Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thực trạng và những giải pháp cơ bản thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam và ở tỉnh Bình Định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.19 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trong thực hiện bình đẳng giới đối với phụ nữ, thì quyền bình đẳng trong đời
sống chính trị là quyền quan trọng để xây dựng một xã hội công dân, thể hiện
quyền làm chủ của công dân với nhà nước. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
được xem là một trong những nội dung quan trọng, then chốt, tạo cơ hội cho phụ
nữ được nói tiếng nói đại diện cho giới mình, được phát huy trình độ năng lực,
kinh nghiệm, thể hiện quan điểm trong quyết định các chính sách về các lĩnh vực
khác nhau của quốc gia. Thông qua đó, góp phần tạo nên nền tảng vững chắc cho
việc thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong những năm qua, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành công đáng
kể về chỉ số sức khỏe, giáo dục, thu nhập và cơ hội nghề nghiệp của phụ nữ, nhưng
vẫn còn một khoảng cách lớn về bình đẳng giới trên hành trình đến với các vị trí
lãnh đạo, quản lý. Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu thực trạng bình đẳng
giới trong tham chính và tìm kiếm các giải pháp nhằm từng bước tăng cường hơn
nữa vị thế chính trị cho phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn vấn đề “Thực trạng và những giải pháp
cơ bản thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam và ở tỉnh Bình Định
hiện nay” làm bài thu hoạch môn Giới trong lãnh đạo, quản lý của Lớp hoàn chỉnh
Chương trình cao cấp lý luận chính trị Khóa 4.

1


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Giới và giới tính
Giới và giới tính là hai khái niệm có quan hệ mật thiết với nhau. Sự phân biệt
khái niệm “giới” và “giới tính” được quy định tại Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm
2006 như sau:


“1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan
hệ xã hội.
2. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ”.
Như vậy, khái niệm “giới” và “giới tính” giúp phân biệt đặc điểm của nữ giới
và nam giới để hiểu rõ thực chất và cơ chế hình thành các đặc điểm đó. Sự khác
nhau giữa “giới” và “giới tính” được thể hiện cụ thể qua các nội dung sau:
- “Giới tính” là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện
sinh học, có sẵn từ khi sinh ra. Còn “giới” đề cập đến vị trí, vai trò của nam và nữ
mà xã hội mong muốn, kỳ vọng.
- “Giới tính” mang tính ổn định cao và bị quy định bởi quy luật sinh học. Còn
“giới” được hình thành trong quá trình sống, học tập của con người từ khi còn nhỏ
đến lúc trưởng thành.
- Đặc điểm giới tính mang tính đồng nhất (ở mọi nơi trên thế giới đều giống
nhau) và khó thay đổi thì các đặc điểm giới lại rất đa dạng, phong phú và có thể
thay đổi ở từng quốc gia, dân tộc dưới sự tác động của các yếu tố xã hội.
- Định kiến giới
Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 ghi rõ: “Định kiến giới là nhận thức,
thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của
nam hoặc nữ”. Nói cách khác, đây là những suy nghĩ phổ biến của cộng đồng xã
hội về khả năng và công việc của nữ giới và nam giới, tức là những gì nữ giới và
nam giới có thể làm, cần làm và nên làm.
- Vai trò giới
Vai trò giới là tập hợp những hoạt động và hành vi ứng xử mà nam giới và nữ
giới học được và thể hiện trong thực tế, dựa trên mong đợi từ phía xã hội đối với họ.
Các vai trò giới là đa dạng (tùy thuộc vào vị trí và bối cảnh), thay đổi theo
thời gian (tương ứng với sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh) và thay đổi theo
2


