Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

BÀI GIẢNG LỚP CẢM TÌNH ĐOÀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.27 KB, 28 trang )

Bài 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – BƯỚC NGOẶT
LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế:
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp
bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống
nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa MácLênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế
Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước:
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách
chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước
của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương,
chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một
chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách


bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng
nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn
cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên
tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân;
một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các
1


hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều
mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên
đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này,
không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và
phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân
Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng
hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào
đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối
đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất
bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã
chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh
đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng
không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế
tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách

mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
1.3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam:
- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày
5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh
sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng
giành độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm,
gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và
nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm
1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt
Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi
Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân
tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo
và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do
thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18
Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày
30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành

2


một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu
tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng

sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời
gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân
Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí
cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra
đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc
Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại
Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930,
những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng)
đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một
nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ
chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng
sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông
(Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế
Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn
cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến
xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội
nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam

gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp
bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và
sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội
thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.

3


3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra
thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội
dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu
bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức
cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào
cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của
dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt

Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ
to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
II. NHỮNG THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NHỮNG BÀI HỌC
KINH NGHIỆM
1. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam
1.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945):
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay
sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô
Viết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam
do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh
công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần
chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn
kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải
nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính
4


trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được
nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh
nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng

suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết
hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản,
chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực
dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi
thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ
nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ
thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc
lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý
nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp
lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
1.2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước
(1945 - 1975):
1.2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)
- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ
đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam
Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế
lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng
thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm
nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc

chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân
Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết
tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm
nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành
thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
5


động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
1.2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc (1954 - 1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân
dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực
dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng.
Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng
mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành
đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân
sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời
đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên

cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ
to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của
đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân
tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị
cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và
chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn
miền Nam.
1.3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay:
1.3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp
muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến
hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ
sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả
nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy
6


trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ
những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong

những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm
tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979
của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công
nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày
13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐCP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những
quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan
điểm kinh tế trong tình hình mới...
1.3.2. Từ năm 1986 đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm,
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng
(tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với
những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng.
- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên
định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và
phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các
định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp
hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan
trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp,

hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi
mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý,
quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện đường lối
đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước
ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
7


bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành,
phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được
những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân
dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở
rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ
thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả
tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng
ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu
đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà
nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên
đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
- Những thành tựu qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà
cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động
khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.

2. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta
đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ
dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội
chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là
nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự

8


chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm
về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III. CÁC KỲ ĐẠI HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội
Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học
kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, từ ngày 3-7/2/1930 tại Cửu Long (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch
sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã đề ra Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, vạch ra đường lối giải phóng
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội của Cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư đầu tiên
của Đảng là đồng chí Trần Phú.
1. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I
Diễn ra từ ngày 27-31/3/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc) do dồng chí Hà Huy
Tập chủ trì.
Đại hội bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. (Đến tháng 10/1936,
TƯ Đảng được tổ chức lại, đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư; tháng 3/1938, BCH
TƯ Đảng họp Hội nghị toàn thể, bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư; tháng
11/1940, Hội Nghị TƯ 7, Trường Chinh nắm quyền Tổng Bí thư).
Đại hội lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Đại hội đánh dấu
sự khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong
nước ra ngoài nước; thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
2. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II
Diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang.
Dự đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho
hơn 766.000 đảng viên cộng sản trên toàn Đông Dương.

Đồng chí Tôn Đức Thắng đọc diễn văn khai mạc ĐH. ĐH thông qua báo cáo
chính trị của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát
triển dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH” của đồng chí Trường Chinh. ĐH còn thông
qua Chính cương của Đảng Lao Động Việt Nam (Đảng ra hoạt động công khai và lấy
tên này).
Đại hội đã tổng kết 21 năm Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, 5 năm lãnh đạo chính quyền non trẻ và công cuộc kháng chiến kiến quốc; làm rõ
9


những kinh nghiệm, bài học và lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chiến
tranh nhân dân; đánh giá bước phát triển của nửa đầu và dự báo sự phát triển của cách
mạng nước ta nửa sau thế kỷ XX. Đại hội đã phát triển đường lối kháng chiến và đề ra
những chính sách cụ thể để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn
và chuẩn bị những tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công.
Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội
quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam,
Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng
trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối do Đại hội vạch ra đã
đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng, đồng thời
đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.
Đại hội bầu ra BCH TƯ gồm 19 đồng chí chính thức và 10 đồng chí dự khuyết.
Trong đó, Bộ chính trị có 7 đồng chí chính thức và 1 dự khuyết. Đại hội đã bầu Chủ
tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư.
Dưới ánh sáng của đường lối Đại hội lần thứ II của Đảng và các nghị quyết hội
nghị Trung ương, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong
chiến tranh, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành nhiều thắng lợi trên các chiến trường cả
nước trong chiến dịch Đông-Xuân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động
địa cầu, đưa đến thắng lợi hội nghị Geneve, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề

vững chắc để tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
3. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III
Đại hội diễn ra từ ngày 5-10/9/1960 tại Hà Nội.
Có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn
đảng viên trong cả nước đã về dự Đại hội. Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà.
Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã
phân tích kỹ những đặc điểm của cách mạng Việt Nam và quyết định đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối cách
mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và
phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Những vấn đề Đại hội thảo luận và
quyết định là những vấn đề có quan hệ sống còn đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa và
đấu tranh thống nhất nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội. Người nói: "Đại hội lần
thứ II đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn rằng, Đại hội lần thứ III này sẽ là
nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà".
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 đồng chí và 31 ủy
viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức.

