất với tải rất nhỏ thường thấy ở chế độ công suất thấp (thường
nhỏ hơn 10 W). Các vấn đề này chủ yếu liên quan đến khả năng của thiết bị đo công suất để đáp
ứng đúng dạng sóng dòng điện không hình sin thường xuất hiện ở chế độ công suất thấp. Các
điểm then chốt cần xem xét được nêu tóm tắt dưới đây.
Mục đích của tiêu chuẩn này là để đo công suất của thiết bị ở từng chế độ sản phẩm liên quan.
Tuy nhiên, ở nhiều chế độ công suất thấp, dạng sóng dòng điện ít có khả năng là hình sin, do
đó cần đảm bảo rằng đồng hồ đo có tần số quét đủ nhanh để bắt được dạng sóng dòng điện
không như bình thường (như xung hoặc đỉnh nhọn). Để xác định công suất, đồng hồ đo phải
nhân giá trị dòng điện và điện áp tức thời lên vài trăm lần trong một chu kỳ (khoảng 15 ms). Hầu
hết các dụng cụ đo digital đều tích phân các giá trị này và hiển thị công suất trung bình một hoặc
hai lần trong một giây. Điều quan trọng là lưu ý rằng công suất của nhiều sản phẩm ở chế độ
công suất thấp sẽ nhỏ hơn 10 W (một số công suất sẽ rất nhỏ). Điều này một phần là do các
mức dòng điện thấp nhưng trong một số trường hợp là do dạng sóng dòng điện khác đáng kể so
với dạng sóng điện áp.
B.1.2. Ảnh hưởng của hệ số đỉnh
Hệ số đỉnh được xác định là tỷ số giữa dòng điện đỉnh và dòng điện hiệu dụng (hoặc điện áp đỉnh
và điện áp hiệu dụng). Đối với dạng sóng hình sin hoàn toàn, hệ số đỉnh bằng 1,414 trong khi đối
với tải một chiều không đổi thì hệ số đỉnh là 1,0. Đối với nguồn công suất đáp ứng các yêu cầu ở
4.3.2, dạng sóng điện áp thường là hình sin và do đó tham số ảnh hưởng cụ thể là dạng sóng
dòng điện.
Trong quá trình đo, điều quan trọng là hệ số đỉnh trong khả năng của đồng hồ đo phải lớn hơn hệ
số đỉnh thực của tải nếu không thì giá trị đỉnh của dòng điện sẽ bị “cắt bớt" và phép tích phân
công suất sẽ không đúng. Hầu hết các đồng hồ đo có hệ số đỉnh được công bố (hoặc dòng điện
đỉnh cho phép) kết hợp với từng “dải dòng điện”. Thông thường, hệ số đỉnh của đồng hồ đo sẽ
tăng khi tải thực trở nên nhỏ hơn so với dải đầu vào danh định được chọn. Tuy nhiên, nếu dải
được chọn là quá rộng thì độ phân giải chính xác của phép đo sẽ trở nên kém và độ không đảm
bảo đo đưa vào từ việc sử dụng (cần thiết) của dải lớn hơn sẽ tăng lên đáng kể. Đồng hồ đo có
khả năng xử lý các dòng điện đỉnh cao hơn trong dải dòng điện đã cho (tức là không có tín hiệu
“ngoài dải") sẽ đạt được độ không đảm bảo đo tổng tốt hơn khi đo tải có hệ số đỉnh cao và/hoặc
có hệ số công suất thấp vì có khả năng chọn dải dòng điện nhỏ hơn.