sự thay đổi của quan niệm xã hội (tương ứng với việc chấp nhận hoặc không chấp

nhận một hành vi ứng xử vai trò nào đó).
- Phân biệt đối xử theo giới
Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 của Việt Nam ghi rõ: Phân biệt đối xử
về giới là việc hạn chê, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị
trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội và gia đình.
- Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là tình trạng không có sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính
(về quyền, trách nhiệm và cơ hội). Nhờ vậy, nữ giới và nam giới được tôn trọng
ngang nhau, được tiếp cận các nguồn lực như nhau, được thụ hưởng thành quả như
nhau, có cơ hội và điều kiện như nhau để nhận biết được các quyền con người của
mình và khả năng đóng góp của bản thân vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, chính
trị và xã hội của đất nước.
- Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về lãnh đạo, quản lý, tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu này, lãnh đạo và quản lý được hiểu theo nghĩa những vị trí
lãnh đạo, những vị trí quản lý chính thức hay chức vụ chính thức trong hệ thống
chính trị Việt Nam. Như vậy, bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở đây được
giới hạn ở việc xem xét bình đẳng giới trong các vị trí, chức vụ lãnh đạo, quản lý
chính thức trong hệ thống chính trị. Theo phạm vi này, bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý có nghĩa là nam giới, nữ giới có vị trí, vai trò ngang nhau trong công
tác lãnh đạo, quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình
ngang nhau và được thụ hưởng kết quả bổ nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản
lý chính thức trong hệ thống chính trị ngang nhau.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý của việc thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý
Thúc đầy sự tham gia lãnh đạo, quản lý của nữ giới trong hệ thống chính trị ở
Việt Nam phù hợp với đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện cam kết chính trị mạnh mẽ đối với công tác thúc
đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua việc phê

duyệt các Công ước quốc tế liên quan đến bình đẳng giới như Công ước CEDAW.
Cam kết chính trị của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
3


cũng được thể hiện trong các văn bản pháp luật cao nhất như Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015. Đảng và Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới và
công tác phụ nữ như:
- Chỉ thị số 37 – CT/TW ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương về một
số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới.
- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ
nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4-6-2008 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới.
- Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19-5-2009 của Chính phủ quy định về
các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới.
- Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24-12-2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.
- Quyết định số 1241/QĐ-TTg ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015.
- Quyết định số 56/2011/QĐ-TTg ngày 14-10-2011 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia.
- Quyết định số 1696/QĐ-TTg ngày 2-10-2015 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020.
- Thông báo Kết luận số 196-TB/TW ngày 16-3-2015 của Ban Bí thư về Đề
án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ của phụ nữ trong tình hình mới”.
- Quyết định số 178/QĐ-TTg ngày 28-1-2016 của thủ tướng Chính phủ ban

hành Kế hoạch triển khai Thông báo kết luận số 196-TB/TW ngày 16-3-2015 của
Ban Bí thư về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình
đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”.
- Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương
về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

4


- Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương
về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của cảc đơn vị sự nghiệp công lập.
- Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20-1-2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh
công tác phụ nữ trong tình hình mới.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định rõ
quyền bình đẳng của công dân, quyền bình đẳng giới trong việc tham gia vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Quy định rõ tại Điều 16, Điều 26, Điều 27, Điều 28
và Điều 29 của Hiến pháp 2013.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 khẳng định các quy định về bình đẳng giới
trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý tại điều 11 như sau:
“Nam nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ
quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Nam nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ
nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức”.
Thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý phù hợp với mục tiêu đầu
tiên của Chiến lược về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 là: “Tăng cường sự
tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm dần

khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”. Chiến lược đã cụ thể hóa mục tiêu này
thành các chỉ tiêu cụ thể:
Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy đảng nhiệm kỳ 2016 –
2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2011 – 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2020 trên 35%.
Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95%
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh
đạo chủ chốt là nữ.
Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan
của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ
quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.

5


2. Thực trạng bình đẳng giới trong chính trị của phụ nữ Việt Nam và liên hệ
thực tiễn ở tỉnh Bình Định hiện nay
2.1. Thực trạng bình đẳng giới trong các cấp ủy đảng
Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng
công tác bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý nói
riêng. Cam kết chính trị của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới trong chính trị
được thể hiện cụ thể qua nhiều nghị quyết, chỉ thị, luật, chính sách về bình đẳng giới
và công tác cán bộ. Cụ thể, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đưa ra chỉ tiêu cán bộ nữ
trong các cấp ủy đảng: “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng
các cấp đạt từ 25% trở lên”. Sau đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 và đến
cuối năm 2017, tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng vẫn chưa đạt chỉ tiêu. Cụ thể:
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở: Tỷ lệ cấp ủy viên là nữ chiếm 19,69%.
- Đảng bộ cấp huyện và tương đương: Tỷ lệ cấp ủy viên là nữ chiếm 14,3%.
- Đảng bộ trực thuộc Trung ương: Tỷ lệ cấp ủy viên là nữ chiếm 13,3%.1

