Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá chất lượng nước kênh rạch khu liên hợp xử lý chất thải Đa Phước dựa vào sự đa dạng hệ động vật phù du và chỉ số ô nhiễm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.78 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 65 (5/2019)
No. 65 (5/2019)
Email: ; Website:

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC KÊNH RẠCH KHU LIÊN HỢP
XỬ LÝ CHẤT THẢI ĐA PHƯỚC DỰA VÀO SỰ ĐA DẠNG HỆ
ĐỘNG VẬT PHÙ DU VÀ CHỈ SỐ Ô NHIỄM
Assessment chanel water quality at Da Phuoc Solid Waste Treatment Complex
using zooplankton indicators and biodiversity indices
PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Phượng(1), Lê Huỳnh Bảo Quyên(2), Nguyễn Thị Quỳnh Sa(3)
(1),(2),(3)Viện

Môi trường và Tài nguyên – ĐHQG TP.HCM

TÓM TẮT
Động vật phù du là những sinh vật nhạy cảm với những thay đổi môi trường. Vì vậy, nghiên cứu này đã
tiến hành đánh giá chất lượng nước mặt trong các kênh rạch xung quanh khu xử lý chất thải Đa Phước
dựa trên động vật phù du chỉ thị và các chỉ số đa dạng sinh học. Kết quả phân tích cho thấy các động vật
phù du trong khu vực khảo sát tương đối đa dạng và tương ứng với các đặc tính hóa lý của các vùng
nước. Nghiên cứu cũng xác định các động vật phù du chỉ thị cho thấy chất lượng nước ở hầu hết các địa
điểm bị ô nhiễm hữu cơ nhẹ đến trung bình, với tính chất nước ngọt đến lợ vừa. Dựa trên các chỉ số đa
dạng, mức độ ô nhiễm ở hầu hết các khu vực đều ở mức trung bình và ít thay đổi đáng kể trong giai
đoạn lấy mẫu. Hệ phiêu sinh động tại các điểm khảo sát cân bằng và khá ổn định.
Từ khóa: nước rỉ rác, phiêu sinh động vật, sinh vật chỉ thị, chỉ số đa dạng
ABSTRACT


Zooplankton are organisms that are sensitive to environmental changes. Therefore, this study conducted
assessment of surface water quality in the canals surrounding Da Phuoc waste treatment area based on
zooplankton indicators and biodiversity indices. Results show that the zooplankton in the survey area
are relatively diverse and correspond to the physico-chemical properties of the water bodies. The
identified zooplankton also indicates that the water quality in most locations is moderately organic
contaminated with the properties of freshwater and brackish water. Based on the diversity indices, the
level of pollution in most areas is moderate and there is little change between the sampling periods.
Zooplankton communities at survey sites are quite balanced and stable.
Keywords: leachate, zooplankton, biological indicator, diversity indices

trường đô thị. Nước rỉ rác từ các bãi chôn
lấp và bãi chôn hở thẩm thấu qua đất gây ô
nhiễm môi trường đất, nước ngầm và nước
mặt ở khu vực xung quanh bãi chôn lấp,
tạo ra các nguy cơ rủi ro sức khỏe (Everett,
1980). Sabahi et al. (2009) đã tiến hành

1. Mở đầu
Việc đánh giá tác động các bãi chôn
lấp đến môi trường đất, nước ngầm và
nước mặt vùng lân cận luôn được chú trọng
quan tâm. Vì bãi chôn lấp là một trong
những nguyên nhân gây ô nhiễm môi
Email:

