Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; ý nghĩa của nó đối với việc phát triển lý luận ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.43 KB, 10 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn
chủ trương vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của
triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển lý luận. Bởi, thực tiễn
đúng đắn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi một lý luận khoa học, đúng
đắn, nếu không thực tiễn đó sẽ là thực tiễn mù quán, mò mẫm, mất phương hướng,
không có tính hướng đích. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”1.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, công tác lý luận và việc tổ chức, triển khai
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong thời kỳ đổi mới đã có những bước phát
triển, “góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch
định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước” 2. Sau
20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW, Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa XI đã nhận định: Công tác lý luận của Đảng đã đạt được những kết
quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển; chú trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 2011) và Hiến pháp năm 2013; bước đầu hình thành hệ thống
lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những kết quả đó góp phần tích cực vào thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của
công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta cũng đã thẳng thắn
chỉ ra những hạn chế, yếu kém, bất cập của công tác lý luận nói chung, trong đó có
việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Chẳng hạn như, Đại hội XI nhận định:
“Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn
đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”3. Hay Đại hội XII của Đảng ta cũng chỉ ra: “Công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”, “công tác tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt
ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học
cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý


1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr95.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr. 118
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2011, tr. 172, 173
2

1


luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề
cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”4...
Như vậy, những khuyết điểm, bất cập của công tác lý luận đã được Đảng ta đã
được chỉ ra, song vẫn chưa khắc phục được một cách cơ bản. Sự lạc hậu, yếu kém
của lý luận đã làm hạn chế vai trò dẫn đường, tiên phong của lý luận khoa học
cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự lạc hậu, yếu kém của lý luận nói trên do
nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản là việc thực hiện nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu, phát triển lý luận vẫn còn chưa
triệt để, nhiều khi chỉ là hình thức.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên, tôi chọn vấn đề: “Nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn; ý nghĩa của nó đối với việc phát triển lý luận ở Việt Nam” làm
bài thu hoạch môn Triết học Mác - Lênin của Lớp hoàn chỉnh Chương trình cao
cấp lý luận chính trị Khóa 4.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Phạm trù thực tiễn
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt
động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế trong quan niệm về

thực tiễn của các nhà triết học trước đó trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đưa ra một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn cũng như vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức.
2. Phạm trù lý luận
Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, nhưng không phải cứ có
kinh nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Lý luận được hình thành thông qua hoạt
động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lý luận của các nhà lý luận.
Theo Hồ Chí Minh: “Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”5.
Như vậy có thể hiểu, lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát
từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
4
5

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 67
Hồ Chí Minh: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.11. tr.96.

2


3.1. Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát
từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn
Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực
tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn đó, nếu không có
lý luận đó sẽ là lý luận suông, lý luận thuần túy sách vở, xa rời cuộc sống dễ trở
thành ảo tưởng, không có căn cứ, giáo điều, kinh viện. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Hoạt động thực tiễn của
con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu sống, tồn tại của con người.

Muốn sống, tồn tại, con người phải sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên và xã hội,
nghĩa là hoạt động thực tiễn. Như vậy, con người quan hệ với thế giới xung quanh
bắt đầu bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Bằng và thông qua hoạt động thực
tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy
luật của mình. Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết về sự vật và dần dần có
cơ sở để khái quát những hiểu biết này thành lý luận. Như vậy, chính thực tiễn đã
cung cấp “vật liệu” cho nhận thức, cho lý luận. Có thể nói, mọi tri thức của con
người xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn còn là cơ sở đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi con người trong đời
sống của mình phải giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức, lý luận phát
triển. Thực tiễn còn quy định khuynh hướng phát triển của lý luận. Hơn nữa, thực
tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, luôn đòi hỏi phải được khái quát, tổng kết
để làm giàu kinh nghiệm, phát triển lý luận, định hướng cho hoạt động thực tiễn
tiếp theo. Vì thế, thực tiễn luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học
mới, của các lý luận mới.
Thực tiễn còn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người, làm cho
chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên cơ sở đó, giúp con người nhận
thức hiệu quả hơn, khái quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người cũng cải biến luôn chính bản thân mình, phát triển năng lực, trí tuệ của
mình. Ph.Ăngghen đã viết: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không
phải một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và
trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển song song với
việc người ta đã học cải biến tự nhiên”6.
Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy
móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu quả hơn và khái quát lý luận đúng đắn hơn.
6

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.20, tr.270.

