Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Định Thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.04 KB, 12 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số (DTTS) luôn là di sản quý giá; góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và
thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa truyền thống các DTTS là những
giá trị vật chất, tinh thần được tích tụ, gìn giữ trong toàn bộ quá trình lịch sử phát
triển các DTTS. Trong dòng chảy toàn cầu hóa, bảo tồn văn hóa truyền thống các
DTTS nhằm lưu giữ tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, làm phong phú kho tàng
văn hóa thế giới; giúp tăng cường khai thác nguồn tài nguyên văn hóa, thúc đẩy
phát triển kinh tế đất nước.
Bên cạnh đó, làm tốt công tác này còn góp phần nâng cao lòng tự hào, tự tôn
dân tộc; chống lại những âm mưu phá hoại, chia rẽ của các lực lượng thù địch. Tuy
nhiên, trong bối cảnh cuộc sống hiện đại, song song với cơ hội được giao lưu, hội
nhập là nguy cơ nhiều giá trị văn hóa truyền thống, nhất là của các DTTS bị mai
một, lãng quên. Đứng trước những thách thức ấy, việc khôi phục, bảo tồn, phát triển
giá trị văn hóa các DTTS Việt Nam riêng trở thành nhiệm vụ cấp bách, vừa mang
tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài, để phát triển bền vững đất nước.
Hiện nay, đứng trước những thay đổi và yêu cầu mới của thời đại, những giá
trị văn hoá truyền thống của đồng bào DTTS Bình Định cũng có những mặt bộc lộ
tiêu cực, gây cản trở công cuộc “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” ở vùng nông thôn,
miền núi. Tuy nhiên, những bản sắc văn hoá tiến bộ, tích cực rất cần được bảo tồn,
phát huy, nhân rộng và phát triển hơn nữa theo hướng hiện đại để góp phần vừa tạo
nên nét đặc sắc đa dạng riêng có của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam, vừa hướng đến hội nhập sâu rộng vào văn hóa quốc tế nhằm xây dựng thành
công “Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” như tinh thần của
Nghị quyết TW 9 (khoá XI) của Đảng đã đề ra.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên, tôi chọn vấn đề “Bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Định - Thực trạng và
giải pháp phát triển” làm bài thu hoạch môn Văn hóa và phát triển của Lớp hoàn
chỉnh Chương trình cao cấp lý luận chính trị Khóa 4.

1




B. NỘI DUNG
1. Một số khái niệm mang tính lý luận chung
1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách
nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học
hiện đại theo cách gọi của châu Âu), dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã
hội học,...và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau.
Về mặt thuật ngữ khoa học: Văn hóa được bắt nguồn từ chữ La tinh "Cultus"
mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng
đất" và Cultus Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm
hồn con người".
Cuối thế kỷ XX, Federico Mayor - Tổng thư ký của UNESCO quan niêm: “Văn
hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các
truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa”. Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ

hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời
2


gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những
chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này
qua đời khác thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp
lại mà thành di sản văn hóa của toàn nhân loại.
Tựu trung lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa.
Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội
của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được
biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.2. Khái niệm giá trị
Giá trị là khái niệm được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành
khoa học, kể cả khoa học tự nhiên. Khái niệm giá trị trong tiếng Anh (value) có
nhiều nghĩa. Một trong những nội hàm được hiểu đó là: tính chất có ích hay đáng
giá hoặc quan trọng; tiêu chuẩn ứng xử đạo đức hoặc nghề nghiệp; nguyên lý nghệ
thuật, pháp luật, khoa học…1
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Giá trị là cái làm cho một vật có ích lợi, có ý
nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó”2.
Như vậy, trong ngôn ngữ của mọi dân tộc, khái niệm giá trị thường được dùng
với hàm nghĩa chỉ mặt tích cực. Nói đến giá trị là nói cái có ý nghĩa được đa số người
trong xã hội thừa nhận. Giá trị là hệ thống những đánh giá của con người về bất cứ
một hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là
hay, là đẹp, có ý nghĩa. Nhận thức có tính phổ biến về giá trị, trước hết đó là cái có ý

nghĩa với sự tồn tại của con người và cộng đồng, xã hội. Trên cơ sở này có thể định
nghĩa: Giá trị là khái niệm chỉ ý nghĩa của hiện tượng vật chất cũng như tinh thần mà
mỗi cộng đồng người quan tâm dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu hay lợi ích nhất định.
1.3. Khái niệm giá trị văn hóa dân tộc
1
2

Từ điển Anh – Việt, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.1977.
Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, 1998, tr.371.