Để thực hiện các phép đo theo tiêu chuẩn này, điều quan trọng là sử dụng đồng hồ đo công suất
cho số đọc “ngoài dải” nếu dòng điện đỉnh trong dải đó bị vượt quá. Đối với các chế độ công
suất thấp, dạng sóng dòng điện thường có hệ số đỉnh trong dải từ 3 đến 10, đôi khi có thể lớn
hơn và do đó, điều quan trọng là phải kiểm chứng được rằng bộ chỉ thị “ngoài dải” bất kỳ không
tác động.
Đối với các tải có hệ số đỉnh rất cao và/hoặc hệ số công suất rất thấp, điều 4.4.1 sửa đổi độ
không đảm bảo đo yêu cầu vì thừa nhận có sự khó khăn về mặt kỹ thuật trong việc đọc các loại
tải này, ngay cả với đồng hồ đo có độ chính xác cao. Một ví dụ về tính toán để xác định độ không
đảm bảo đo Upc ở 4.4.1 được thể hiện dưới đây:
Tính toán ví dụ về độ không đảm bảo đo yêu cầu đối với sản phẩm giả định:
- công suất tiêu thụ bởi sản phẩm = 0,2 W
- Umr = 0,020 W đối với tải < 1 W (xem 4.4.1)
- hệ số công suất (PF) = 0,12
- hệ số dòng điện đỉnh của sản phẩm (CF) = 13
tỷ số dòng điện lớn nhất (MCR) = CF / PF = 13/0,12 = 108,3


Trong trường hợp tỷ số dòng điện lớn nhất (MCR) vượt quá 10, giá trị U pc được cho là:
Upc = 2 % x (1 + (0,08 x (108,3 - 10))) = 2 % x 8,86 = 17,7 %
(tức là khoảng 8 lần độ không đảm bảo đo tương đối cho phép)
Độ không đảm bảo đo tuyệt đối đối với tải này là giá trị lớn hơn của U pc x giá trị đo được hoặc
0,02 W:
Upc x giá trị đo được = 17,7 % x 0,02 W = 0,0354 W
Vì 0,0354 W lớn hơn 0,02 W nên độ không đảm bảo đo cho phép là 0,0354 W.
CHÚ THÍCH: Cách tính chi tiết hơn về độ không đảm bảo đo được nêu trong Phụ lục D.
B.1.3. Ảnh hưởng của hệ số công suất thấp
Tải hệ số công suất thấp có thể làm tăng độ không đảm bảo đo theo một vài cách. Tải có hệ số
công suất thấp sẽ có công suất biểu kiến tính được (tính bằng VA) cao hơn nhiều so với công
suất thực (tính bằng W). Để đo chính xác dòng điện lớn hơn tương đối này mà không gây ra tình
trạng “ngoài dải” có thể đòi hỏi phải chọn dải dòng điện cao hơn trên thiết bị đo nhưng vì công

suất thực vẫn thấp, nên điều này có nghĩa là thiết bị đo chỉ hoạt động ở phần trăm nhỏ của dải
công suất. Vì chỉ sử dụng phần trăm nhỏ của dải công suất nên độ không đảm bảo đo cao hơn
tương ứng.
Một ảnh hưởng khác là hệ số công suất thấp có thể đưa độ không đảm bảo đo trực tiếp vào bản
thân số đọc trong phép đo công suất, do cách mà thiết bị đo hoạt động. Ảnh hưởng này thay đổi
giữa các đồng hồ đo công suất khác nhau và giữa các nhà chế tạo đồng hồ đo công suất khác
nhau. Những ảnh hưởng này có thể đáng kể trong những trường hợp mà hệ số công suất là rất
thấp.
B.1.4. Sản phẩm có các tụ điện x có giá trị lớn
Một số sản phẩm có sử dụng tụ điện giữa pha và trung tính (còn gọi là tụ điện X) để giảm phát xạ
EMC xuống thấp hơn các giá trị cho phép. Nếu giá trị của tụ điện này đủ lớn thì dòng điện vào có
thể là hình sin nhưng sẽ ngoài dải so với điện áp vào, nghĩa là công suất phản kháng tính được
(tính bằng VA) lớn hơn nhiều so với công suất thực đo được (tính bằng W). Trong các điều kiện
này, cần chọn dải dòng điện để không tạo ra tình trạng “ngoài dải”. Cần cẩn thận để đảm bảo
thỏa mãn tiêu chí về độ không đảm bảo đo đối với công suất đo được.
B.1.5. Ảnh hưởng của xung hoặc thăng giáng đưa vào bởi sản phẩm trong quá trình thử
nghiệm
Xung hoặc thăng giáng trong các mức công suất có thể xảy ra trong thời gian ngắn trong một chế
độ. Cần cẩn thận để đặt dải đúng nếu cần theo dõi các xung này (nếu thời gian xuất hiện các
xung là rất ngắn thì có thể bỏ qua chúng vì khi đó chúng không có ảnh hưởng đáng kể đến công
suất đo được).
B.2. Lưu ý về thiết bị đo
B.2.1. Thiết bị đo dùng cho phép đo công suất
Các khuyến cáo chung dưới đây liên quan đến thiết bị đo công suất. Thiết bị này cần có
- có khả năng đo các đại lượng sau: công suất thực, điện áp và dòng điện hiệu dụng thực và
dòng điện đỉnh;
- độ phân giải công suất bằng 1 mW hoặc tốt hơn;
- hệ số đỉnh dòng điện sẵn có bằng 3 (hoặc lớn hơn) ở giá trị dải danh định;
- dải đo dòng điện tối thiểu là 10 mA (hoặc nhỏ hơn);
- khả năng lấy mẫu liên tục trong toàn bộ phép đo ở các khoảng thời gian phù hợp với độ rộng