10


Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giữ cương vị Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn
được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng.
4. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV
Đại hội diễn ra từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội.
Tham dự đại hội có 1008 đại biểu chính thức thay mặt cho 1.550.000 đảng viên

của cả hai miền đất nước, cùng với sự có mặt của nhiều Đảng Cộng sản và các tổ chức
quốc tế khác.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV diễn ra trong bối cảnh cuộc Kháng chiến
chống Mỹ đã đạt được thắng lợi. Hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chia
cắt từ Hiệp định Geneve 1954 bằng việc hiệp thương của hai nhà nước tồn tại trên lãnh
thổ Việt Nam từ sau 30 tháng 4 năm 1975 là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà
Miền Nam Việt Nam.
Đại hội đã thảo luận, đánh giá quyết định chuyển cách mạng Việt Nam từ cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam sang
thực hiện cách mạng xã hội trên toàn đất nước. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, gồm:
+ Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa
+ Đường lối xây dựng kinh tế trong thời kì quá độ
Đại hội thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây
dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Đại hội đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội còn bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất là TBT, bỏ
chức danh Chủ tịch Đảng. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 101 đồng chí chính thức, Bộ
chính trị gồm 14 đồng chí. Đồng chí Lê Duẩn tiếp tục làm TBT.
Đại hội tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
5. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
Đại hội diễn ra từ ngày 27-31/3/1982.
Tham dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt 1.727.000 đảng viên hoạt động
trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
Đồng chí Trường Chinh đọc lời khai mạc Đại hội. Đồng chí Lê Duẩn đọc Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đọc
Báo cáo về nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo cáo về xây dựng
Đảng. Nhiều đại biểu của Đại hội đã đọc tham luận, nhiều đại biểu quốc tế và trong

nước đọc lời chào mừng.
Đại hội khẳng định: “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến
đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược
đó quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh
về mọi mặt thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại có tăng cường phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
11


Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập
hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những
vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một
bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 uỷ viên chính thức
và 36 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và
2 uỷ viên dự khuyết.
Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
6. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Đại hội diễn ra từ ngày 15-18/12/1986 tại thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn
Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc Đại
hội. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Đồng chí Võ Văn Kiệt - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo về
phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1986-1990).
Đại hội đề xướng và lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới. Đại hội VI đã đưa

ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải
theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế
của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI gồm 124 uỷ viên
chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính
trị, Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
7. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Đại hội diễn ra từ ngày 24-27/6/1991 tại Hà Nội.
Dự đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 2.155.022 đảng viên trong cả nước.
Với nhiệm vụ “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi
mới”, Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết; là Đại
hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -

12


xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (Điều lệ Đảng
sửa đổi).
Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội VII có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ quyết định những nhiệm
vụ chính trị nặng nề trước mắt, mà cả con đường, bước đi của cách mạng nước ta trong
những thập niên tiếp theo. Đó là quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mà Bác Hồ, Đảng
và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đại hội đã bầu BCH T.Ư gồm 146 ủy viên, bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên
(Hội nghị BCH T.Ư lần thứ 6 khóa VII tháng 11/1993 đã bầu bổ sung thêm 4 ủy viên
Bộ Chính trị).
Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư.
8. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Đại hội diễn ra từ ngày 28/6-1/7/1996 tại Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên
trong cả nước.
Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một
số mặt còn chưa vững chắc. Tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, đại hội rút ra 6 bài
học chủ yếu.
Nhiệm vụ của đại hội là thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, quá độ lên CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Đại hội “có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong
tiến trình phát triển của cách mạng nước ta”. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục
đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đại hội đã bầu BCH T.Ư gồm 170 ủy viên.
Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư (sau đó, tại Hội nghị BCHTƯ lần
thứ 4 khóa VIII - tháng 12/1997, đồng chí Lê Khả Phiêu đã được bầu làm Tổng Bí thư).
9. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Đại hội diễn ra từ ngày 19-22/4/2001 tại Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.168 đại biểu là những đảng viên ưu tú được bầu từ các đại
hội đảng bộ trực thuộc, đại diện cho 2.479.719 đảng viên trong toàn Đảng.