3


Hệ giá trị văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị mà cộng đồng dân tộc đó
sáng tạo, tích lũy trong tiến trình của lịch sử, bao gồm cả giá trị văn hóa vật chất và
giá trị văn hóa tinh thần. Trên cơ sở quan niệm về giá trị, có thể định nghĩa giá trị
văn hóa dân tộc như sau:
Giá trị văn hóa dân tộc là kết quả sáng tạo, tích lũy của một cộng đồng, dân tộc,
được phản ánh trong các di sản, tài sản văn hóa vật thể, phi vật thể, được cộng đồng
lựa chọn, thừa nhận và khao khát hướng tới, thông qua sự trải nghiệm lịch sử.
1.4. Khái niệm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
Theo Từ điển Tiếng Việt, “bảo tồn” được hiểu là giữ lại không để cho mất đi,
“phát huy” là làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít
đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp 3. Bảo tồn là
bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó,
bảo tồn là không để mai một, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái.
Bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc theo nghĩa chung nhất, được hiểu là những
nỗ lực của cá nhân và cộng đồng nhằm lưu giữ và kế thừa những gì được xem là các
giá trị của dân tộc (giá trị văn hóa dân tộc). Những giá trị văn hóa được bảo tồn và
phát huy là các giá trị đã và đang còn tiếp tục tạo nên năng lực nội sinh, là động lực

cho sự phát triển văn hóa - xã hội hiện tại và tương lai của cá nhân và cộng đồng.
Đảng ta đã khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo tồn, kế thừa các giá trị
văn hóa dân tộc ở nước ta hiên nay: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị
mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn
hóa vật thể và phi vật thể”4. Bảo tồn các giá trị văn hóa phải vì mục tiêu phát triển.
Bảo tồn các giá trị văn hóa phải gắn với phát triển, phát huy các giá trị văn hóa.
Phát huy các giá trị văn hóa dân tộc được nhận thức là trên cơ sở sàng lọc, duy
trì và làm phong phú thêm những nét đẹp văn hóa vốn có. Phát huy giá trị văn hóa là
những hành động hướng đích nhằm đưa các giá trị văn hóa vào trong thực tiễn xã hội,
3

Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển Tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, 1998, tr.37; tr.742.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc
gia, H.1998, tr.63.
4

4


trở thành tiềm năng và nội lực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, mang
lại những lợi ích cả về phương diện vật chất và tinh thần cho cá nhân và cộng đồng
dân tộc. Hay nói cách khác, phát huy giá trị văn hóa là những hành động hướng đích
nhằm đưa các giá trị văn hóa vào trong thực tiễn xã hội với tư cách vừa là môi trường,
vừa là năng lực nội sinh góp phần thúc đẩy phát triển bền vững xã hội.
Khái niệm phát huy thường gắn liền với truyền thống, nghĩa là phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc, là phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể của cộng đồng dân tộc. Suy đến cùng, khái niệm phát huy là làm cho những
giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống lan tỏa trong cộng đồng xã hội.

Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống là một trong những cơ sở quan trọng
của phát triển văn hóa quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh
hiện nay.
Thời kỳ đổi mới đất nước, một trong những mục tiêu, nhiệm vụ của chính
sách phát triển văn hóa Việt Nam là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa
và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ
tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố
và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung xây
dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao
lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm
nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc là tất yếu, bảo tồn và phát huy
luôn là hai mặt của một vấn đề trong xây dựng và phát triển văn hóa. Hoạt động
bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc phải gắn với việc phát huy, tạo động lực cho sự
phát triển văn hóa và con người trong giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Bình Định trong thời gian qua
2.1. Khái quát vài nét văn hóa của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Định
Bình Định có dân tộc Kinh (chiếm 98%), ngoài ra còn có các dân tộc khác
cùng sinh sống trên địa bàn, trong đó chủ yếu là 3 dân tộc Ba Na, Chăm và Hrê
sinh sống ở các huyện miền núi và trung du.
5