Nghị quyết số 11-NQ/TW đưa ra chỉ tiêu cán bộ nữ cấp cao trong các cơ quan
Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ phấn đấu đến năm 2020: “Cơ quan lãnh đạo
cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu
bình đẳng giới”. Sau Đại hội Đảng toàn quốc nhiệm kỳ 2016-2021, kết quả cho thấy,
trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tỷ lệ nữ Ủy viên là 20/200 chiếm 10%. Bộ
Chính trị có 3 nữ ủy viên trong tổng số 19 ủy viên chiếm gần 15,8%.
Như vậy, tỷ lệ nữ giới tham gia cấp ủy tại các cấp cơ sở, huyện, tỉnh và Trung
ương mặc dù có tăng hơn nhiệm kỳ trước nhưng chưa đạt tỷ lệ 25% đề ra trong
Nghị quyết số 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011-2020.
2.2. Thực trạng bình đẳng giới trong các cơ quan dân cử
Nghị quyết số 11-NQ/TW đã đưa ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020 “nữ đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%”. Tuy nhiên, kết quả
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 20162021 cho thấy, Việt Nam vẫn chưa đạt chỉ tiêu đã đề ra. Cụ thể như sau:
- Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 26,72%.
1

Xem Chính phủ: Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17-10-2017 về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới,
Hà Nội, 2017, tr.10.

6


- Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021 cấp tỉnh đạt 26,54%.
- Tỷ lệ nữ cấp huyện đạt 27,85% (tăng 3,23%) và cấp xã đạt 26,59%.2
Như vậy, sau hai khóa Quốc hội (XII và XIII) tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội liên
tục giảm3, nhiệm kỳ này (2016-2021) đã bắt đầu có sự tăng trở lại. Đây cũng là
nhiệm kỳ có tỷ lệ nữ ứng cử viên sau vòng hiệp thương thứ 3 cao nhất so với một
số nhiệm kỳ gần đây, đạt 38,79%. Tuy nhiên, mặc dù Luật bầu cử Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015 đã quy định về việc bảo đảm có ít nhất 35% tổng số

người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ
nhưng trong đợt bầu cử vừa qua, có tới 23 địa phương chưa bố trí đủ số nữ ứng cử
viên trong danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội theo quy định của luật. Ba tỉnh
Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên Huế (riêng Tây Ninh, Thừa Thiên Huế cả hai
nhiệm kỳ XIII và XIV) không có nữ đại biểu Quốc hội4.
2.3. Thực trạng bình đẳng giới trong bộ máy hành chính cấp Trung ương và
địa phương
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đề ra chỉ tiêu cán
bộ lãnh đạo nữ trong bộ máy chính quyền nhà nước như sau: “Phấn đấu đến năm
2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ”. Tuy nhiên, tính đến hết tháng 8-2017, tình
hình thực hiện và đánh giá khả năng thực hiện chỉ tiêu đến năm 2020 cho thấy, Việt
Nam chưa thể đạt được chỉ tiêu này.
Đến tháng 8-2017, chúng ta có 12/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt, gồm: 10/22 bộ, cơ
quan ngang bộ5 và 2/8 cơ quan thuộc Chính phủ6, đạt tỷ lệ 40% (giảm 7% so với năm
2015). Ở cấp tỉnh, có 16/63 địa phương có nữ lãnh đạo chủ chốt chiếm tỷ lệ 25,39%.
Ở cấp huyện, một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp huyện cao
từ 20% trở lên như: Bình Dương (24,24%), Thành phố Hồ Chí Minh (22,45%),

2

Xem Chính phủ: Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17-10-2017 về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới,
Hà Nội, 2017.
3
Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XI là 27,31%; khóa XII là 25,76% và khóa XIII là 24,4%.
4
Xem Chính phủ: Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17-10-2017 về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới,
Hà Nội, 2017, tr.10-11.
5

Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước.
6
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam.