Đồng chí Trần Đức Lương, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc diễn văn khai
mạc. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII về các văn kiện trình Đại hội IX.
Đại hội IX của Đảng đã đánh giá về chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm
thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc

13


đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất
nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa
đổi, bổ sung Điều lệ Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ
hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 uỷ viên.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13
đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
10. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
Đại hội diễn ra từ ngày 18-25/4/2006 tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng.
Đây là Đại hội của trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững.
Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá

khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra
những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001 – 2005), chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát
triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng;
bổ sung sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng….
Đặc điểm của Đại hội X là không chỉ nhìn lại 5 năm sau Đại hội IX mà còn
tổng kết cả 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực đối
ngoại. Đại hội đã khẳng định đường lối đó “đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt
Nam”, vì vậy đã kế tục đường lối, chính sách đối ngoại được khởi xướng và kiên trì
thực hiện trong suốt thời kỳ đổi mới với một số sự “cập nhật” cho phù hợp với tình
hình mới. Đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Một trong những quan điểm mới của Đảng tại ĐH lần này là Đảng viên làm
kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô. Việc Đại hội ra Nghị quyết cho phép Đảng
viên của Đảng được làm kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân là bước tiến quan
trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam sau 20 năm đổi mới, thể hiện
bước đột phá trong thay đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 ủy viên chính thức và 21
ủy viên dự khuyết, với Bộ Chính trị gồm 14 thành viên và Ban Bí thư có 8 thành viên.

14


Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X.
Đồng chí Nguyễn Văn Chi, Uỷ viên Bộ Chính trị được bầu làm Chủ nhiệm Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương Đảng khoá X.
11. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI

Diễn ra từ ngày 12 đến 19/1/2011, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình,
Thủ đô Hà Nội.
Chủ đề của Đại hội là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Tổng số đại biểu tham dự Đại hội XI là 1377 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,6
triệu đảng viên trong cả nước, trong đó có: 158 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng
chính thức và 20 đồng chí là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, 1.188 đại biểu
được bầu tại các đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương, 11 đại biểu ở Đảng bộ ngoài
nước do Bộ Chính trị chỉ định.
Trong 1377 đại biểu có 150 đại biểu là nữ, chiếm 10,89%; 167 đại biểu là người
dân tộc thiểu số, chiếm 12,13%; 196 đại biểu là sĩ quan trong lực lượng vũ trang
(Quân đội, Công an), chiếm 14,23%; 13 đại biểu là Anh hùng lực lượng vũ trang,
chiếm 0,94% và 3 đại biểu là Anh hùng lao động, chiếm 0,22%; 18 đại biểu là Nhà
giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, chiếm 1,31%, 7 đại biểu là Thầy thuốc nhân dân và
Thầy thuốc ưu tú, chiếm 0,51%.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng bí thư.
Đưa ra “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”. Đây là bản Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, kế thừa trực tiếp từ Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991 được
thông qua tại Đại hội VII và đã có 20 năm thực hiện từ đó đến nay.
12. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII
Diễn ra từ ngày 20 đến ngày 28/1/2016 tại Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.510 đại biểu thay mặt cho hơn 4,5 triệu đảng viên toàn Đảng. Số
lượng đại biểu dự Đại hội lần thứ XII tăng 133 đại biểu so với Đại hội XI. Đây là Đại
hội có số lượng đại biểu đông nhất trong 12 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Trong đó có
197 Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, 1.300 đại biểu được bầu từ đại
hội đảng bộ các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực thuộc Trung ương, 13 đại biểu thuộc
Đảng bộ Ngoài nước do Trung ương chỉ định theo quy định. 194 đại biểu nữ (chiếm tỉ lệ
12,85%); 174 đại biểu là dân tộc thiểu số (11,52%); 99,93% đại biểu có trình độ đại học

trở lên. Đại biểu cao tuổi nhất dự Đại hội là đồng chí Hữu Thỉnh, 74 tuổi, Bí thư Đảng
đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học - nghệ thuật Việt Nam; Đại biểu trẻ tuổi nhất
là đồng chí Vàng Thị Lun, 27 tuổi, Huyện uỷ viên, Bí thư Huyện đoàn Nậm Nhùn, tỉnh
Lai Châu. Đặc biệt, có 502 đại biểu đã dự 3 Đại hội Đảng toàn quốc trở lên, trong đó có
1 đại biểu nữ tham dự 8 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc là đồng chí Hà Thị Khiết - Bí thư
Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương khóa XI. Ít nhất có 15 gia đình cả
bố con hoặc anh em ruột là đại biểu chính thức của Đại hội.
15


Đồng chí Nguyễn Phú Trọng tiếp tục được bầu làm Tổng bí thư.
Với chủ đề “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội đã đánh giá thành tựu 30 năm đổi mới đất nước (1986 – 2016), nêu lên
8 thành tựu đạt được và 8 hạn chế cần khắc phục trong những năm tới.
Đại hội thống nhất đánh giá: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề
lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững”.
Đánh giá như vậy là khách quan, toàn diện, khẳng định những thành tựu to lớn,
đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém để có phương hướng khắc phục, tiếp
tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên.