băng sao cho tất cả các mẫu được tính đến khi cung cấp kết quả đo được;


- khả năng tạo tín hiệu báo xuất hiện tình trạng ngoài dải;
- khả năng tắt chức năng tự động thay đổi dải đo.
CHÚ THÍCH: Khi đo tải không thuần trở, thay đổi theo thời gian thì có thể cần tắt chức năng tự
động thay đổi dải để ngăn ngừa tình trạng ngoài dải đo hoặc thay đổi dải đo trong khi thử
nghiệm.
Khi xem xét việc mua thiết bị đo công suất, cần xem xét ảnh hưởng của các tham số khác nhau
lên độ không đảm bảo đo tổng. Ngoài độ không đảm bảo đo điện áp, dòng điện và công suất, các
hệ số như hệ số công suất và hệ số đỉnh có thể ảnh hưởng đến độ không đảm bảo đo tổng của
số đọc trên thiết bị đo. Một số tải có thể có hệ số công suất thấp bằng 0,05 và hệ số đỉnh cao
bằng 10 (hoặc lớn hơn đối với các tải điện dung nhỏ).
Trong tiêu chuẩn này, các sản phẩm được đo trong khoảng thời gian xác định để xác định công
suất tiêu thụ của chúng và liệu công suất tiêu thụ này có thay đổi theo thời gian hay không. Do
đó, quan trọng là thiết bị đo công suất bất kỳ cung cấp cơ sở nhất quán để xác định công suất
theo thời gian. Sự biến thiên của số đo công suất theo thời gian của thiết bị đo công suất cần
được xem xét khi chọn đồng hồ đo công suất. Để định hướng, cần đạt được sự biến thiên của
phép đo công suất nhỏ hơn 0,1 % trong khoảng thời gian 8 h khi thử nghiệm với nguồn tài đã
hiệu chuẩn khoảng 1 W. Điều quan trọng là phải theo hướng dẫn của nhà chế tạo về thời gian
khởi động và thời gian làm nóng thiết bị đo (nguồn công suất và thiết bị đo) trước khi sử dụng
chúng để đo.
Độ phân giải của thiết bị đo công suất có thể có ảnh hưởng đáng kể đến độ không đảm bảo đo
tổng của phép đo công suất nếu thiết bị có độ phân giải không đủ để ghi lại kết quả một cách
chính xác. Độ phân giải sẵn có cần tốt hơn nhiều so với độ không đảm bảo đo tổng của phép đo
công suất nếu muốn giảm thiểu ảnh hưởng lên độ không đảm bảo đo tổng.
Khả năng mong muốn nhất đối với đồng hồ đo công suất là khả năng lấy mẫu số đọc trong thời
gian 1 s hoặc nhanh hơn và xuất ra dữ liệu này đến máy tính hoặc bộ ghi dữ liệu theo thời gian
thực. Tất cả các tham số liên quan cần được xuất ra song song (ví dụ, điện áp, dòng điện, công
suất, VA, hệ số đỉnh). Xem B.2.5. Trong một số trường hợp, cũng có thể là rất tốt nếu như thiết bị