Người Bana: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme. Ngoài tên gọi Bana ra,
người Bana ở từng vùng, từng địa phương còn có những tên gọi khác nhau như
Gơlar, Tơlô, Giơ lâng (Y lăng), Rơ ngao, K’riêm, Roh, Conkđeh, A la kông,
K’pơng kông, Bơ nâm …Người Bana cư trú trong các huyện Vân Canh, Vĩnh
Thạnh, An Lão, và 3 xã ở huyện Hoài Ân, 1 xã 3 làng của huyện Tây Sơn.
Người Hrê: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me miền núi. Trong quá trình

sinh tồn và phát triển của mình, người H’rê mang nhiều tên gọi khác nhau. Đồng bào
H’rê tự gắn tên mình theo tên sông, suối nơi đồng bào cư trú. Ví như ở Minh Long
(tỉnh Quảng Ngãi) có con nước Rvá, gọi là “người Rvá”, ở Ba Tơ có con sông Liên
gọi là “người nước Liên” … H’rê là tên gọi của một đoạn thượng nguồn sông Trà
Khúc, chảy qua vùng đồng bào cư trú và đã trở thành tên gọi chính thức của dân tộc
này. Ở miền núi Bình Định, người H’rê cư trú tập trung chủ yếu ở huyện An Lão.
Người Chăm: Người Chăm (Chăm Hroi) ở Bình Định cư trú tập trung ở
huyện Vân Canh. Ở huyện Vân Canh, người Chăm sống xen cư với người Bana và
người Kinh. Có khá nhiều tên gọi và tên tự gọi khác nhau: Chăm Hroi, Hroi, A roi,
Chăm ĐắcRây, Chăm Hơđang, Chăm Đèo … Theo đồng bào Chăm ở Vân Canh,
Chăm Hroi (hay Hroi, A roi) chỉ là những người Chăm ở vùng cao, là người Chăm
ở vùng núi. Chăm ĐắcRây hay Chăm Hơđang là Chăm phía mặt trời mọc… Hiện
nay trong giới khoa học chưa có một kết luận chắc chắn về nguồn gốc người Chăm
ở Bình Định và ở Phú Yên. Giới khoa học khẳng định ngưới Chăm (Chăm Hroi) ở
Bình Định, Phú Yên là một bộ phận trong cộng đồng Chăm (Chàm) ở Việt Nam.
Các dân tộc Chăm, Bana, H’rê ở Bình Định trong quá trình tồn tại và phát
triển đã hình thành nên những bản sắc văn hoá vừa mang đặc trưng riêng của cộng
đồng dân tộc, vừa mang đặc trưng chung của khu vực, của quốc gia đa tộc người.
Những bản sắc văn hoá riêng của người Chăm, người Bana, người H’rê ở Bình
Định rất phong phú và đa dạng được thể hiện trên các lĩnh vực văn hoá sản xuất,
văn hoá đảm bảo đời sống, văn hoá chuẩn mực xã hội và văn hoá phi vật thể.
Những bản sắc văn hoá riêng đó đã trở thành nếp sống, trở thành các chuẩn giá trị
được đồng bào giữ gìn và lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đó là những
nét đẹp trong truyền thống sản xuất, trong cách ăn, ở, mặc, trong cách đối nhân xử
6


thế, trong đời sống tâm linh hay trong văn học nghệ thuật,… được thể hiện trên
một số nét sau:
Trong văn hoá sản xuất: Người Chăm từ lâu đã biết đến nông nghiệp dùng cày,