10


NGUYỄN THỊ THANH PHƯỢNG và Cộng sự


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

nghiên cứu thành phần của nước rỉ rác và
nguy cơ ô nhiễm nước ngầm tại các bãi
chôn lấp ở Yemen và phát hiện ra rằng,
một số giếng khoan bị nhiễm bẩn từ nước
rỉ rác, có nồng độ của các thông số hóa lý
vượt trên tiêu chuẩn cho phép. Có nhiều
phương pháp đánh giá sự ô nhiễm như
phương pháp đo các chỉ tiêu hóa lý, sinh
học. Tuy nhiên các chỉ tiêu này thường đắt
tiền, đòi hỏi nhiều thời gian, chi phí. Một
trong những phương pháp tiết kiệm nhưng
cho độ chính xác cũng khá cao là phương
pháp đo quần thể vi sinh vật.
Từ giữa thế kỷ 19, các nhà nghiên cứu
như Kolenati (1848) và Kolkwits và Marson
(1909) đã phát hiện sự khác biệt giữa các
quần thể thủy sinh vật ở thủy vực nước sạch
và nước bị ô nhiễm. Hệ thống phân loại độ
nhiễm bẩn đầu tiên dựa vào các loài chỉ thị
trong quần xã sinh vật phù du (Phạm Văn
Miên và Lê Trình, 2004). Mỗi nhóm sinh
vật chỉ thị gắn liền với giai đoạn oxy hóa từ
nghèo dinh dưỡng – không bẩn
(oligosaprobic), nhiễm bẩn nhẹ β (βmesosaprobic), nhiễm bẩn trung bình α (αmesosaprobic), đến rất bẩn (polysaprobic)
với hàm lượng chất hữu cơ cao. Hệ thống
phân loại nhiễm bẩn hữu cơ sau đó được các
nhà khoa học tiếp tục bổ sung và hoàn thiện
để xây dựng chỉ số ô nhiễm.

Các nghiên cứu về phiêu sinh chỉ thị
cũng đã được thực hiện tại Việt Nam dựa
vào thành phần loài, mật độ của thực vật
phù du và động vật đáy. Năm 2004, Phạm
Văn Miên và Lê Trình đã đưa ra một số các
loài tảo, động vật phiêu sinh, động vật đáy
chỉ thị cho nhiễm bẩn hữu cơ nước ngọt và
nước mặn. Mai Viết Văn và cs. (2012) đã
xác định được thành phần loài và mật độ
sinh vật phù du phân bố ở vùng ven biển
Sóc Trăng – Bạc Liêu. Đào Thanh Sơn và

cs. (2015) đã đánh giá và phân vùng chất
lượng nước trên sông Thị Vải dựa trên cơ
sở thực vật phiêu sinh. Viện Môi trường và
Tài nguyên (2018) cũng đã thực hiện đánh
giá kết quả quan trắc động vật nổi tại các
kênh rạch TP.HCM và các tỉnh miền Tây
Nam Bộ trong mùa mưa năm 2017.
Mặt khác, để đánh giá một cách tổng
quát về thành phần và số lượng loài, nhiều
nghiên cứu đã tính toán các chỉ số đa dạng.
Chỉ số đa dạng Shannon – Weaver (H’) thể
hiện mức độ đa dạng loài và mức phân bố
đồng đều của các loài đó. Giá trị Shannon
– Weaver tăng khi số loài trong quần xã
tăng. Chỉ số cân bằng Pielou (J’) chỉ mức
độ ổn định của quần xã sinh vật và phản
ánh tính đối lưu, trao đổi nước tại điểm
khảo sát với lưu vực lân cận. Giá trị này

càng tiến dần đến 1 thì quần xã sinh vật
càng ổn định. Chỉ số ưu thế Berger và
Parker (D) dùng để đánh giá tính đa dạng
của quần xã. Ngược với chỉ số Shannon –
Weaver, chỉ số ưu thế có giá trị càng cao
thì 1 hay 2 loài trong quần xã có xu hướng
chiếm ưu thế cao trong quần xã, khi đó
quần xã sẽ mất dần tính bền vững. Vì vậy,
tính bền vững của quần xã giảm khi giá trị
của chỉ số ưu thế tiến dần đến 1.
Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Đa
Phước tọa lạc tại xã Đa Phước, huyện Bình
Chánh, có diện tích 128 ha. Hiện tại, khu
phức hợp Đa Phước nhận 5.000 tấn chất
thải mỗi ngày từ Thành phố Hồ Chí Minh
và đang lên kế hoạch tăng công suất lên tới
10.000 tấn mỗi ngày trong tương lai gần.
Hiện nay, hầu hết chất thải được xử lý
bằng bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Tuy nhiên,
vị trí bãi rác này nằm gần hệ thống kênh
đào bắt nguồn từ sông Cần Giuộc, tạo nguy
cơ các chất hữu cơ và các chất độc hại
thẩm thấu vào các mạch nước ngầm ra
11