đo có khả năng lấy trung bình công suất chính xác trong khoảng thời gian do người vận hành
chọn (điều này thường được thực hiện bằng phép tính toán học nội hàm, lấy năng lượng tích lũy
chia cho thời gian bên trong đồng hồ đo, đây là cách tiếp cận chính xác nhất). Một cách khác,
thiết bị đo công suất phải có khả năng lấy tích phân năng lượng trong khoảng thời gian bất kỳ mà
người vận hành lựa chọn với độ phân giải năng lượng nhỏ hơn hoặc bằng 0,1 mWh và hiển thị
thời gian lấy tích phân với độ phân giải nhỏ hơn hoặc bằng 1 s.
B.2.2. Yêu cầu về đáp tuyến tần số (hài)
Trong trường hợp dạng sóng dòng điện là sóng sin trơn đồng pha với dạng sóng điện áp (ví dụ ở
tải gia nhiệt bằng điện trở), không có thành phần hài trong dạng sóng dòng điện. Tuy nhiên, một
số dạng sóng dòng điện kết hợp với các chế độ công suất thấp bị méo nhiều và dòng điện có
thể giống như thành một chuỗi đỉnh nhọn ngắn hoặc chuỗi các xung trong một chu kỳ xoay chiều
điển hình. Việc này có nghĩa là dạng sóng dòng điện được tạo thành từ nhiều hài bậc cao là bội
của tần số cơ bản (50 Hz hoặc 60 Hz). Hầu hết các bộ phân tích công suất digital sẽ không gặp
khó khăn với phép đo chính xác các thành phần hài dòng điện bậc cao hơn xuất hiện do các chế
độ công suất thấp. Tuy nhiên, khuyến cáo rằng dụng cụ đo công suất cần có khả năng đo các
thành phần hài đến tối thiểu là 2,5 kHz. Lưu ý rằng thành phần hài lớn hơn hài bậc 49 (2 450 Hz
đối với nguồn 50 Hz) thường có công suất nhỏ kèm theo chúng. Nhìn chung, tần số quét của
dụng cụ đo công suất nên tối thiểu bằng hai lần tần số của hài bậc cao nhất có công suất đáng
kể kèm theo nó.
B.2.3. Yêu cầu về lấy mẫu đối với tải chu kỳ và tải xung
Một số tải ở chế độ công suất thấp về bản chất sẽ ở dạng chu kỳ hoặc xung. Các tải này khiến
cho không có khả năng sử dụng các số đọc công suất từ đồng hồ công suất để xác định công
suất ở chế độ công suất thấp. Trong những trường hợp này, cần sử dụng đồng hồ đo có thể
lấy mẫu và ghi dữ liệu ở 1 s hoặc nhanh hơn như quy định ở 5.3.2 (xem thêm B.2.5). Các sản


phẩm khác có thể thể hiện một chuỗi các chế độ sản phẩm khác nhau xuất hiện ở dạng đều
đặn.
Một số chế độ sản phẩm có thể có bản chất chu kỳ trong đó chúng có thể ổn định trong một
khoảng thời gian (thường là nhiều phút) và sau đó có thể chuyển sang một trạng thái năng lượng