3



Chính nhu cầu chế tạo, cải tiến công cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc hỗ
trợ con người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy, lý luận và bản thân thực
tiễn phát triển.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích của lý luận. Hoạt động nhận thức, lý luận của
con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người đã
bị quy định bởi nhu cầu tồn tại, nhu cầu sống, nhu cầu hoạt động thực tiễn của
mình. Để tồn tại, để sống, con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh để có
những hiểu biết nhất định về thế giới, trên cơ sở đó phải khái quát những hiểu biết
của mình thành lý luận để định hướng cho những nhu cầu này cũng như hoạt động
của mình. Như vậy, chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên,
xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung quanh.
Nghĩa là, nhận thức của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu thực
tiễn. Nói khác đi, thực tiễn chính là mục đích của nhận thức, của lý luận. Lịch sử
phát triển của nhân loại đã chứng tỏ, không có nhận thức vị nhận thức, không có lý
luận vị lý luận, chỉ có nhận thức vị thực tiễn, lý luận vị thực tiễn.
Những tri thức - kết quả của nhận thức, những lý luận - kết quả của khái quát
hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, cụ thể là vận dụng vào sản xuất vật chất, cải tạo
chính trị - xã hội, vào thực nghiệm khoa học phục vụ con người. Nói khác đi,
thước đo đánh giá giá trị của lý luận, của nhận thức chính là thực tiễn. Nếu nhận
thức, lý luận không vì thực tiễn, không nhằm phục vụ, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo
thực tiễn mà vì chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức thì
nhất định sẽ mất phương hướng, phải trả giá.
Thứ ba, thực tiễn là cơ sở đánh giá sự đúng, sai của lý luận. Tri thức của con
người là kết quả của quá trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản ánh đúng hoặc
không đúng hiện thực khách quan. Theo triết học Mác - Lênin, chân lý không phải
bao giờ cũng thuộc về số đông. Chân lý cũng không phải là cái gì đó hiển nhiên.
Chân lý cũng không phải chỉ là cái có ích, có lợi. Triết học Mác - Lênin cho rằng,

chân lý là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng
định chân lý, bác bỏ sai lầm. Như chúng ta đã biết, dù tồn tại dưới hình thức nào
thì thực tiễn đều là những hoạt động vật chất - cảm tính. Chính bằng và thông qua
những hoạt động vật chất - cảm tính này con người mới có những hiểu biết về sự
vật, hiện tượng. Con người có được những hiểu biết về thế giới thông qua hoạt
4


động thực tiễn. Do vậy, cũng chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn con người mới
chứng minh được những tri thức mà mình có được là chân lý hay là sai lầm. Hơn
nữa, chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, con người mới “vật chất hóa” được tri
thức, “hiện thực hóa tư tưởng”. Trong quá trình “vật chất hóa” tri thức, “hiện thực
hóa tư tưởng” đó, con người mới khẳng định được chân lý, bác bỏ được sai lầm.
Khi đọc lại Hêghen, V.I.Lênin khẳng định: “… con người chứng minh bằng thực
tiễn của mình sự đúng đắn khách quan của những ý niệm, khái niệm, tri thức của
mình, của khoa học của mình”7. Ph.Ăngghen trong Lútvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức cũng khẳng định: “Sự bác bỏ một cách hết sức
đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác
(những quan niệm triết học sai lầm - tác giả nhấn mạnh), là thực tiễn, chính là thực
nghiệm và công nghiệp”8. Chính vì vậy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn đánh giá sự
đúng sai của lý luận. Có nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác nhau, do vậy
cũng có nhiều hình thức kiểm tra sự đúng, sai của lý luận khác nhau, chẳng hạn
như bằng thực nghiệm khoa học, bằng việc áp dụng lý luận vào cải biến xã hội…
Vì vậy, việc sử dụng thực tiễn như là phương thức kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm
cũng phải linh hoạt, mềm dẻo, không được cứng nhắc.
Với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý, thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có
tính tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý thể
hiện ở chỗ, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy
nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Ngoài thực tiễn ra không có gì có thể

khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối của thực tiễn với tư cách là tiêu
chuẩn của chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do
đó, với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý nó cũng không đứng im mà thay đổi. Vì
vậy, khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng thay đổi theo cho phù hợp với
thực tiễn mới. Cũng vì vậy, thực tiễn được xem xét trong không gian càng rộng,
trong thời gian càng dài thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Những người mắc
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa thường lấy thực tiễn vụn vặt để chứng minh cho luận
điểm của mình. Do đó, thực tiễn ấy không mang tính điển hình và tính phổ biến.
3.2. Thực tiễn phải luôn được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa
học, nếu không sẽ là thực tiễn mù quáng, mò mẫm
Lý luận khoa học có vai trò to lớn đối với thực tiễn, thể hiện ở những điểm sau:
7
8

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1981, t.29, tr.203.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.21, tr.406.