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 65 (5/2019)


kênh rạch, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ
thống thủy sinh. Do đó, nghiên cứu này
tiến hành khảo sát hệ sinh thái động vật
phù du trong khu vực kênh rạch xung
quanh bãi chôn lấp Đa Phước, đồng thời
tính toán các chỉ số đa dạng nhằm đánh giá

chất lượng nước kênh rạch xung quanh khu
vực bãi chôn lấp. Đây là nghiên cứu đầu
tiên đánh giá tác động của khu liên hợp xử
lý chất thải Đa Phước đối với hệ thống
nước dựa trên lưu vực và do đó, là cơ sở để
đề xuất các biện pháp khắc phục kịp thời.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu

Hình 1. Sơ đồ vị trí lấy mẫu
Bảng 1. Thành phần và tính chất nước mặt trong quá trình nghiên cứu
Vị trí

Vĩ độ

Kinh độ

Vị trí

Vĩ độ

Kinh độ


Đ1

N 10o40’41,9

E 106o39’49,0

Đ10

N 10o40’20,9

E 106o39’45,4

Đ2

N 10o40’29,7

E 106o39’54,5

Đ11

N 10o40’20,0

E 106o39’49,0

Đ3

N 10o40’11,6

E 106o40’34,1


Đ12

N 10o39’47,7

E 106o40’42,1

Đ4

N 10o39’55,4

E 106o40’35,0

Đ13

N 10o40’15,3

E 106o40’18,4

Đ5

N 10o39’54,8

E 106o40’31,4

Đ14

N 10o39’37,59

E 106o41’4,78


Đ6

N 10o39’47,7

E 106o40’42,1

Đ15

N 10o40’26,27

E 106o40’8,24

Đ7

N 10o40’18,5

E 106o39’43,5

Đ16

N 10o39’31,14

E 106o40’16,85

Đ8

N 10o39’51,7

E 106o40’36,4


Đ17

N 10o40’20,07

E 106o40’4,56

Đ9

N 10o40’7,84

E 106o40’40,6
12


NGUYỄN THỊ THANH PHƯỢNG và Cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Mẫu nước được thu thập tại 17 vị trí
khu chôn lấp xử lý chất thải rắn Đa
Phước với tọa độ được thể hiện trong
Hình 1 và Bảng 1 trong 2 đợt, tháng 5 và
tháng 10 năm 2017. Căn cứ theo tính điển
hình và ngẫu nhiên trong việc chọn mẫu,
các vị trí lấy mẫu sau đây được phân bố
đều trên các kênh rạch xung quanh bãi
chôn lấp Đa Phước theo TCVN 66631:2002 về Hướng dẫn lập chương trình
lấy mẫu và kỹ thuật lấy mẫu, TCVN
6663-6:2008 về Hướng dẫn lấy mẫu ở

sông và suối, TCVN 6663-3:2016 về
Hướng dẫn bảo quản và xử lý mẫu nước.
Tọa độ các vị trí trên được đo bằng máy
định vị GPS Garrmin/GPS 72H.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu mẫu động vật phù
du được thực hiện theo SMEWW 10200
B:2012. Tại mỗi điểm thu mẫu dùng lưới
vớt động vật phù du (có kích thước mắt
lưới khoảng từ 70 – 315 µm) kéo thẳng từ
đáy lên hoặc đặt miệng lưới cách mặt
nước 15 – 20 cm rồi kéo lưới theo hình số
tám hay zic-zắc để lấy mẫu định tính (xác
định thành phần loài). Bên cạnh đó, dùng
xô hay chậu lấy 10 lít nước tại điểm thu
mẫu đổ qua lưới vớt động vật phù du để
lọc mẫu, sau đó chuyển mẫu (ở ống đáy)
qua lọ đựng mẫu định lượng (xác định
mật độ tế bào). Mỗi mẫu đều được cố
định bằng formalin 4% và lắc đều. Sau

đó, mẫu được để lắng, cô đặc hoặc pha
loãng và tiến hành phân tích bằng kính
hiển vi soi nổi với buồng đếm mở theo
phương pháp SMEWW 10200 C –
G:2012. Phân tích các vật mẫu thu được
tới đơn vị phân loài và có thể đến đơn vị
biến loài.
Các chỉ số đa dạng được tính toán theo
các công thức như sau:

- Chỉ số đa dạng Shannon – Weaver
S

(1949): H '   pi  ln pi , trong đó pi là
i 1

tỷ số của số lượng của loài thứ i và S là
tổng số cá thể trong mẫu.
- Chỉ số cân bằng Pielou (1966):
H'
J'
, trong đó S là số lượng loài
log 2 S
trong mẫu.
- Chỉ số Berger và Parker (1970):
N
D  max , trong đó Nmax là tổng số cá thể
N
của loài ưu thế có số lượng cao nhất và N
là tổng số cá thể có trong mẫu.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Phân vùng các loài động vật phù
du chỉ thị
Các loài động vật phù du chỉ thị vùng
nước nhiễm mặn, phân vùng nước
hydrocarbonate – carbonate và phân vùng
độ nhiễm bẩn hữu cơ được thể hiện trong
các Bảng 2, Bảng 3 và Bảng 4 sau.

Bảng 2. Động vật phù du chỉ thị vùng nước nhiễm mặn

Nước ngọt
(S ≤ 0,5‰)

Nước lợ nhạt
(S: 0,5 - 8‰)

Nước lợ vừa
(S: 8 - 18‰)

Nước lợ mặn
(S: 18 - 30‰)

Brachionus falcatus

Rotaria citrina

Brachionus plicatilis

-

→ Các loài chỉ thị xuất hiện cho thấy độ mặn môi trường nước dao động từ 0,5‰ – 18‰,
tích chất nước thuộc loại ngọt đến lợ vừa.

13


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 65 (5/2019)


Bảng 3. Động vật phù du chỉ thị vùng nước Hydrocarbonate – carbonate
Oligosaprobic
(

≤ 0,5 mg/L)

Brachionus falcatus

β- mesosaprobic

α- mesosaprobic

:0,5 – 1,5 mg/L)

Polysaprobic

:1,51 – 3 mg/L) (

Brachionus
calyciflorus

Brachionus caudatus Polyarthra vulgaris

> 3,0 mg/L)

Mesocyclops leuckarti

-

Moina dubia


-

→ Các loài chỉ thị xuất hiện cho thấy mức độ ô nhiễm Hydrocarbonate – carbonate tại các
điểm của khu vực khảo sát dao động từ mức nhẹ đến mức vừa.
Bảng 4. Động vật phù du chỉ thị độ nhiễm bẩn hữu cơ ở vùng nước ngọt và nước mặn
Loài chỉ thị

STT

Độ nhiễm bẩn hữu cơ
ROTATORIA

1

Philodina roseola

 -  meso

2

Rotaria citrina

 -  meso

3

Brachionus calyciflorus

4


Nước
ngọt

 meso
 meso - poly

Asplanchna multiceps
CLADOCERA

 -  meso

Moina dubia

5

COPEPODA
 -  meso

Mesocyclops leuckarti

6

ROTATORIA
 -  meso

Brachionus plicatilis

7
Nước

mặn

COPEPODA

8

Oithona similis

9

Paracalanus parvus

 -  meso
Oligo -  meso

Chú thích: poly = polysaprobic; β – meso = β – mesosaprobic;
α – meso = α – mesosaprobic; Oligo = Oligosaprobic.
→ Các loài chỉ thị ô nhiễm ở nước ngọt và nước mặn xuất hiện cho thấy mức độ ô nhiễm
hữu cơ tại các điểm của khu vực khảo sát dao động từ mức nhẹ đến mức vừa.
14


NGUYỄN THỊ THANH PHƯỢNG và Cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

ở đợt 1 xuất hiện nhiều hơn so với đợt 2.
Nhóm Eurototaria chiếm ưu thế về thành
phần loài trong thủy vực suốt 2 đợt quan
trắc. Đây là nhóm đặc trưng cho ô nhiễm

hữu cơ, chứng tỏ nguồn nước có dấu hiệu
bị ô nhiễm hữu cơ. Thành phần loài ở đây
gần tương tự như các mẫu nước mặt kênh
rạch khảo sát tại TP.HCM và các tỉnh miền
Tây Nam Bộ (Viện Môi trường và Tài
nguyên, 2018).
Mật độ cá thể động vật nổi ghi nhận
được tại các điểm khảo sát đợt 2 gấp đôi
đợt 1 dao động từ 24.000 – 289.800 (đợt 1)
và 64.000 – 693.000 con/m3 (đợt 2), có thể
do nguồn ô nhiễm đã giảm, lượng mưa
tăng làm môi trường nước sạch hơn, môi
trường sống và lượng thức ăn phù hợp hơn,
ít độc tố gây hại sinh vật nổi hơn. Tuy
nhiên, theo báo cáo của Viện Môi trường
và Tài nguyên (2018), cả 2 đợt đều có mật
độ động vật nổi lớn hơn nhiều lần so với
các mẫu nước mặt kênh rạch trong nội
thành TP.HCM. Các loài ưu thế hiện diện
tại từng điểm như Hình 2.

