Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về hộ kinh doanh của Việt Nam từ thực tiễn tại quận Tân Phú, Thành Phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.77 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THẢO

PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN TẠI QUẬN TÂN PHÚ,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THẢO

PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN TẠI QUẬN TÂN PHÚ,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THANH BÌNH

HÀ NỘI, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay từ thực tiễn tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh ” này là
công trình nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS
Nguyễn Thanh Bình.
Các thông tin, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các kết quả
nghiên cứu trong Luận văn.
Tác giả luận văn

Lê Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH ........... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ kinh doanh ............................................. 7
1.2. Vai trò của hộ kinh doanh và sự khác biệt của hộ kinh doanh với doanh
nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.................................................... 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY, THỰC TIỄN TẠI QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 28
2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về hộ kinh doanh ..... 28
2.2. Những bất cập của pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay . 35
2.3. Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh trên địa bàn Quận Tân phú,
TP.Hồ Chí Minh ........................................................................................... 40
2.4. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về hộ kinh doanh trên địa bàn
Quận Tân phú, TP.Hồ Chí Minh .................................................................. 45
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH

DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................... 56
3.1. Định hướng phát triển loại hình kinh tế hộ kinh doanh ........................ 56
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh trên địa bàn
quận Tân phú, TP.Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay .......................... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ATXH

:An toàn xã hội

BHXH

:Bảo hiểm xã hội

BHYT

:Bảo hiểm y tế

BHTN

:Bảo hiểm thất nghiệp

BVTN-MT

:Bảo vệ tài nguyên – môi trường


BVDT VH-LS

:Bảo vệ dân tộc văn hóa – lịch sử

CP

:Chính phủ

DNNVV

:Doanh nghiệp nhỏ và vừa

GTGT

:Giá trị gia tăng

HKD

:Hộ kinh doanh

HĐND

:Hội đồng nhân dân

KT-XH

:Kinh tế - xã hội

LĐT


:Luật đầu tư

LDN

:Luật doanh nghiệp

NLĐ

:Người lao động



:Nghị định

NSNN

:Ngân sách nhà nước

TPHCM

:Thành phố Hồ Chí Minh

TNDN

:Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB

:Tiêu thụ đặc biệt


UBND

:Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại với sự tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế cùng cạnh tranh và phát triển, và với việc bảo đảm quyền tự do
kinh doanh thì chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp nhiều hình thức kinh doanh
phong phú và đa dạng như: kinh doanh cá thể nhỏ lẻ, các hộ kinh doanh, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh,…Trong muôn
màu muôn vẻ của các hình thức kinh doanh là các loại hình doanh nghiệp, thì
chúng ta không thể không đề cập đến vai trò đóng góp đáng kể của hộ kinh
doanh trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Theo số liệu
thống kê chưa đầy đủ thì Hộ kinh doanh đã góp phần vào GDP của đất nước
một con số khá thú vị là đạt tới 30% thu ngân sách 1.6%.
Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương (khóa XII) thống nhất quan điểm chỉ đạo phát triển hộ kinh doanh là:
“Thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước,
được sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, hộ kinh doanh đã phát
triển rộng khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế,
huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn
định chính trị - xã hội của đất nước. Cùng với các loại hình kinh doanh khác,
sự phát triển của hộ kinh doanh đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất,
thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt

Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục…”
Nhờ vậy, trong những năm qua, bộ phận kinh tế này ở nước ta đã phát
triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định là một bộ phận không thể thiếu
được của nền kinh tế quốc dân.
1


Theo số liệu thống kê của Phòng Kinh tế - Ủy ban nhân dân quận Tân
Phú, tính đến giữa năm 2018, tổng số hộ kinh doanh trên địa bàn quận là
14.812 hộ; trong đó cấp mới năm 2018 là 3.035 Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
Việc ban hành Luật doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã tạo điều kiện thông thoáng cho người đăng ký kinh doanh được
cấp Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh nhanh nhất để gia nhập thị trường
bằng việc quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục được đơn giản hóa, thông tin trong
hồ sơ do hộ kinh doanh tự kê khai và tự chịu trách nhiệm, thời gian giải quyết
thủ tục được rút gọn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số trường hợp cá nhân muốn kinh
doanh dưới hình thức hộ kinh doanh nhưng không được phép cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh…
Vấn đề đặt ra là tìm giải pháp điều chỉnh pháp lý về đăng ký hộ kinh
doanh như thế nào cho phù hợp với điều kiện của hộ kinh doanh trên địa bàn
quận Tân Phú nói riêng và nền kinh tế thị trường của nước ta nói chung.
Xuất phát từ những vấn đề đặt ra từ những bất cập thực tế trên địa bàn
quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh đã khuyến khích tác giả mạnh dạn lựa
chọn đề tài “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn
tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Quá trình nghiên cứu người viết đề tài tham khảo các nghiên cứu của

học giả, thầy cô và các anh, chị đi trước trong phạm vi đề tài “hộ kinh doanh”,
bản thân người viết nhận thấy:
Thứ nhất, ở các cơ sở đào tạo cử nhân luật của Việt Nam thì trong
chương trình đào tạo của mình vấn đề hộ kinh doanh là một bộ phận nằm
2