7


Ninh Bình (20,69%). Các tỉnh Cà Mau, Bình Thuận không có nữ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở cấp này7.
Một số địa phương có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã cao là Thành phố Hồ
Chí Minh (chiếm 32,18%), thành phố Đà Nẵng (25,79%), Bình Dương (25,40%),
Đồng Nai (24,8%). Nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới
5%, trong đó phần lớn là các tỉnh, thành phố miền Bắc.
2.4. Thực trạng bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Nghị quyết số 11-NQ/TW đưa ra chỉ tiêu lãnh đạo nữ trong bộ máy chính quyền
nhà nước: Phấn đâu đến năm 2020 “các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ 30% trở lên, nhất
thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ”. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020 đưa ra chỉ tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% cơ quan Đảng,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức
có tỷ lệ 30% trở lên là nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động”.
Việc thu thập số liệu chỉ tiêu này hiện đang gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ
quan được giao chủ trì thực hiện thống kê số liệu này, do đó không thu thập được
số liệu này8.
2.5. Liên hệ thực tiễn bình đẳng giới trong chính trị ở tỉnh Bình Định9
- Tỷ lệ nữ đảng viên/ tổng số đảng viên: Năm 2014: 11.781/41.708 đảng viên
(tỷ lệ 28,2%). Năm 2015: 12.559/43.627 đảng viên (tỷ lệ 28,8%).
- Tỷ lệ nữ được kết nạp vào Đảng/ tổng số đảng viên mới được kết nạp: Năm 2014:
829/2.156 đảng viên (tỷ lệ 38,5%). Năm 2015: 959/ 2.325 đảng viên (tỷ lệ 41,2%).

- Tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng thuộc nhiệm kỳ Đại hội Đảng XII/ tổng
số nữ đảng viên thuộc cùng một cấp uỷ.
Cấp uỷ tỉnh
Cấp uỷ huyện
Cấp uỷ xã

Năm 2014
4/49 (Tỷ lệ 8,16%)
42/364 (Tỷ lệ 11,5%)
306/2151 (Tỷ lệ 14,2%)

Năm 2015
4/48 (Tỷ lệ 8,3%)
38/357 (Tỷ lệ 10,6%)
304/2157 (Tỷ lệ 14,1%)

7

Bộ Nội vụ: Báo cáo số 4949/BC-BNV ngày 20-10-2016 về số liệu nữ lãnh đạo, quản lý chính quyền các cấp cuối
nhiệm kỳ 2011-2016.
8
Xem Chính phủ: Báo cáo số 454/BC-CP ngày 17-10-2017 về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới,
Hà Nội, 2017, tr.12.
9
Xem Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định: Báo cáo số 15/BC-UBND ngày 16-3-2016 về tình hình thực hiện Bình đẳng
giới và việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới tại tỉnh Bình Định, tr.5-6.

8



- Tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội/ tổng số đại biểu Quốc hội tại địa phương: Nữ
đại biểu Quốc hội khoá XIII: 2/8 đại biểu (Tỷ lệ 25%). Nữ đại biểu Quốc hội khoá
XIV: 3/8 đại biểu (Tỷ lệ 37,5%).
- Tỷ lệ nữ tham gia HĐND các cấp/ tổng số đại biểu tham gia HĐND cùng
cấp: Theo số liệu thống kê đầu nhiệm kỳ 2016-2021, toàn tỉnh có 720 đại biểu
HĐND các cấp là nữ. Trong đó:
+ Đại biểu HĐND cấp tỉnh có 13/61 (Tỷ lệ 21,31%);
+ Đại biểu HĐND cấp huyện có 72/390 (Tỷ lệ 18,46%);
+ Đại biểu HĐND cấp xã có 635/4.156 (Tỷ lệ 15,28%);
- Tỷ lệ nữ là lãnh đạo UBND tỉnh: 01/4 (Tỷ lệ 25%).
- Tỷ lệ lãnh đạo nữ cấp sở, ngành và tương đương:
+ Trưởng ban, ngành và tương đương: 02/36 (Tỷ lệ 5,6%)
+ Phó Trưởng ban, ngành và tương đương: 06/68 (Tỷ lệ 8,8%)
- Tỷ lệ lãnh đạo nữ là lãnh đạo cấp phòng trở lên:
+ Trưởng phòng và tương đương: 10/80 (Tỷ lệ 12,5%)
+ Phó Trưởng phòng và tương đương: 29/92 (Tỷ lệ 31,5%)
Theo báo cáo số 106 - BC/TU ngày 23/02/2016 của Tỉnh uỷ về Tổng kết thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ cấu đội ngũ cán bộ
lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể của tỉnh chưa tương xứng với lực lượng lao
động nữ trong toàn tỉnh (cấp tỉnh 10%, cấp huyện 3,01 %, cấp xã, phường 4,5%).
- Đánh giá nguyên nhân thành công và chưa thành công trong việc thực hiện
mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị tại địa phương:
+ Thuận lợi: Nhận thức và sự quan tâm, tạo điều kiện của Cấp uỷ Đảng,
Chính quyền địa phương đã có sự chuyển biến: trong việc quy hoạch, đào tạo, bố
trí sử dụng cán bộ nữ; tạo điều kiện để Hội LHPN tham gia vào các hoạt động quản
lý nhà nước để thông qua đó thực hiện vai trò của Hội LHPN trong việc đại diện
cho quyền lợi, lợi ích chính đáng của Phụ nữ, trẻ em trên các lĩnh vực. Bên cạnh
đó, các tầng lớp phụ nữ ngày càng có ý thức hơn về vai trò, trách nhiệm của mình
đối với gia đình, xã hội; thể hiện sự năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn để

hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác, tổ chức tốt cuộc sống gia đình.
+ Khó khăn: Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm tới việc
quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ nữ. Một số nơi có quy hoạch nhưng thiếu
9


quan tâm đào tạo, bồi dưỡng tạo điều kiện, cơ hội cho cán bộ nữ được rèn luyện và
thể hiện năng lực. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ nữ cũng chưa thực sự có ý thức phấn
đấu vươn lên về mọi mặt; trong thực tế quá trình lấy phiếu thăm dò tín nhiệm các
chức danh lãnh đạo, tỷ lệ cán bộ nữ được tín nhiệm còn thấp.
Qui định về độ tuổi nghỉ hưu đối với nữ là 55, nam là 60 nên độ tuổi được cử
đi đào tạo và đưa vào qui hoạch dự nguồn, bổ nhiệm cán bộ quản lý lần đầu của nữ
thấp hơn nam 5 tuổi. Điều này đã làm giảm cơ hội, động cơ phấn đấu, tham gia vào
các hoạt động xã hội của nhiều phụ nữ.
Quy định chế độ trợ cấp đối với cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh được cử đi
học, trong đó có trợ cấp bổ sung đối với cán bộ, công chức là nữ đi học ngoài các chế
độ trợ cấp chung (nếu là cán bộ nữ được trợ cấp thêm 75.000đồng/người/tháng; nếu
đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được trợ cấp thêm 150.000đồng/người/tháng)
đã góp phần động viên cán bộ nữ phấn đấu học tập nâng cao trình độ. Tuy nhiên, vẫn
chưa có các quy định cụ thể nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong đào tạo - bồi dưỡng
như: quy định ưu tiên cử cán bộ nữ có cùng tiêu chuẩn, điều kiện đi học trước; các
khoá đào tạo, bồi dưỡng phải bảo đảm tỷ lệ nữ… Do đó, trong thực tế vì nhiều lý do
khác nhau tỷ lệ cán bộ nữ tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng vẫn còn thấp.
Hiện nay, cơ cấu lãnh đạo nữ trong cấp ủy Đảng, cơ quan quản lý nhà nước
còn thấp chưa tương xứng với lực lượng lao động nữ; Y tế và Giáo dục là hai
ngành có tỷ lệ lao động nữ trên 50% nhưng tới nay cũng không có cán bộ lãnh đạo
cấp sở là nữ. Đội ngũ cán bộ nữ dự nguồn các chức danh lãnh đạo chiếm tỷ lệ thấp.
Vì vậy, nếu trong thời gian đến không có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát thì cơ cấu
cán bộ lãnh đạo nữ các cấp sẽ tiếp tục hẫng hụt.
3. Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam

nói chung và ở tỉnh Bình Định nói riêng thời gian đến
3.1. Nhóm các giải pháp liên quan đến khung luật pháp, chính sách thúc đẩy
bình đẳng giới trong chính trị
Thứ nhất, rà soát lại những chỉ tiêu về tỷ lệ nữ làm lãnh đạo, quản lý còn đang
mang tính định tính và thiếu cụ thể. Bổ sung những chỉ tiêu cụ thể, định lượng về
tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý như đưa chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý
trong các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân. Trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, bổ sung các chỉ tiêu cho các nữ giới trong toàn bộ quá
trình cán bộ, đảm bảo các chỉ tiêu cán bộ được cập nhập hàng năm.
10