3.2. Cấu trúc thành phần loài động
vật phù du
Kết quả phân tích mẫu động vật nổi tại
17 điểm khảo sát thuộc thủy vực kênh rạch
xung quanh khu liên hợp Đa Phước năm
2017 đã xác định được 50 loài phân vào 8
nhóm loài: 03 loài Amoebozoa, 02 loài
Ciliophara, 04 loài Oligotrichia, 24 loài
Eurotatoria, 01 loài Ostracoda, 05 loài

Cladocera, 06 loài Copepoda và 05 dạng
ấu trùng Larva. Thành phần loài của các
nhóm phân bố chiếm từ 2 – 48% tổng số
loài. Trong đó, nhóm Eurotatoria có số
loài phong phú nhất được ghi nhận là 24
loài, chiếm 48%, kế đến là nhóm giáp xác
Copepoda với 6 loài chiếm 12%. Các
nhóm còn lại ghi nhận được số loài thấp,
dao động từ 1 – 5 loài/nhóm, chiếm từ 2 –
10%. Khu hệ động vật nổi tại các điểm
khảo sát khá đa dạng, thành phần loài ghi
nhận được chủ yếu có nguồn gốc nước
ngọt nội địa, đồng thời xuất hiện vài loài có
nguồn gốc nước lợ, cửa sông, ven biển
trong đợt 2 và thành phần các loài nước lợ

Hình 2. Mối tương quan mật độ giữa loài ưu thế và các loài chỉ thị ô nhiễm

15


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 65 (5/2019)

Hình 2 thể hiện sự tương quan giữa
mật độ của loài ưu thế và các loài động vật
phù du chỉ thị ô nhiễm tại 17 vị trí khảo sát
trong 2 đợt quan trắc. Trong đó, đáng chú ý
là vị trí Đ3, loài ưu thế trong 2 đợt quan trắc

lần lượt là Moina dubia (chiếm 34,8%) và
Brachionus calyciflorus (chiếm 26%); cả
hai đều là động vật phù du chỉ thị cho sự
nhiễm bẩn hữu cơ ở mức độ β – α
mesosaprobic và lần lượt chỉ thị cho vùng
nước Hydrocarbonate – carbonate α và β
mesosaprobic, tức là hàm lượng nitơ lớn
hơn 0,5 mg/L. Các vị trí Đ4, Đ7 và Đ15
cũng có loài ưu thế là loài chỉ thị ô nhiễm:
Brachionus calyciflorus (Đ4, chiếm 31,7%;
Đ15, chiếm 27%) và Polyarthra vulgaris
(Đ7, chiếm 26,4%). Ngoài ra, các loài chỉ
thị ô nhiễm như Brachionus calyciflorus,
Brachionus plicatilis và Polyarthra vulgaris
cũng xuất hiện với mật độ tương đối cao tại
các vị trí khảo sát trong cả 2 đợt khảo sát.
Điều này cho thấy môi trường nước ở khu
vực dự án thuộc loại nước ngọt đến lợ vừa
và chất lượng môi trường nước có dấu hiệu
ô nhiễm hữu cơ. Tuy nhiên, loài ưu thế
chiếm tỉ lệ cao hơn so với các loài chỉ thị ở
đợt 2, có thể gợi ý rằng mức độ ô nhiễm ở
đợt 2 suy giảm hơn so với đợt 1.
3.3. Chỉ số đa dạng
Chỉ số Shannon − Weaver (H’)
Theo Hình 3, chỉ số H’ thể hiện mức ô
nhiễm của động vật nổi đạt được tại các
điểm khảo sát qua 2 đợt quan trắc dao động
từ 1,4 − 2,33. Kết quả cho thấy, số điểm có
dấu hiệu ô nhiễm mức vừa ở đợt 2 là 5