16


Bài 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

I. TRUYỀN THỐNG CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
1. Sự ra đời của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Từ ngày 20 đến ngày 26/3 năm 1931, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 2, Trung ương Đảng đã giành một phần quan trọng trong chương trình
làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt,
như các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viên của
Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển lớn mạnh của Đoàn trên cả 3 miền
Bắc, Trung, Nam, được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ cho
phép, theo đề nghị của Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội toàn
quốc lần thứ 3 họp từ ngày 22 - 25/3/1961 đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 làm ngày
thành lập Đoàn hàng năm. Ngày 26/3 trở thành ngày vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam,
của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh quang vinh.
Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần:
 Từ 1931 - 1936: Đoàn TNCS Việt Nam, Đoàn TNCS Đông Dương
 Từ 1937 - 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
 Từ 11/1939 - 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
 Từ 5/1941 - 1956: Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
 Từ 25/10/1956 - 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
 Từ 2/1970 - 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh
 Từ 12/1976 đến nay: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do
của Tổ Quốc, vì chủ nghĩa xã hội đã liên tiếp lập nên những chiến công xuất sắc và
trưởng thành vượt bậc.
2. Những chặng đường phát triển vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Ngay từ khi mới ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đoàn đã phát huy được vai trò xung kích, với những gương đoàn viên hy sinh, chiến
đấu để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng, xứng đáng là cánh tay đắc lực và là
đội dự bị của Đảng.
1. Trong cao trào đấu tranh những năm 1930 - 1931 - với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh - biết bao đồng chí đã tỏ rõ khí phách anh hùng và quyết tâm một lòng theo

Đảng làm cách mạng, đã mở đầu cho truyền thống cách mạng vẻ vang của Đoàn, như:
Cao Xuân Quế, Lê Cảnh Nhượng và nhiều đoàn viên ưu tú khác. Lịch sử đã để lại tấm
gương oanh liệt của người đoàn viên thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng với câu nói bất
hủ “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không thể có
con đường nào khác” – trở thành phương châm hành động của tuổi trẻ Việt Nam.
2. Trong cao trào 1936-1939, Đoàn thanh niên Dân chủ tiếp nối Đoàn Thanh
niên cộng sản Đông Dương trong sự nghiệp tổ chức, giáo dục động viên tuổi trẻ đi đầu
thực hiện nhiệm vụ của Đảng giao cho. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp thanh
niên đã trở thành làn sóng mạnh mẽ, đòi nhà toàn quyền Pháp ở Đông Dương phải ban
17


hành một số quyền lợi của công nhân và lao động làm thuê, như: giảm giờ làm, tăng
tiền lương tối thiểu, cấm cúp phạt bằng tiền, có chế độ nghỉ thai sản cho phụ nữ, ra sắc
lệnh “ân xá” tù chính trị ở Đông Dương.
3. Trong cao trào giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là tổng khởi nghĩa tháng Tám
1945, dưới ngọn cờ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn và Thanh niên Việt
Nam đã cùng toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do độc lập”. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 dẫn đến sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á.
4. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên tập hợp hàng triệu đoàn
viên, thanh niên làm nhiệm vụ xung kích bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ nhân
dân, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc. Tháng
12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của chủ
tịch Hồ Chí Minh, với ý chí “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, thanh niên cả nước đã
một lòng cùng toàn dân nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần xả thân vì độc lập tự
do, như Lê Gia Định - người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đã hy sinh anh dũng và được

truy tặng danh hiệu cao quý “Cảm tử quân số 1 của Thủ đô”. Tinh thần của anh cũng là
khẩu hiệu hành động của tuổi trẻ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đoàn thanh
niên và tuổi trẻ cả nước đã hiến dâng cho Tổ quốc hàng chục vạn đoàn viên, thanh
niên ưu tú, gần 3 triệu người tham gia bộ đội chủ lực, 5 triệu lượt người tham gia dân
quân du kích, công nhân hỏa tuyến… và biết bao tấm gương chiến đấu ngoan cường,
góp phần làm rạng rỡ gương mặt Tổ quốc ta và làm cho thực dân Pháp phải chuốc lấy
thất bại thảm hại.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, với tinh thần lao động quên mình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đoàn đã động viên các tầng lớp thanh niên tham gia vào
công cuộc cải cách ruộng đất, xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Phong trào
“Lao động tình nguyện vượt mức kế hoạch nhà nước” 5 năm lần thứ nhất (1961 1965) đã có 2 triệu đoàn viên, thanh niên đăng ký tình nguyện, 6 vạn đoàn viên thanh
niên thực hiện vượt mức kế hoạch, 22 ngàn thanh niên là chiến sĩ thi đua, 37 đoàn viên
thanh niên được tặng danh hiệu anh hùng lao dộng, nhiều điển hình “Người tốt, việc
tốt” trên các lĩnh vực, làm hậu thuẫn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
5. Trong công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc 1954-1975, với ý
chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, với tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào “3 sẵn sàng”
và “5 xung phong” đã đáp ứng được nhiệt huyết của thanh niên, khao khát được cống
18


hiến sức lực và trí tuệ cho đất nước, Đoàn đã động viên thanh niên cả nước góp phần
đánh bại “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” và
đặc biệt, với chiến dịch thần tốc mùa xuân 1975, cuộc đối đầu lịch sử của dân tộc Việt
Nam với đế quốc Mỹ đã làm cho đế quốc Mỹ, thất bại thảm hại trước sức mạnh và ý