người H’rê bên cạnh kinh tế nương rẫy, có kinh tế lúa nước, trong khi đó đặc thù của
người Bana là kinh tế nương rẫy … Nhưng nhìn chung hoạt động kinh tế trước đây
của đồng bào các dân tộc chủ yếu dựa vào tự nhiên, mang tính chất tự cung tự cấp,
đóng kín. Như thế nhu cầu lớn đặt ra hiện nay đối với sản xuất kinh tế của các dân tộc
Chăm, Bana H’rê ở Bình Định là cần phải nhanh chóng chuyển đổi tính chất của nền
kinh tế, đưa nền kinh tế tự cung tự cấp đóng kín sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá,
thị trường. Tuy nhiên, đây là một việc làm rất khó khăn vì phải phá vỡ truyền thống
lâu đời của đồng bào các dân tộc: Sản xuất chủ yếu để tiêu dùng chứ không phải để
buôn bán. Hơn thế nữa điều kiện miền núi khác xa với đồng bằng: dân cư thưa thớt,
cơ sở hạ tầng hết sức yếu kém, sức mua của người dân có hạn… cũng là những cản
trở trong định hướng phát triển kinh tế hàng hoá. Nhưng nếu như chúng ta có sự quan
tâm đúng mức, có sự đầu tư thoả đáng cho đồng bào các dân tộc, thì tin rằng những
trở ngại trên sẽ dần dần được khắc phục, những thế mạnh trong kinh tế của người
Chăm, người Bana, người H’rê sẽ được phát huy cao độ.
Trong văn hoá đảm bảo đời sống: Hiện nay, người Chăm, Bana, H’rê còn rất
ít sống trên những ngôi nhà sàn. Thiết nghĩ rằng ở miền núi nếu mất đi những ngôi
nhà sàn, hay các nhà rông, cũng có nghĩa là những giá trị văn hoá truyền thống đã
bị mai một, đã bị mất đi. Như thế việc giữ lại những ngôi nhà nhỏ, xinh xắn (ở cả
ba dân tộc Chăm, bana, H’rê), những ngôi nhà Rông to đẹp (ở người Bana), giữ lại
những váy, áo, khăn đội đầu, đồ trang sức, giữ lại những cơm lam, cháo chua,
phong tục uống rượu cần … là giữ lại những tài sản vô giá cho muôn đời con cháu
mai sau. Cố nhiên bên cạnh đó những đặc tính ăn uống lãng phí (nhất là trong
những dịp hội hè, cưới hỏi, ma chay), ăn uống không hợp vệ sinh, nuôi gia súc, gia
cầm dưới gầm sàn … chúng ta cần khắc phục, loại bỏ.
Trong văn hoá chuẩn mực xã hội: Những nét đẹp trong văn hoá chuẩn mực
xã hội của đồng bào Chăm, Bana, H’rê tỉnh Bình Định được thể hiện qua thế ứng xử
cộng đồng làng, họ tộc (đối với người Chăm, H’rê, huyết thống đối với người Bana),
7



qua gia đình, hay cụ thể và bao trùm là qua mối quan hệ giữa con người với con
người. Đó là lòng yêu quê hương, yêu lao động, là sự gắn bó với núi rừng, với dân
tộc. Đó là sự mến khách, là tình cảm chân thành, mộc mạc, là truyền thống tôn trọng
người già (truyền thống lão quyền). Đó là tính bình đẳng, tính dân chủ, tính cộng
đồng trong đối nhân xử thế, tính bền vững trong đời sống hôn nhân gia đình,…
Trong văn hoá phi vật thể: Giá trị văn hoá phi vật thể của đồng bào người
Chăm, Bana, H’rê tỉnh Bình Định được thể hiện qua sự đa dạng tín ngưỡng, cổ
truyền, qua hệ thống lễ hội và nhất là qua sự phong phú của các loại hình nghệ thuật.
Những lễ hội đặc sắc của các dân tộc Chăm, Bana, H’rê ở Bình Định như lễ hội đâm
trâu, lễ hội đầu xuân, lễ cúng liên quan đến chu kỳ sản xuất nương rẫy, lễ cúng máng
nước hay các lễ nghi liên quan đến một đời người…, là những sinh hoạt văn hoá tinh
thần không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh của đồng bào mà còn có tác dụng củng cố
ý thức cộng đồng, giáo dục truyền thụ những kinh nghiệm liên quan đến sản xuất.
Đặc biệt hiện nay trong đời sống văn hoá tinh thần các dân tộc Chăm, Bana, H’rê
tỉnh Bình Định còn lưu giữ được nhiều vốn văn nghệ dân gian quý báu. Đó là các
loại chuyện kể, các loại khan, H’amon, thơ ca dân gian, các hình thức và thể loại
múa, các hội hoạ điêu khắc. Đó còn là sự phong phú của các loại hình nhạc cụ, của
dàn nhạc cồng chiêng,… Những giá trị văn hoá tinh thần trên đây đã trở thành niềm
tự hào và cần phải được giữ lại không phải chỉ riêng cho con cháu người Chăm,
Bana, H’rê ở Bình Định mà còn cho cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
2.2. Những kết quả đạt được
Trong những năm gần đây, Bình Định đã có sự quan tâm đến công tác bảo tồn
và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Công tác nghiên cứu, giới thiệu văn hóa,
văn nghệ dân gian của các dân tộc thiểu số được đẩy mạnh; đã tổ chức biên soạn
sách dạy và học tiếng 3 dân tộc thiểu số trong tỉnh (Chăm, Bana, H’rê); hoàn thành
các dự án văn hóa phi vật thể: Lễ mừng cốm mới của dân tộc Bana, Lễ hội mừng
mưa của dân tộc Chăm H’roi, Lễ cưới và sinh hoạt âm nhạc dân gian của dân tộc
H’rê, Ngày hội cồng chiêng của người Chăm, Bana…; duy trì nghề thủ công
truyền thống, khôi phục các làn điệu dân ca, dân vũ, các loại nhạc cụ, trang phục
truyền thống và các loại dụng cụ lao động sản xuất, sinh hoạt của đồng bào các dân