cao hơn hoặc thấp hơn trong một khoảng thời gian ngắn. Một số sản phẩm có thể tạo xung công
suất ở các khoảng thời gian không đều đặn. Trong trường hợp này, điều quan trọng là hiểu được
đáp ứng của sản phẩm trước khi bắt đầu phép đo. Trong trường hợp có chu kỳ “đều đặn" của
trạng thái năng lượng khác nhau thì cần kiểm tra toàn bộ số lượng chu kỳ khi xác định công suất
trung bình. Để hiểu đúng hơn về đáp ứng của sản phẩm thì việc kiểm tra profin tải bằng máy hiện
sóng được cài đặt để tác động khi có sự thay đổi đáng kể của tải là hữu ích.
Một số sản phẩm có thể thể hiện một chuỗi các chế độ sản phẩm khác nhau tự động xuất hiện
ở dạng đều đặn. Trong những trường hợp này, mỗi một chế độ sản phẩm riêng rẽ cần được
xác định, đo và lập tài liệu về thời gian của chúng một cách riêng rẽ.
Trong một số trường hợp, có thể yêu cầu phán đoán để xác định xem một chế độ sản phẩm
đơn lẻ thể hiện dạng công suất chu kỳ hoặc sản phẩm trên thực tế có chuỗi các chế độ sản
phẩm khác nhau xuất hiện trong dạng đều đặn hay không. Yếu tố xác định then chốt xem liệu có
các chức năng khác nhau trở nên hoạt động hoặc mất hoạt động trong các mức công suất khác
nhau hay không - nếu điều này xảy ra thì các chức năng này cần được xử lý như các chế độ
sản phẩm riêng rẽ.
Hướng dẫn chung là tải chu kỳ trong một chế độ thường thay đổi các mức công suất trong vài
giây hoặc có thể là vài phút trong một giai đoạn khoảng vài giây đến vài chục phút, trong khi đó,
dạng của các chế độ thường thay đổi trạng thái công suất trong vài phút hoặc vào giờ trong giai
đoạn khoảng từ vài giờ đến vài ngày. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ dàng cho bên thứ
ba để phân biệt các trường hợp này mà không có tài liệu sản phẩm khác.
Ví dụ về các dạng công suất chu kỳ trong một chế độ sản phẩm gồm
- bộ gia nhiệt hoạt động theo chu kỳ để duy trì điều kiện làm việc; và
- tạo công suất ngắn hạn yêu cầu để nạp lại tụ điện để duy trì các chức năng bên trong phạm vi
một trạng thái làm việc cụ thể.
Ví dụ về sản phẩm thể hiện một chuỗi các chế độ là sản phẩm có chế độ công suất thấp hầu
như mọi lúc, hoạt động một hoặc hai lần một ngày trong thời gian ngắn (ví dụ, khoảng 2 min đến
30 min) để nối vào mạng để tải thông tin hoạt động. Trong trường hợp này, sản phẩm rõ ràng là
vào một chế độ thời gian giới hạn khác vì nó đã kích hoạt các chức năng liên quan đến mạng
mà không xuất hiện trong chế độ công suất thấp.
Vì những lý do nêu trên mà thiết bị đo cần cung cấp dữ liệu đầu ra cho máy tính, như mô tả ở

B.2.1.
B.2.4. Đo thành phần tải một chiều
Tùy thuộc vào cấu hình và thiết kế của nguồn công suất, một số tải nhỏ (như các tải liên quan
đến chế độ công suất thấp) có thể tiêu thụ dòng điện không đối xứng, tức là tiêu thụ dòng điện
chỉ trên phần dương hoặc phần âm của chu kỳ điện áp xoay chiều. Đây là thành phần tải công
suất một chiều được cấp điện bởi nguồn điện áp xoay chiều.
Hầu hết các bộ phân tích công suất digital có thể xử lý tốt các thành phần tần số thấp và thành
phần một chiều trong quá trình đo công suất. Tuy nhiên, không thể thực hiện các phép đo chính
xác cho dạng sóng dòng điện kiểu này bằng việc sử dụng đầu vào máy biến áp loại bất kỳ như
máy biến dòng - thành phần một chiều không thể hiện qua đầu vào máy biến áp. Do đó, dụng cụ
đo công suất bất kỳ sử dụng đầu vào điện trở sun trực tiếp để đo dòng điện là thiết yếu. Đồng hồ
đo kiểu đĩa quay sẽ không thích hợp cho tải có kích cỡ bất kỳ của loại này vì các tải một chiều
cũng tạo ra một mômen hãm trên đồng hồ đo và tạo ra thêm độ không chính xác.
CHÚ THÍCH: Sử dụng đồng hồ đo kilo oát giờ dạng đĩa quay truyền thống thường không có khả
năng đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn này (về độ chính xác yêu cầu hoặc phương pháp đo). Các