chí đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng và Bác Hồ vĩ
đại. Đoàn Thanh niên xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, đội tiên phong chiến
đấu và chiến thắng. Đại thắng mùa xuân 1975 lại tô thắm thêm truyền thống của Đoàn.
6. Trong giai đoạn đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội 19751986 và công cuộc đổi mới hiện nay, tuổi trẻ Việt Nam tiếp tục gánh vác sứ mệnh to
lớn là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, theo đường lối đổi mới
của Đảng, Đoàn phát động thanh niên phong trào “tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”, có 1,5 triệu đoàn viên đăng ký tình nguyện xây dựng: 23.639 công trình thanh
niên, 10 vạn đoàn viên thanh niên tham gia xây dựng tuyến đường sắt Bắc - Nam dài
1.720km; xây dựng 56 công trường, 35 khu kinh tế mới, 30 công trình thủy lợi,
289.639 sáng kiến.
Trong phong trào “3 xung kích làm chủ tập thể” có 2 triệu đoàn viên thanh niên
tham gia đăng ký, 62.715 công trình thanh niên, 6.000 tập thể đạt danh hiệu tập thể
học sinh xã hội chủ nghĩa, 1.195 đoàn viên thanh niên được tặng Huy chương tuổi trẻ
anh hùng bảo vệ Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới của Đảng, tuổi trẻ Việt Nam đã “hành quân theo bước
chân những người anh hùng”, “hành quân theo chân Bác”, tiếp bước cha anh đi đầu
trong công cuộc đổi mới, 2 phong trào “thanh niên lập nghiệp”, “tuổi trẻ giữ nước” đã
động viên hàng triệu đoàn viên thanh niên tham gia, đã xuất hiện nhiều tấm gương
điển hình trong lao động, chiến đấu, học tập, xây dựng cuộc sống mới.
Các phong trào “Xứng danh anh bộ đội cụ Hồ” thực hiện “6 điều Bác Hồ dạy”,
“Đoàn kết 3 lực lượng”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Sản xuất, kinh doanh giỏi”, “3 mục tiêu
dân số, sức khỏe, môi trường”, “Dạy tốt, học tốt”. “Học vì ngày mai lập nghiệp” … là
biểu hiện cụ thể những cố gắng, nỗ lực vượt bậc của tuổi trẻ Việt Nam trong, thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”. Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
toàn quốc lần thứ VII (1997) lại một lần nữa khẵng định khẩu hiệu hành động của tuổi
trẻ trong thời kỳ mới “Thanh niên Việt Nam xung kích, sáng tạo vì sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; vì tương lai tươi sáng của tuổi trẻ”.
Để ghi nhận công lao to lớn của tuổi trẻ Việt Nam 88 năm qua, Đảng và Nhà
nước đã tặng cho Đoàn và phong trào thanh niên nước ta: 10 huân chương kháng

chiến, 13 huân chương lao động, 1 huân chương Độc lập, 3 huân chương Hồ Chí
Minh, 1 huân chương Sao vàng và hàng trăm đoàn viên thanh niên được Nhà nước
tặng danh hiệu anh hùng.
3. Những truyền thống của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Suốt 88 năm cống hiến và trưởng thành dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh
và Bác Hồ kính yêu, tổ chức Đoàn và tuổi trẻ nước ta đã xây đắp nên những
truyền thống vẻ vang:
19


+ Truyền thống yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha, trung thành tuyệt đối với
Đảng, với nhân dân, với chế độ XHCN.
Truyền thống quý báu này đã tạo nên động lực vô giá xuyên suốt các thời kỳ lịch
sử được thể hiện trong hành động cách mạng, nhất là ở những bước ngoặt của lịch sử.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện nào, tuyệt đại bộ phận thanh niên ta luôn
siết chặt hàng ngũ xung quanh Đảng lãnh đạo, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Truyền thống của đội quân xung kích cách mạng, dám đón lấy những nhiệm
vụ nặng nề, dám đi đến những nơi khó khăn, gian khổ, dám suy nghĩ sáng tạo… để
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh
niên đi đầu”, thế hệ trẻ nước ta luôn nêu cao tinh thần hăng hái sẵn sàng xung phong
đến những nơi Tổ quốc cần, dù đó là biên cương hay hải đảo, dù công việc đó là mới
mẻ hay khó khăn.
+ Truyền thống gắn bó đoàn kết trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ
chức Đoàn và Hội; đoàn kết gắn bó với nhân dân; thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong
hoạn nạn, đặc biệt là vào những thời điểm phải đối mặt với kẻ thù hay thiên tai.
Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế luôn hòa quyện với nhau, thông cảm và
đồng tâm hợp lực vì những mục tiêu cao cả của dân tộc và thời đại.
+ Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính trị,

văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý và quân sự… say mê sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn, để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng.
Học ở nhà trường, học trong cuộc sống, học để làm người có ích cho xã hội
luôn được các thế hệ thanh niên ta phấn đấu, thực hiện ngày càng tốt hơn.
Phát huy những truyền thống quý báu nêu trên, các thế hệ đoàn viên, hội viên,
thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi đồng ở nước ta đã tiếp bước theo nhau góp phần
đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi
khó khăn, thử thách đạt nhiều thắng lợi hết sức to lớn, những kỳ tích vẻ vang trong thế
kỷ XX làm cho Tổ quốc XHCN của chúng ta có vị thế xứng đáng trong cộng đồng
quốc tế, vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
1. Mục đích, lý tưởng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
“Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng
của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
- Độc lập dân tộc: Đây là ước vọng ngàn đời của dân tộc ta trải qua hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước.
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH: là con đường duy nhất đúng đắn, phù hợp
với thời đại ngày nay, là sự lựa chọn của cả dân tộc ta, của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, là
chế độ tốt đẹp, và chỉ có gắn với CNXH mới là độc lập thật sự.