điểm, cao hơn 1 điểm so với đợt 1. Điểm
Đ2, Đ7, Đ8 có mức độ ô nhiễm không thay
đổi suốt 2 mùa quan trắc, nhưng tại Đ4,
Đ5, Đ10, mức độ ô nhiễm tăng một bậc từ
nhẹ lên vừa và Đ3, Đ11 thì giảm một bậc
từ vừa sang nhẹ. Nhìn chung, mức độ ô

nhiễm khu vực khảo sát hầu hết ở mức nhẹ
và không biển đổi nhiều suốt thời gian
quan trắc. Trong khi đó, các vùng nước
mặt kênh rạch nội thành TP.HCM có mức
độ ô nhiễm dao động từ nặng đến nhẹ
(Viện Môi trường và Tài nguyên, 2018).

Hình 3. Chỉ số đa dạng H’ ở kênh rạch
xung quanh Đa Phước
Chỉ số cân bằng Pielou (J’)

Hình 4. Chỉ số cân bằng J’ ở kênh rạch
xung quanh Đa Phước
Theo Hình 4, chỉ số Pielou (J’) động
vật nổi tại 17 điểm khảo sát có giá trị dao
động quanh khoảng trung bình từ 0,49 −
0,63 trong suốt 2 mùa quan trắc. Trong đó,
chỉ số Pielou ghi nhận tại cùng 1 điểm
trong 2 mùa quan trắc khác nhau không
chênh lệch nhiều, và biên độ dao động cao
nhất là tại Đ10 với độ lệch 18,3%. Nhìn
chung, tại các điểm thu mẫu quần xã động
vật nổi cân bằng quanh mức trung bình,

16


NGUYỄN THỊ THANH PHƯỢNG và Cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

giống kết quả tính toán của Viện Môi
trường và Tài nguyên (2018).
Chỉ số ưu thế Berger và Parker (D)
Theo Hình 5, chỉ số ưu thế Berger và
Parker (D) động vật nổi tại các điểm khảo sát
có giá trị từ 0,21 – 0,44. Giá trị D tại 10/17 vị
trí khảo sát tăng nhẹ so với đợt 1, giá trị D
trung bình tăng từ 0,27 (đợt 2) lên 0,31 (đợt
1). Nhìn chung, tại các điểm khảo sát có chỉ
số ưu thế D đạt tương đối thấp, cho thấy
quần xã động vật nổi tại các điểm này khá
bền vững. Điểm Đ7 và Đ10 có giá trị cao
nhất cho thấy quần thể động vật nổi tại đây
kém bền vững hơn, giống kết quả tính toán
của Viện Môi trường và Tài nguyên (2018).

4. Kết luận
Kết quả phân tích cho thấy, khu hệ
động vật nổi tại các điểm khảo sát khá đa
dạng phù hợp với tính chất hóa lý, thành
phần loài ghi nhận được chủ yếu có nguồn
gốc nước ngọt nội địa, ngoài ra còn xuất
hiện vài loài có nguồn gốc nước lợ, cửa

sông và ven biển; thành phần các loài
nước lợ ở đợt 1 xuất hiện nhiều hơn so với
đợt 2. Nhóm Rotifera vẫn chiếm ưu thế về
thành phần loài trong thủy vực suốt 2 đợt
quan trắc, đây là nhóm đặc trưng cho ô
nhiễm hữu cơ. Mật độ cá thể động vật nổi
ghi nhận được tại các điểm khảo sát dao
động từ 24.000 – 693.000 con/m3.
Trên cơ sở kết quả phân tích cấu trúc
thành phần loài, mật độ, loài ưu thế, loài
chỉ thị có thể xác định môi trường nước ở
khu vực dự án thuộc loại nước ngọt đến
lợ vừa. Chất lượng môi trường nước có
dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ. Nhìn chung
mức độ ô nhiễm khu vực khảo sát hầu
hết ở mức nhẹ và không biến đổi nhiều
suốt thời gian quan trắc. Quần xã động
vật nổi cân bằng quanh mức trung bình,
khá bền vững.