tải chế độ công suất thấp (nhỏ hơn 10 W) thường không có khả năng vượt được mômen khởi
động cần thiết để vận hành đồng hồ đo dạng đĩa quay và do đó, các tải này có thể xuất hiện là 0
W. Việc này là không thỏa đáng.
B.2.5. Lưu ý về phần mềm tự động
Lấy mẫu các số đọc công suất có thể được thực hiện bằng cách sử dụng máy ghi dữ liệu (tức là
một “thiết bị có thể đọc các loại tín hiệu điện khác nhau và lưu giữ dữ liệu trong bộ nhớ trong để
sau đó tải xuống máy tính”) hoặc bằng cách nối trực tiếp thiết bị đo công suất với máy tính có thể
ghi dữ liệu trực tiếp sau các khoảng thời gian đều đặn. Cấu hình sau là bố trí phổ biến nhất trong
phòng thí nghiệm hiện nay mặc dù có rất nhiều cấu hình khác. Hầu hết các bộ phân tích công
suất digital có giao diện (ví dụ GPIB hoặc giao diện nối tiếp) có thể cho phép ghi đều đặn tất cả
các tham số then chốt trực tiếp đến máy tính hoặc thiết bị thu thập dữ liệu khác trong phòng thí
nghiệm.
Vì hầu hết các thiết bị đo rất linh hoạt khi hoạt động nên người vận hành cần hiểu đúng về đáp

ứng của chúng và cách chúng ghép nối với thiết bị ghi hoặc máy tính. Đặc biệt có một vấn đề
thường gặp liên quan đến việc sử dụng máy phân tích công suất digital khi chúng được điều
khiển từ bên ngoài. Đối với nhiều loại, một khi giao diện bên ngoài với bộ ghi dữ liệu hoặc máy
tính được ghép/hoạt động và bắt đầu thu thập dữ liệu thì chức năng tự động lấy dải thường
được làm mất hiệu lực. Điều này có nghĩa là kỹ thuật viên phòng thử nghiệm cần đoán trước dải
công suất có thể có và hệ số đỉnh yêu cầu trong thời gian theo dõi và đặt bằng tay đồng hồ đo
vào đúng dải trước khi ghi dữ liệu (đối với cả công suất và dòng điện). Do đó, nên chạy thử để
đặt đồng hồ đo đúng (để tránh số đọc ngoài dải). Phần mềm tự động bất kỳ cũng nên phát hiện
và chỉ thị/ghi lại trong trường hợp đồng hồ đo công suất ở tình trạng “ngoài dải”, xem B.1.2 đến
B.1.4 để có thêm thông tin.
B.3. Áp dụng tiêu chuẩn này
Tiêu chuẩn này quy định các thử nghiệm cần thực hiện trên một sản phẩm đơn lẻ để đánh giá
chế độ công suất thấp liên quan. Tiêu chuẩn này không cung cấp bất kỳ chỉ dẫn nào cho tính
biến thiên của sản xuất mà việc này đòi hỏi lấy mẫu cụ thể cho một dải sản phẩm. Với mục đích
phù hợp và đánh giá sự phù hợp, cần xây dựng kế hoạch lấy mẫu đúng đắn.
B.4. Nối các thiết bị đo điện
B.4.1. Xác định bố trí kết nối
Để đạt được đủ độ chính xác và giảm thiểu sự khác nhau giữa các phòng thí nghiệm, điều quan
trọng là thiết bị đo điện được nối theo cách nhất quán. Điện trở vào của mạch đo điện áp của
đồng hồ đo công suất phải xác định và điện trở của sun đo dòng điện không được bằng zero: các
yếu tố này cần được tính đến để đạt mức chính xác yêu cầu. Do đó, nên bố trí các thành phần
đo điện áp và dòng điện của đồng hồ đo công suất theo cách giảm thiểu ảnh hưởng của công
suất tiêu thụ bên trong của thiết bị đo đối với từng phép đo. Vônmet cần được nối với phía nguồn
(xem B.4.2) đối với các công suất thấp hơn và về phía tải (xem B.4.3) đối với các công suất cao
hơn.
Trong trường hợp bố trí đấu nối có thể được định hình thì chọn như sau:
Công suất thấp hơn: lm