20


- Dân giàu nước mạnh: là hoài bão, ước mơ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy rằng: Có độc lập rồi, có tự do rồi mà dân không
có cơm ăn, dân không có áo mặc thì độc lập tự do ấy không có ý nghĩa gì…
- Xã hội công bằng dân chủ văn minh: là tính ưu việt, là bản chất của chế độ
XHCN, là cơ sở xoá bỏ triệt để tình trạng người bóc lột người, là khát khao của cả
loài người.

2. Những tính chất cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Tính chất chính trị - xã hội của Đoàn thể hiện trên 2 mặt là tính tiên tiến và tính
quần chúng. Đoàn không phải là tổ chức quần chúng phổ thông mà là tổ chức chính trị
của những thanh niên tiên tiến (những thanh niên giác ngộ lý tưởng của Đảng). Tuy
nhiên, Đoàn còn là tổ chức mang tính xã hội vì đó là tổ chức của quần chúng thanh
niên và vì thanh niên.
3. Vị trí, vai trò và mối quan hệ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong xã hội:
- Đoàn là thành viên của của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ hiến
pháp và pháp luật của nước CHXHCNVN. Trong hệ thống này Đảng là người lãnh
đạo, Đoàn là một trong các tổ chức thành viên tạo nên quyền lực của nhân dân theo cơ
chế: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”. Với vị trí này Đoàn sẽ kết
hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và tổ chức xã hội, các tập thể lao động và
gia đình chăm lo, giáo dục, đào tạo, và bảo vệ thanh niên, thiêu nhi, tổ chức cho đoàn
viên và thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội.
- Đối với đội thiếu niên tiền phong HCM, Đoàn giữ vai trò là người phụ trách
trực tiếp và có trách nhiệm xây dựng tổ chức đội, giúp đỡ vật chất tài chính và lựa
chọn cán bộ làm công tác thiếu niên nhi đồng.
- Đối với phong trào thanh niên và các tổ chức xã hội của thanh niên (gồm: Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam…) Đoàn là hạt nhân chính trị
đóng vai trò nòng cốt trong các phong trào và các tổ chức thanh niên. Đoàn ủng hộ
giúp đỡ các hội thanh niên thực hiện mục đích, tôn chỉ theo điều lệ của các hội.
4. Chức năng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Đoàn là đội dự bị tin cậy của Đảng Cống sản Việt Nam, là đội quân xung kích
cách mạng. Chức năng này biẻu hiện ở việc Đoàn luôn luôn xác định nhiệm vụ của
mình là tích cực tham gia xây dựng Đảng, là nguồn cung cấp cán bộ cho Đảng và là
người kế tục trung thành xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng của Bác Hồ.
Đoàn là trường học XHCN của thanh niên. Đoàn tạo môi trường đưa thanh niên
vào các hoạt động, giúp đỡ họ, rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của nguời
lao động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay.
Đoàn là người đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ. Chức

năng này khẳng định rõ tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chúc
của thanh niên, vì thanh niên.
Đoàn là người phụ trách đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Chức năng này
thể hiện trách nhiệm của Đoàn trong việc giáo dục thiếu niên nhi đồng tạo nguồn bổ
sung cho Đoàn.
5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
21


Đoàn TNCS HCM tổ chức và hoạt động theo nguyên tắctập trung dân chủ.
Thực hiện nguyên tắc này đảm bảo để tổ chức Đoàn thực sự là một tổ chức quần
chúng tiên tiến tự nguyện, dân chủ và tự quản của thanh niên.
Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đoàn được thể hiện trên các mặt sau:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn đều do bầu cử lập ra và thực hiện nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn là đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan
lãnh đạo của Đoàn ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc là đại hội đoàn viên ở cấp ấy.
Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo là BCH do Đại hội Đoàn cùng cấp bầu ra. Giữa
hai kỳ họp BCH, cơ quan lãnh đạo là BTV do BCH cùng cấp bầu ra.
- BCH Đoàn các cấp có trách nhiệm báo cáo về hoat động của mình với đại hội
hoặc hội nghị đại biểu cùng cấp, với BCH Đoàn cấp trên, với cấp ủy Đảng cùng cấp và
thông báo cho BCH Đoàn cấp dưới.
Nghị quyết của Đoàn phải được chấp hành nghiêm chỉnh, cấp dưới phục tùng
cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức.
Trước khi quyết định các công việc và biểu quyết nghị quyết của Đoàn, các
thành viên phải được cung cấp thông tin và phát biểu ý kiến của mình, ý kiến thuộc về
thiểu số được quyền bảo lưu báo cáo lên Đoàn cấp trên cho đến đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết hiện hành.
6. Nhiệm vụ và quyền của đoàn viên:
a. Đoàn viên có quyền:

- Được yêu cầu tổ chức Đoàn đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình,
được giúp đỡ và tạo điều kiện để phấn đấu trưởng thành.
- Được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn.
- Được thông tin, thảo luận chất vấn, phê bình, biểu quyết đề nghị và bảo lưu ý
kiến của mình về các công việc của Đoàn.
b. Đoàn viên có nhiệm vụ:
- Luôn luôn phấn đấu vì lý tưởng của Đảng và Bác Hồ. Tích cực học tập, lao
động rèn luyện, tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Gương mẫu chấp hành và vận động thanh thiếu nhi thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tham gia xây dựng và bảo vệ
Đảng và chính quyền. Chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ Đoàn và các nghị quyết của
Đòan, sinh hoạt Đoàn và đóng đoàn phí đúng quy định.
- Liên hệ mật thiết với thanh niên. Tích cực xây dựng hội liên hiệp Thanh niên
Viêt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Đội Thiếu niên Tiền phong HCM, giúp đỡ thanh
niên và đội viên trở thành đoàn viên.
7. Điều kiện và thủ tục vào Đoàn:
Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30, tích cực học tập, lao động và bảo vệ
Tổ quốc, được tìm hiểu về Đoàn và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt động trong
một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp vào Đoàn.
Việc kết nạp thanh niên vào Đoàn được tiến hành theo các bước và thủ tục sau:

22


- Thanh niên vào Đoàn tự nguyện viết đơn, báo cáo lý lịch và được một trong
các tập thể, cá nhân sau đây giới thiệu và bảo đảm:
+ Một đoàn viên cùng công tác, sinh hoạt ít nhất ba tháng.
+ Tập thể Chi hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (nếu là hội viên Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam).
+ Ban Chấp hành Chi hội Sinh viên Việt Nam (nếu là hội viên Hội Sinh viên

Việt Nam).
+ Tập thể chi đội (nếu là đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh).
- Được hội nghị chi đoàn xét đồng ý kết nạp với sự biểu quyết tán thành của
trên một phần hai (1/2) tổng số đoàn viên có mặt tại hội nghị và được Đoàn cấp trên
trực tiếp ra quyết định kết nạp. Trường hợp xét kết nạp nhiều người thì phải xét và
quyết định kết nạp từng người một.
- Ở nơi chưa có tổ chức Đoàn và đoàn viên, hoặc chưa có tổ chức Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam thì Đoàn cấp trên cử cán bộ, đoàn
viên về làm công tác phát triển đoàn viên, hoặc do một đảng viên cùng công tác, sinh
hoạt ít nhất ba tháng ở nơi đó giới thiệu và bảo đảm; Ban Chấp hành Đoàn cấp trên
trực tiếp xét quyết định kết nạp.

23


Bài 3: PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐOÀN VIÊN ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
I. THANH NIÊN VÀ LÝ TƯỞNG
1. Thanh niên:
Thanh niên là những nam nữ có độ tuổi từ 15 đến 30, là giai đoạn đẹp nhất của
đời người, là mùa xuân của nhân loại, là thời kỳ định hình của nhân cách. Thanh niên
với thể lực dồi dào, năng động, sáng tạo, có nhu cầu tham gia các hoạt động xã hội,
cộng đồng, để qua đó tự rèn luyện mình, cống hiến và trưởng thành…
Thanh niên là bước đầu của trưởng thành, đủ nhận thức để biết được cái đúng,
cái sai, là lớp người có sức khỏe, có hoài bão, ước mơ, có ý chí mạnh mẽ, thích công
bằng, thích khám phá, luôn chịu khó để tìm tòi cái mới, thích ứng nhanh với cái mới
của đời sống xã hội và luôn luôn muốn được tự khẳng định mình.
Thanh niên là lực lượng có tìm lực to lớn trong xã hội, được xã hội giao phó
cho những nhiệm vụ nặng nề. Thời đại nào cũng vậy, xã hội có tiến bộ hay không tùy
thuộc rất nhiều vào việc bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên.
Tuy nhiên, thanh niên cũng có những hạn chế nhất định nếu không được giúp

đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để học tập và rèn luyện như thiếu kinh nghiệm, dễ bốc
đồng, dễ bị kích động, kém tự chủ. Hiện nay có một bộ phận thanh niên ít quan tâm
đến tình hình đất nước, sống không có hoài bão, lý tưởng dẫn đến thường sa vào các
hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội. Dưới tác động của mặt trái của cơ chế thị
trường, một số thanh niên có xu hướng chạy theo đồng tiền, bất chấp tất cả thường dẫn
đến phạm pháp.
Thanh niên Việt Nam hiện nay với khoảng 28,8 triệu, chiếm1/3 dân số cả nước,
hơn 55% lực lượng lao động, trong đó lực lượng nồng cốt là hơn 4,5 triệu đoàn viên,
hơn 1 triệu hội viên Hội Sinh viên Việt Nam, hơn 1,5 triệu hội viên Hội Liên hiệp
thanh niên Việt Nam.
Thanh niên ngày nay có trình độ cao hơn thanh niên lớp trước, được Đảng xem
là đội dự bị tin cậy của Đảng, được Nhà nước xem là chỗ dựa tin cậy của Nhà nước.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương đúng đắn liên quan đến thanh niên, luôn tạo
mọi điều kiện để thanh niên phát huy hết năng lực của mình.
2. Lý tưởng:
Lý tưởng là mục đích cao đẹp nhất mà cá nhân, tập thể luôn mong muốn vươn
tới. Mỗi người của chúng ta vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa tồn tại với tư cách là
thành viên của cộng đồng, cho nên lý tưởng của mỗi cá nhân cũng đồng thời là lý
tưởng của cả cộng đồng, xã hội.
Lý tưởng tồn tại bao hàm nhiều nội dung như lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo
đức, lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng nghề nghiệp… trong đó lý tưởng chính trị giữ vai trò
quyết định, chi phối việc hình thành các nội dung của lý tưởng khác.
Lý tưởng là hình ảnh tương lai được hiện thực hóa trên cơ sở những điều kiện
có từ thực tế, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Lý tưởng luôn khác với ảo tưởng
vì ảo tưởng không bao giờ trở thành hiện thực.

24


Lý tưởng tồn tại như một hệ thống giá trị có ý nghĩa định hướng xu thế phát

triển năng lực, hành động, tình cảm cá nhân, thái độ, hành vi, hoạt động, lối sống của
mỗi con người. Ngược lại tình cảm, ý chí, hành vi, thái độ… góp phần biến lý tưởng
nhanh chóng trở thành hiện thực. Lý tưởng luôn có mối quan hệ mật thiết với niềm tin,
lý tưởng luôn củng cố niềm tin, và niềm tin là cơ sở hình thành lý tưởng, tạo nên sức
mạnh, ý chí, giúp cá nhân vượt qua mọi khó khăn để thực hiện lý tưởng.
Thanh niên ở giai đọan đầu là những người ở độ tuổi mới bước vào đời, đang đứng
trước sự lựa chọn hướng đi, tự quyết định tương lai cho chính mình. Xác định lý tưởng
có tính quyết định thành công hay thất bại của cả cuộc đời. Cho nên nói đến lý tưởng
là phải nói đến thanh niên và sẽ không đầy đủ khi nói đến thanh niên mà không nói
đến lý tưởng, vì chính thanh niên thật sự có nhu cầu xác định mục tiêu lý tưởng của
chính mình. Nhưng thực tế không phải thanh niên nào cũng nhận ra nhu cầu cần phải
sống có lý tưởng.
Cho nên cần hơn bao giờ hết, tổ chức Đoàn phải khơi dậy nhu cầu xác định
đúng đắn lý tưởng trong thanh niên, để mỗi thanh niên cần phải sống có lý tưởng, bởi
vì suy cho cùng cá nhân không thể sống tách rời khỏi cộng đồng, lợi ích của mỗi cá
nhân phải phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng, không được đi ngược lại, không được
xâm hại đến lợi ích của người khác.
Tiến vào thế kỷ 21, thanh niên Viêt Nam đang có nhiều thời cơ mới như có
Đảng lãnh đạo để xây dựng và bảo vệ đất nước, công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng
và lãnh đạo đạt được nhiều thanh tựu quan trọng trên tất cả các mặt, vị thế đất nước
Việt Nam trên thế giới ngày càng được khẳng định, công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là cơ hội ngàn vàng để thanh niên rèn luyện, cống hiến sức trẻ của mình, được
tiếp cận các thành tựu của thời kỳ khoa học công nghệ phát triển như vũ bão…Tuy
nhiên nếu không có cái nhìn mới, thanh niên dễ bi quan khi thấy tình hình thế giới
ngày càng phức tạp, mặt trái của cơ chế thị trường có nhiều bất ổn, xã hội còn nhiều
hiện tượng tiêu cực, thanh niên còn một bộ phận sống mất phương hướng…Vì vậy
định hình lý tưởng sống đúng đắn cho thanh niên là một nhu cầu có thật, là trách
nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị trong đó Đoàn TNCS Hồ Chí có vai
trò hết sức quan trọng.
*Lý tưởng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:

- Lý tưởng cộng sản:
Lý tưởng cộng sản là ước vọng ngàn đời của cả loài người về thực hiện trên trái đất
này một xã hội tương lai tốt đẹp, ở xã hội ấy, con người sống trong hạnh phúc, bình đẳng,
tự do, no ấm… không còn tình trạng người bóc lột người, không còn áp bức, bất công…
dựa trên qui luật phát triển tất yếu cuả hình thái kinh tế - xã hội của loài người.
Lý tưởng cộng sản không phải là đứa “con riêng” của những nhà sáng lập ra
chủ nghĩa xã hội khoa học, mà là kết quả của hàng ngàn năm đấu tranh gia cấp trong
các xã hội có áp bức, bất công dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Lý tưởng cộng sản lại càng không phải là “quái thai” của thời đại khi hàng loạt những
sai lầm trong xây dựng CNXH ở Liên xô và Đông âu do các Đảng cầm quyền nơi đó

25


×