5


Thứ nhất, lý luận khoa học đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.
Nhờ những đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận khoa học có
vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học,
thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách
quan và biến đổi chính thực tiễn. Lý luận khoa học vạch ra phương hướng, phương
pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo hướng tiến
bộ vì lợi ích của con người. Nếu thực tiễn không được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt
bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ rơi vào mò mẫm, vòng vo, mất thời gian,
tốn công sức, tiền của, không hiệu quả.
Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp

quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần
chúng. Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần chúng trong cuộc sống và
trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, khi lý luận thâm nhập được vào đông đảo quần
chúng sẽ tạo thành sức mạnh vật chất vĩ đại. Trên cơ sở đó tạo thành khối thống nhất
giữa lý luận và quần chúng để cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự vật,
của thực tiễn sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn;
giúp hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.
Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học về
tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học đó,
con người có thể thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội và
bản thân phục vụ cho mục đích của mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, do vậy, nó có thể
thông qua hoạt động thực tiễn tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi
thực tiễn. Lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó phản
ánh đúng đắn hiện thực khách quan, thâm nhập được vào đông đảo quần chúng
nhân dân và được con người vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp điều
kiện thực tiễn, lịch sử cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí,
giáo điều, kinh nghiệm… sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn.
Mức độ, hiệu quả tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của lý luận; mức độ
thâm nhập của lý luận vào quảng đại quần chúng nhân dân; vào sự vận dụng sáng
tạo, đúng đắn lý luận hay không bởi chủ thể hoạt động thực tiễn.
6


4. Ý nghĩa của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với
việc phát triển lý luận ở Việt Nam
Thứ nhất, ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
- Về bệnh kinh nghiệm: Kinh nghiệm đóng vai trò hết sức to lớn trong nhận

thức cũng như trong hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng nếu tuyệt đối hóa
kinh nghiệm, coi thường, hạ thấp lý luận, không chịu học tập lý luận thì sẽ mắc
bệnh kinh nghiệm. Biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng, như coi thường lý luận
và học tập lý luận; cho kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định mọi thành công
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; không đánh giá đúng vai trò của đội ngũ trí
thức… Bệnh kinh nghiệm, về bản chất là khuynh hướng tư tưởng và hành động
tuyệt đối hóa kinh nghiệm cá biệt, cụ thể; biến chúng thành những kinh nghiệm
phổ biến nhằm áp dụng những kinh nghiệm này cho mọi trường hợp, mọi điều
kiện, mọi hoàn cảnh, hạ thấp, coi thường lý luận. Người mắc bệnh kinh nghiệm
thường nhân danh đề cao thực tiễn để hạ thấp lý luận. Trên thực tế, “thực tiễn” mà
họ đề cao là thực tiễn cục bộ, vụn vặt, chưa chỉnh thể, chưa toàn vẹn, chưa mang
tính phổ biến. Về thực chất, những người mắc bệnh kinh nghiệm không chỉ hạ thấp
lý luận mà còn hạ thấp thực tiễn.
Để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả thì phải thực hiện
đồng bộ nhiều giải pháp, như: thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ; khắc phục tư tưởng
gia trưởng, phong kiến, như tư tưởng coi thường trí thức, tuyệt đối hóa kinh nghiệm
của người cao tuổi… Đặc biệt, phải quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, hiểu và vận dụng đúng quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn.
- Về bệnh giáo điều: Về bản chất, bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và
hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường hạ thấp thực tiễn, không đánh giá đúng
vai trò của thực tiễn trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động lý luận, hoặc áp
dụng lý luận và kinh nghiệm không tính tới điều kiện thực tiễn lịch sử cụ thể.
Việt Nam có hai loại bệnh giáo điều. Một là, giáo điều lý luận, thể hiện ở chỗ
vận dụng lý luận không căn cứ vào những điều kiện thực tiễn cụ thể; học tập lý
luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở; bệnh “tầm chương,
trích cú”; bệnh câu chữ… Hai là, giáo điều kinh nghiệm, thể hiện ở chỗ, vận dụng
kinh nghiệm của ngành khác, người khác, địa phương khác, nước khác vào mình
nhưng không tính tới những điều kiện thực tiễn lịch sử cụ thể của mình.
7