Vs


Công suất cao hơn: lm Vs

1
Ra Rv
1
Ra Rv

, thì sử dụng bố trí đấu nối ở B.4.2.

, thì sử dụng bố trí đấu nối ở B.4.3.

trong đó
- Im là dòng điện hiệu dụng đo được của tải tính bằng ampe (A);
- Vs là điện áp cung cấp (V);


- Ra là điện trở của sun dòng điện đối với dải dòng điện được chọn ( );
- Rv là điện trở của vônmét ( ).
Trong thực tế, có thể cần thay đổi dải dòng điện (xem B.2.5) với các phép đo chế độ khác nhau
trên cùng một sản phẩm mà có thể ảnh hưởng đến giá trị Ra. Điều này có thể thay đổi bố trí đấu
nối. Bố trí này cần được đánh giá theo từng trường hợp.
Ngoài ra, độ chính xác của phép đo có thể được cải thiện hơn trong trường hợp có thể tính đến
tiêu tán công suất trong các thành phần đo điện áp và dòng điện của đồng hồ đo công suất. Để
thực hiện việc này có thể yêu cầu lập tài liệu chi tiết một cách thủ công các đặc tính bên trong
của đồng hồ đo. Một số thiết bị đo có thể thực hiện hiệu chỉnh công suất bên trong một cách tự
động và trong trường hợp này không cần hiệu chỉnh bằng tay.
Dưới đây là một phép tính mẫu để xác định bố trí đấu nối sử dụng các công thức trên:
- tải = 10,0 w
- hệ số công suất = 0,5
- điện áp cung cấp = 230 V

- điện trở sun dòng điện = 350 m (0,350 ) (cần cẩn thận để đảm bảo rằng sun dòng điện
không bị quá tải (và đồng hồ đo không ở tình trạng “ngoài dải”), đặc biệt là với các sản phẩm có
hệ số đỉnh cao và/hoặc hệ số công suất thấp)
- điện trở đầu vào điện áp 1,4 M

(1 400 000

)

- dòng điện đo được = 0,0867 A
Dòng điện điểm gấp khúc đối với phép đo điện áp phía nguồn được cho bởi:
Vs

1
Ra Rv

230

1
0,350 1400000

230 0,00143

0,329 A

Vậy trong trường hợp này, vônmet cần được nối với phía nguồn (xem B.4.2) vì dòng điện tải nhỏ
hơn giá trị tính được. Đối với ví dụ này tải chuyển đổi xấp xỉ 37 W (đối với hệ số công suất và
sun dòng điện này), lớn hơn giá trị này thì cần sử dụng cấu hình công suất cao hơn ở B.4.3 (đo
điện áp ở phía tải).
B.4.2. Tải công suất thấp hơn: đo điện áp phía nguồn

Trong trường hợp xác định theo B.4.1, bố trí đấu nối đối với sản phẩm thành phẩm được cấp
điện trực tiếp từ nguồn công suất xoay chiều được thể hiện trên Hình B.1 và bố trí đối với sản
phẩm thành phẩm được cấp điện qua một nguồn công suất bên ngoài được thể hiện trên Hình
B.2. Điện áp cần được đo trên phía nguồn cung cấp của cảm biến dòng điện của đồng hồ đo
công suất trong trường hợp người vận hành có thể đặt cấu hình.

Hình B.1 - Bố trí đấu nối đối với sản phẩm được cấp điện trực tiếp từ nguồn công suất xoay
chiều đối với các tải công suất thấp hơn


×