8


tộc thiểu số. Đến nay đã có 76 nhà rông làng Bana và Chăm, 28 nhà sinh hoạt văn
hóa cộng đồng làng H’rê được xây dựng kiên cố.
2.3. Hạn chế và thách thức
Tuy nhiên, đứng trước những thay đổi và yêu cầu mới, những giá trị văn hoá
truyền thống của người Chăm, Bana, H’rê bên cạnh mặt tích cực, phát huy tác
dụng cũng có những mặt bộc lộ tiêu cực, cản trở trong công cuộc “công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” vùng nông thôn, miền núi hiện nay, việc giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá Chăm, Bana, H’rê của vùng đất này là rất quan trọng.
- Do tác động phát triển kinh tế xã hội, do sự phá vỡ môi trường tự nhiên
không gian văn hóa cộng đồng truyền thống nên xu hướng đồng hóa tự nhiên về
văn hóa đang làm mai một các di sản văn hóa dân tộc thiểu số ở Bình Định.
- Bà con dân tộc ở Bình Định chủ yếu sống ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh,
trình độ dân trí còn thấp, các hiện tượng mê tín dị đoan, các tập quán hủ tục trỗi
dậy trói buộc người dân làm cho văn hóa truyền thống phát triển thiếu lành mạnh,
suy giảm ý thức bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc của địa phương. Đặc
biệt, do đời sống của đồng bào còn khó khăn nên nhiều sản phẩm văn hóa truyền
thống đã bị mang đi bán hoặc bị đánh cắp (chiêng, ché, các khu mộ cổ bị đào bới
để lấy cắp cổ vật).
- Nguồn kinh phí đầu tư cho công tác này còn thiếu và chưa kịp thời.
- Tác động của hội nhập và toàn cầu hóa văn hóa: Quá trình hội nhập cũng là
quá trình toàn cầu hóa về văn hóa, không thể phát triển bền vững nếu không đặt
văn hóa trong các chiến lược phát triển kinh tế. Vì vậy, đầu tư cho bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa dân tộc được xem là đầu tư cho phát triển bền vững.
Các quốc gia trên thế giới ngày càng đề cao, tôn trọng bản sắc văn hóa dân
tộc, cũng chính là bảo vệ sức mạnh nội tại, phát huy sức đề kháng của di sản văn
hóa dân tộc. Xử lý tốt mối quan hệ giữa giao lưu, mở cửa, hội nhập với bảo vệ bản
sắc văn hóa dân tộc sẽ là điều kiện thuận lợi cho bảo tồn và phát huy di sản văn

hóa dân tộc ở Bình Định.
- Công nghiệp văn hóa đang có chiều hướng phát triển mạnh, tạo ra nhiều sản
phẩm mới nhưng nếu không quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến các hiện tượng không lành
9


mạnh, ảnh hưởng đến bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số ở Bình
Định (sự truyền bá các sản phẩm văn hóa độc hại, phim ảnh, băng đĩa, sách báo…).
- Sự bùng nổ thông tin sẽ lôi cuốn đồng bào các dân tộc theo một xu hướng
chung, tạo ra các thách thức như áp lực từ bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến đời sống
ngôn luận, triệt tiêu các thông tin, xóa mòn hệ giá trị về chân, thiện, mỹ; tác động
bất lợi đến lớp thanh thiếu niên là người các dân tộc thiểu số, hình thành lối sống
bạo lực, phi luân, thực dụng, tách cá nhân ra khỏi cộng đồng.
- Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa sẽ làm cho xã hội có nhiều thay đổi
sâu sắc và toàn diện, các khu đô thị mới hình thành, dân số tăng nhanh ở các khu
thành thị. Từ đó, có những thay đổi về nếp sống, lối sống, tập tục, lễ hội, các trò
chơi… cư xử thiếu đúng đắn với di sản văn hóa dân tộc. Lớp trẻ thích các sản
phẩm mới, ca nhạc, sân khấu hiện đại, bỏ rơi các sản phẩm văn hóa truyền thống.
Ở nông thôn, thiết chế cổ truyền bị lung lay, văn hóa buôn có nguy cơ bị đe dọa.
3. Một số giải pháp nhằm tiếp tục bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
tiêu biểu của dân tộc thiểu số tỉnh Bình Định trong thời gian đến
Trong thời gian đến, để tiếp tục bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tiêu
biểu của dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Định theo tôi cần thực hiện tốt một số giải
pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng các Nghị quyết của Trung ương về
công tác bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc để nâng cao nhận thức của
các ngành, các cấp và toàn thể xã hội về công tác bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa dân tộc; đưa công tác này vào các chương trình công tác của tỉnh, của các
ngành, các địa phương; tiếp tục tuyên truyền Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII,
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đến đồng bào các dân tộc nói chung, trong đó có