Để ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả bệnh giáo điều cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp, như: từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN; khắc phục chủ nghĩa thành tích, chủ nghĩa hình thức… Đặc biệt là phải
quán triệt tốt trên thực tế nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, hiểu và
vận dụng đúng đắn quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, cả hai căn bệnh kinh nghiệm và giáo điều trên đều có một nguyên
nhân chung là vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Do đó, để
quán triệt tốt nguyên tắc này, cần thực hiện tốt trên thực tế phương châm học đi đôi
với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn và đặc biệt tăng cường tổng kết thực tiễn. Xét
về bản chất, tổng kết thực tiễn là hoạt động trí tuệ của chủ thể tổng kết thực tiễn; là
quá trình chủ thể tổng kết thực tiễn bằng tư duy khoa học với phương pháp biện
chứng duy vật làm cơ sở phân tích, đánh giá, khái quát hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động cải tạo chính trị xã hội, cải tạo các quan hệ xã hội; hoạt động thực nghiệm
khoa học nhằm kiểm tra chân lý, kiểm tra sự đúng sai của lý luận để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận và rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ đạo hoạt động thực
tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo. Trên cơ sở đó, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả. Tuy nhiên để tổng kết thực tiễn có
hiệu quả thì cần phải quán triệt quan điểm khách quan; các kết luận rút ra phải mang
tính khái quát cao; mục đích tổng kết thực tiễn phải đúng đắn.
Thứ hai, góp phần đẩy mạnh, nâng cao trình độ lý luận trong điều kiện mới.
Việc thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với việc phát
triển lý luận ở nước ta còn góp phần đẩy mạnh, nâng cao trình độ lý luận trong điều
kiện mới. Để làm được điều đó cần chú ý thực hiện tốt những vấn đề sau:
- Một là, phải tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong điều kiện mới.
- Hai là, Đảng phải luôn nâng cao trình độ lý luận của mình cũng như của cán
bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới. Bởi lẽ, không có trình độ lý luận thì không

thể tổng kết kinh nghiệm một cách có lý luận và không thể định hướng cho công
cuộc đổi mới.
- Ba là, phải kiên quyết chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái về tư
tưởng - lý luận; bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bởi lẽ, đổi mới không phải là từ bỏ con đường XHCN của sự phát triển mà
là từ bỏ mô hình CNXH giáo điều, tập trung, quan liêu; là lựa chọn biện pháp, cách
8


thức xây dựng CNXH cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam
cũng như quốc tế.
- Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về CNXH,
tiêu biểu là các vấn đề: lý luận về CNXH; lý luận về phương hướng xây dựng
CNXH; lý luận về quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN; lý luận về kinh tế thị
trường định hướng XHCN; lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN; lý luận về xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
C. KẾT LUẬN
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi hỏi bản thân cũng như mỗi một cán bộ,
đảng viên phải không ngừng nỗ lực quán triệt đầy đủ nguyên tắc này. Muốn vậy:
Cần coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn kinh
nghiệm. Song nếu dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ dựa vào kinh nghiệm, thỏa
mãn với vốn liếng kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối
hóa kinh nghiệm mà coi nhẹ lý luận, ngại học tập, không chịu vươn lên để nắm lý
luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì mắc bệnh kinh
nghiệm, như vậy thực sự chưa tốt, cần phải khắc phục. Theo Hồ Chí Minh: “Có
kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”.
Nhưng việc coi trọng lý luận cũng đòi hỏi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều.
Nếu tuyệt đối hóa lý luận mà coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di
bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung, trừu tượng không

xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử - cụ thể để vận dụng lý luận thì mắc bệnh giáo điều,
xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, vận dụng kinh nghiệm của người khác
nhưng không tính tới những điều kiện của bản thân mình.
Đối với cách mạng Việt Nam, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trì trệ, khủng hoảng của CNXH thời kỳ trước đây là sự nhận thức giản đơn, yếu
kém, xơ cứng của lý luận. Thể hiện ở chỗ việc hiểu và vận dụng chưa đúng các
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, chưa nhận thức và vận dụng đúng
các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Sự chậm trễ
công tác lý luận trong một cơ chế quan liêu bao cấp kéo dài làm cản trở sự sáng tạo,
tạo nên sự bảo thủ, trì trệ của đời sống xã hội. Chính vì vậy, nhiệm vụ đổi mới tư
duy lý luận phải gắn liền với sự vận động của thực tiễn trong nước và thế giới. Chỉ
có đổi mới tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn mới có thể nắm bắt được các quy
9


luật khách quan và trên cơ sở đó đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn cho công
cuộc xây dựng CNXH. Đại hội lần thứ VII khẳng định rằng: “Chỉ có tăng cường
tổng kết thực tiễn phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động
chủ động và sáng tạo, bớt được những sai lầm và những bước đi quanh co phức
tạp”.
Tóm lại, nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực
tiễn để phát triển và hoàn thiện lý luận là cơ sở để có được nhận thức và hành động
đúng đắn không chỉ riêng cho từng cá nhân cán bộ, đảng viên mà cả đối với Đảng ta
trong quá trình lãnh đạo đất nước, lãnh đạo dân tộc xây dựng thành công CNXH./.

10




×