Hình 5. Chỉ số ưu thế D ở kênh rạch xung
quanh Đa Phước
LỜI CẢM ƠN

Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ
Đề tài mã số C2017-24-05/HĐ-KHCN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Carli A., Pane L., Romairone V. (1994), “A study of phytoplankton populations of the
Riva Trigoso Bay (Gulf of Genoa) in relation to eutrophication features of the water”,
In: UNEP/FAO (1994), Final reports on research projects dealing with eutrophication

problems, MAP Technical Reports Series No. 78. UNEP, Athens.
[2] Dương Trí Dũng, Nguyễn Văn Công, Lê Công Quyền (2011), “Sử dụng các chỉ số
động vật đáy đánh giá sự ô nhiễm nước ở rạch Tầm Bót, Long Xuyên, tỉnh An Giang”,
Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ, 20A:18-27.
17


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 65 (5/2019)

[3] Dzeha T., Mwangi S.N., Kudoja W. (1998), “Phytoplankton distribution and density as
indicators eutrophication: A case study of the Mombasa Marine Park and Reserves,
Kenya”, In: FISA/PARADI (1998), African Fishes and Fisheries Diversity and Utilisation
Poissons et Peches Africains Diversite et Utilisation, Grahamstown (South Africa).
[4] Đào Thanh Sơn, Hồ Thị Ngọc Hà (2015), “Đánh giá chất lượng nước mặt sông Thị
Vải trên cơ sở thực vật phù du”, Tạp chí Khoa học và Ứng dụng, 21:68-78.
[5] Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2002), Động vật chí Việt Nam – Tập 5 – Giáp xác
nước ngọt, NXB Khoa học và Kỹ thuật.
[6] Everett L.G. (1980), Groundwater Monitoring, General Electric Company,
Schenectady, New York.
[7] Kolenati, F.A. (1848), “Stettiner entomologische zeitung 9”, In: Liebmann, H. (1960),
Handbouch der Frischwasser and Abwasserbioligie, Board I and II, Munchen.
[8] Kolkwitz, R. and Marsson, M. (1909), “Okologie der tierischen saprobien”, Int. rev.
ges. Hydrobiol., 2:126-152.
[9] Mai Viết Văn, Trần Đắc Định, Nguyễn Anh Tuân (2012), “Thành phần loài và mật độ
sinh vật phù du phân bố ở vùng ven biển Sóc Trăng – Bạc Liêu”, Tạp chí Khoa học
Đại học Cần Thơ, 23a: 89-99.
[10] MRC (2010), Biomonitoring Methods for the Lower Mekong Basin, Mekong River
Commission, Vientiane.

[11] Nguyễn Văn Tuyên (2003), Đa dạng sinh học tảo trong thủ vực nội địa Việt Nam –
Triển vọng và Thử thách, NXB Nông Nghiệp TP. Hồ Chí Minh.
[12] Phạm Văn Miên, Lê Trình (2004), Nghiên cứu hoàn thiện các chỉ tiêu sinh học để
đánh giá chất lượng và phân vùng, phân loại môi trường nước các thủy vực
TP.HCM, Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM.
[13] Sabahi E.A., Rahim S.A., Zuhairi W.Y.W., Nozaily F.A., Alshaebi F. (2009), The
characteristics of leachate and groundwater pollution at municipal solid waste
landfill of Ibb City, Yemen, Am. J. Environ. Sci. 5:256-266.
[14] Sladecek V. (1973), System of Water Quality from the Biological Point of View
(Limnology Report; No. 7), Lubrecht & Cramer Ltd.
[15] Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater, 10200 PLANKTON
(2012).
[16] UNEP/WHO (1996), Water Quality Assessments - A Guide to Use of Biota,
Sediments and Water, In: Deborah Chapman (1996), Environmental Monitoring
(Second Edition), United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization,
World Health Organization, United Nations Enviroment Programme.
18


NGUYỄN THỊ THANH PHƯỢNG và Cộng sự

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

[17] Viện Môi trường và Tài nguyên (2018), Báo cáo Kết quả quan trắc động vật nổi tại
TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây Nam Bộ đợt 2 năm 2017, Đại học Quốc gia
TP.HCM.
[18] Унифицированные методы исследования качества вод, Часть III, Методы
биологического анализа вод, Издание третье, Приложение 2, Атлас сапробных
организмов, Совет экономической взаимопомощи [Текст] : справочник, – М, :
Секретариат СЭВ, 1977, – 228 с, : ил, ; 36 см, – Библиогр,: с,17-92

Ngày nhận bài: 20/4/2019

Biên tập xong: 15/5/2019

19

Duyệt đăng: 20/5/2019



×