Thứ hai, rà soát lại hệ thống chính sách, luật pháp liên quan đến sự tham gia
lãnh đạo, quản lý của nữ giới, xóa bỏ những quy định đang hạn chế sự tham gia,
tiếp cận cơ hội và thụ hưởng các cơ hội làm lãnh đạo, quản lý đối với nữ giới trong
hệ thống chính trị. Điều 187 về độ tuổi nghỉ hưu trong Bộ luật Lao động cần được
xem xét và điều chỉnh để đảm bảo công bằng giới.
Thứ ba, rà soát các quy định của Đảng và Nhà nước về độ tuổi, đào tạo, bồi
dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, nghỉ hưu, xác định những bất hợp lý và bất lợi đối với
phụ nữ khi thực hiện những quy định này để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
Luật Bình đẳng giới.
Thứ tư, rà soát lại những quy định của Đảng và Nhà nước về tiêu chuẩn quy
hoạch, đào tạo, luân chuyển, biệt phái và bổ nhiệm cán bộ tính đến vai trò giới
trong gia đình của phụ nữ để đưa ra những quy định phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nam giới và nữ giới.
Thứ năm, bổ sung những hình thức hướng dẫn các phương pháp đạt tỷ lệ chỉ
tiêu cán bộ lãnh đạo nữ trong các văn bản liên quan đến công tác cán bộ.
Thứ sáu, bổ sung và tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát cụ thể, các
hình thức khen thưởng và kỷ luật vào các văn bản về bình đẳng giới trong lĩnh vực
chính trị và công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước.

Thứ bảy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách và dịch vụ xã hội nhằm
chia sẻ trách nhiệm chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người bệnh, góp phần tạo điều
kiện tốt hơn cho nữ giới tham gia có hiệu quả vào công tác lãnh đạo, quản lý.
3.2. Nhóm các giải pháp liên quan đến văn hóa, nhận thức về bình đẳng giới
trong chính trị
Thứ nhất, toàn bộ hệ thống chính trị cần tăng cường và đa dạng hóa công tác
tuyên truyền về bình đẳng giới trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó
tính đến thế mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng. Đa dạng hóa các
hình ảnh của nữ giới với các vai trò và nghề nghiệp khác nhau, đặc biệt trong vai
trò lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, đưa nội dung bình đẳng giới vào toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm tạo nên những thế hệ công dân Việt Nam có tư tưởng bình đẳng giới và sớm
được tiếp xúc với tư tưởng bình đẳng giới từ những cấp học đầu đời cho đến các
cấp học cao hơn, giúp từng bước nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong gia
đình và toàn xã hội.
11


Thứ ba, bảo đảm các chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị có môn
học Bình đẳng giới hoặc có nội dung bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm giới, và trang bị các kỹ năng lãnh đạo, quản lý thúc đẩy bình đẳng giới
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Lồng ghép bình đẳng giới vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên viên
trong toàn bộ hệ thống chính trị nhằm từng bước đẩy lùi định kiến giới tại công sở.
Thứ tư, từng bước thay đổi vai trò của nam giới trong gia đình bằng việc chia
sẻ trách nhiệm đối với những công việc lao động không được trả công trong gia
đình thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, vận động và tôn vinh nam giới chia
sẻ công việc gia đình.
3.3. Nhóm các giải pháp liên quan đến việc nâng cao vai trò, năng lực của các
cấp ủy đảng, các câp chính quyền và các cơ quan hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và
chính quyền các cấp trong việc kịp thời quán triệt các văn bản của Đảng về bình
đẳng giới trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các văn bản chỉ đạo, văn bản cụ thể hóa các
chính sách, luật pháp của Trung ương về bình đẳng giới của các bộ, ban, ngành và
các cấp chính quyền địa phương. Cụ thể hóa các chỉ tiêu bình đẳng giới vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Thứ ba, bố trí kinh phí và các nguồn lực cụ thể đi kèm các văn bản chỉ đạo,
văn bản cụ thể hóa các chính sách, luật pháp của Trung ương về bình đẳng giới của
các bộ, ban, ngành và các cấp chính quyền địa phương đảm bảo thực hiện hiệu quả
các chính sách bình đẳng giới đã ban hành.
Thứ tư, ban hành cơ chế phối hợp và giao trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan,
đơn vị thuộc hệ thống chính trị trong việc thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Nhà nước đối
với việc triển khai, thực hiện các văn bản, các chỉ tiêu về bình đẳng giới nói chung,
bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng.
Thứ sáu, xây dựng và triển khai mạng lưới cán bộ nữ và chương trình hướng dẫn
cán bộ nữ tại các bộ, ngành và các tỉnh, thành với kinh phí và nguồn nhân lực đi kèm.
Thứ bảy, tăng cường đâu tư nguồn lực cho các đơn vị hoạt động thúc đẩy bình
đẳng giới trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội
12


hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trong đó, đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển năng
lực nghiên cứu chính sách bình đẳng giới trong chính trị dựa trên bằng chứng cho
các đơn vị hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới nhằm nâng cao chất lượng công tác
tham mưu chính sách bình đẳng giới cho các cấp ủy đảng và chính quyền từ Trung
ương đến địa phương.
Thứ tám, nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách dựa trên bằng chứng về các

vấn đề liên quan đến bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý cho các cấp Hội Liên hiệp
Phụ nữ và nâng cao năng lực tham mưu chính sách cho cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh để kịp thời đề xuất các tham mưu chính sách liên quan đến bình đẳng giới trong
lãnh đạo, quản lý cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh.
3.4. Nhóm các giải pháp nâng cao năng lực và sự tự tin cho cán bộ nữ
Thứ nhất, Trung ương giao Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xây
dựng nội dung chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo nữ và bố trí kinh phí
để Học viện tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nữ và dự nguồn cán bộ
lãnh đạo nữ trong toàn bộ hệ thống chính trị theo định kỳ hàng năm nhằm nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của sự lãnh đạo, quản lý của nữ giới và các biện pháp
chiến lược thúc đẩy bình đẳng giới.
Thứ hai, giao Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng nội dung
chương trình hướng dẫn cán bộ nữ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sự tự tin, phát triển
mạng lưới nghề nghiệp, mạng lưới lãnh đạo và chuẩn bị nguồn lãnh đạo nữ kế cận
và triển khai nhân rộng chương trình này ra các bộ, ngành, các tỉnh trong toàn quốc.

13


C. KẾT LUẬN
Các nghiên cứu khoa học đều cho thấy, phụ nữ có thể đảm nhận những lĩnh
vực được coi là “địa hạt” của nam giới, như trong lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, sự
thiếu vắng phụ nữ tham chính trong tương quan với nam giới là vấn đề mang tính
toàn cầu và có tính lịch sử - truyền thống. Các chính trị gia, các nhà quản lý ở hầu
hết các quốc gia chủ yếu là nam giới, Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, việc thu hút sự tham chính của phụ nữ - phát
huy nguồn lực trí tuệ của “một nửa thế giới” đang là một trong những chính sách
ưu tiên của các quốc gia.
Mặc dù, Việt Nam là quốc gia được đánh giá có những quyết tâm chính trị cao
trong lĩnh vực bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong tham chính nói

riêng. Trong bối cảnh hiện nay, việc phụ nữ Việt Nam đã tham gia tích cực vào
lãnh đạo, quản lý và bước đầu được ghi nhận và đánh giá cao. Kết quả thực hiện
mục tiêu chiến lược quốc gia bình đẳng giới cho thấy, Việt Nam là một trong số ít
nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt
trên 25%. Tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực nữ cán bộ trong hệ thống
chính trị thì tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ còn thấp so với đội ngũ lao động nữ
và so với yêu cầu, tỷ lệ nam và nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý vẫn còn mất
cân đối…
Ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bình Định nói riêng, sự thiếu vắng phụ nữ
trong vai trò lãnh đạo, quản lý bắt nguồn từ tổng tích hợp nhiều yếu tố thuộc về
văn hóa - xã hội, kinh tế, chính trị và luật pháp. Vì vậy, để tạo những điều kiện và
cơ hội bình đẳng thực sự cho phụ nữ, đặc biệt trong lĩnh vực tham chính, Đảng và
Nhà nước cần thực thi đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng đến việc ban
hành luật pháp, thực thi, áp dụng pháp luật về bình đẳng giới trong đời sống thực
tiễn. Các nhà khoa học cần chú trọng các nghiên cứu về việc phụ nữ tham gia
chính trị ở Việt Nam để có những cơ sở khoa học và thực tiễn nâng cao vị thế cho
phụ nữ trong cấu trúc quyền lực ở Việt Nam./.

14



×