đồng bào dân tộc thiểu số ở Bình Định nói riêng.
Thứ hai, tổ chức các cuộc thi, sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân tộc; tổ
chức đào tạo cán bộ nghiên cứu là người dân tộc tại chỗ; tổ chức giao lưu với các
tỉnh, khu vực và quốc tế… Đẩy mạnh công tác nghiên cứu di sản văn hóa phi vật
thể, sưu tầm có hệ thống, tránh trùng lặp, lãng phí.

10


Thứ ba, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống (dệt thổ cẩm, gốm,
tượng gỗ, chế tác nhạc cụ, rượu cần…) gắn liền với việc nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho bà con dân tộc thiểu số nơi đây.
Định kỳ thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống ở cơ sở
gắn với sự kiện lịch sử của tỉnh như: (Ngày hội Văn hóa Cồng chiêng; Liên hoan
Dân ca dân vũ; Thi dệt thổ cẩm; Thi chế tác nhạc cụ dân tộc; Thi ẩm thực dân tộc;
…); đăng cai tổ chức các sự kiện văn hóa lịch sử mang tầm khu vực và quốc tế.
Thông qua đó mà tôn vinh văn hóa dân tộc, nâng cao tinh thần đoàn kết, lòng tự
hào dân tộc, giúp đồng bào có ý thức bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Cần giáo dục, khuyến khích, động viên đồng bào Chăm, Bana, H’rê sử dụng,
mặc nhiều hơn những bộ váy áo, khăn đội đầu, đồ trang sức… mang đặc tính dân
tộc. Chí ít trong những ngày lễ, ngày hội, ngày tết, ngày vui của đồng bào, động
viên cho được mọi người mặc, trang sức theo lối dân tộc. Riêng đối với những gia
đình khá giả, cần động viên họ mua sắm, sử dụng các phương tiện vật chất cao cấp
như giường, tủ, bàn, ghế, đồ điện… Đó cũng chính là cách thức kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại trong công cuộc cách tân và đổi mới hiện nay.
Thứ tư, phát triển chữ viết của các dân tộc gồm từ điển, sách học song ngữ,
khuyến khích học tiếng dân tộc, các sáng tác bằng tiếng dân tộc.
Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng gia đình, buôn, thôn văn hóa để có điều kiện
bảo tồn và phát huy những thuần phong mỹ tục trong lối sống, nếp sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan (ma lai, tục nói dây) có hại

đến di sản văn hóa dân tộc.
Thứ sáu, phối hợp với các địa phương, các nghệ nhân trong toàn tỉnh tổ chức
phục dựng một số lễ hội truyền thống tiêu biểu; đồng thời mở lớp truyền dạy đánh
chiêng, sử dụng nhạc cụ dân tộc cho con em đồng bào dân tộc, phấn đấu đến năm
2020, 100% các làng đều có đội chiêng trẻ.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc
thiểu số ở Bình Định là bảo tồn và phát huy những thế mạnh trong kinh tế, trong ứng
xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Đó chính là sức mạnh về những giá trị văn
11


hoá vật chất và văn hoá xã hội, văn hoá tinh thần mà người Chăm, người Bana,
người H’rê đã sáng tạo nên và sống bền lâu cùng các dân tộc. Tuy nhiên, trong cuộc
sống xây dựng xã hội mới hiện nay, bên cạnh bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hoá đã được sàng lọc qua thời gian, chúng ta còn phải biết tiếp thu những tinh hoa
của văn hoá thời đại, của những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Có như vây chúng ta mới
xây dựng thành công “một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc
dân tộc” như tinh thần của Nghị quyết lần thứ 5 (khoá VIII) mà Đảng ta đã đề ra.

12



×