trong chương trình giảng dạy về luật kinh tế và quản lý kinh tế mặc dù mức
độ nghiên cứu chưa sâu.
Thứ hai, trong những năm qua một số cơ quan nghiên cứu về kinh tế đã
có một số các cuộc điều tra về thực trạng và tình hình phát triển của hộ kinh
doanh như: Kết quả điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp
năm 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Kết quả điều tra, khảo sát tình hình
phát triển của hộ kinh doanh tại Bắc Ninh và Vĩnh Phúc năm 2011 của Viện
Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Ipsard) thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Thứ ba, Chúng ta có thể tìm thấy một số vấn đề về hộ kinh doanh trong
Giáo trình luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội 2007; Giáo trình Luật thương mại, của Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006; Giáo trình Luật kinh tế, của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006;
Chuyên khảo Một số quy định mới về hộ kinh doanh nhỏ, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003. Hay các bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên
ngành pháp lý, nổi bật như bài viết: Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để
tìm ra các bất cập, của TS. Ngô Huy Cương, Tạp chí Khoa học, Đại học
Quốc gia Hà Nội, số 25 (2009), Phạm Quý Tỵ (2000), Nhà nước quản lý bằng
pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà
Nội, PGS.TS Đào Trí Úc (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và
những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, GS.TS Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý
nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội…
3


Tóm lại, dù có phương pháp nghiên cứu, góc nhìn, phân tích đánh giá
khác nhau, nhưng tựu chung lại các tác giả đã chỉ ra đặc tính, biểu hiện, bản
chất, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế hộ kinh doanh trong tổng quan nền
kinh tế của Việt Nam qua các thời kỳ; qua đó làm rõ các hạn chế, khuyết điểm
đề ra các giải pháp hoàn thiện.
Tuy nhiên, người viết đề tài vẫn tâm đắc với đề tài: “Pháp luật về hộ
kinh doanh của Việt Nam từ thực tiễn tại quận Tân Phú, Thành Phố Hồ Chí
Minh”. Bởi vì, quận Tân Phú đang trong quá trình đô thị hóa cao, dân số
thuộc nhóm đứng đầu thành phố, đa số là dân nhập cư, việc kinh doanh buôn
bán diễn ra hết sức phức tạp. Do vậy người viết đề tài mong muốn qua nghiên
cứu sẽ kiến nghị UBND quận Tân Phú triển khai thực hiện pháp luật kinh
doanh tốt hơn, chặt chẽ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- So sánh tổng quan các quy định pháp luật có liên quan đến hộ kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay làm cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phân tích thực tiễn áp dụng các vấn đề pháp lý hiện hành điều chỉnh
hoạt động hộ kinh doanh để tìm ra những bất cập cần hoàn thiện;
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về hộ kinh doanh qua thực tiễn ở Quận Tân Phú trong điều
kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật hộ kinh doanh thông
qua việc khai thác những vấn đề lý luận và thực tiễn của hộ kinh doanh theo
pháp luật Việt Nam hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung chính vào những hộ kinh
doanh trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4


5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích định lượng thông qua nghiên cứu số liệu và
khảo sát đối tượng hộ kinh doanh với những đề xuất, kiến nghị về mặt pháp lý
để xác định tính đúng đắn và phù hợp dựa trên những con số cụ thể.
Phương pháp phân tích định tính gồm những phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ khái niệm hộ kinh
doanh, bản chất và những đặc điểm của hộ kinh doanh, làm rõ những điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam về việc hộ kinh doanh.
+ Phương pháp so sánh, tác giả xem xét, đối chiếu các quy định của
pháp luật đối với hộ kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp khác như
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty
hợp danh từ đó làm nổi bật lên vị trí, vai trò của hộ kinh doanh.
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa nhằm đưa ra
những đề xuất, kiến nghị của luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống pháp
luật về hộ kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta ở cấp
độ luận văn thạc sỹ luật học.
Người viết đã hệ thống các quy định pháp luật có liên quan đến hộ kinh
doanh; nhất là so sánh phân tích, đánh giá, nhận xét về các mâu thuẫn của quy
định hộ kinh doanh so với Bộ Luật Dân sự, giữa quy định của pháp luật kinh
doanh so với thực tiễn tại quận Tân Phú. Từ đó chỉ ra được các hạn chế, thiếu
sót, kiến nghị các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật kinh doanh.
Qua đề tài người viết cũng mong rằng Quý lãnh đạo của quận Tân Phú
dành ít thời gian để đánh giá mức độ hiệu quả, nhằm áp dụng các giải pháp để

giải quyết các vấn đề thực tại.
5


7. Kết cấu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt nam
hiện nay từ thực tiễn tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” bao gồm:
Phần mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện
nay, thực tiễn tại quận Tân phú, TP.Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay từ thực tiễn tại quận Tân phú, TP.Hồ Chí Minh.
Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ kinh doanh
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay khó có thể đưa ra một định nghĩa thỏa đáng về hộ kinh doanh,
và khó có thể nói hộ kinh doanh mang bản chất là cá nhân kinh doanh, thương
nhân đơn lẻ hay thương nhân thể nhân.
Theo quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP thì hộ kinh doanh được
định nghĩa :
“Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá
nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,

sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh. Hộ kinh doanh có sử dụng từ mười lao
động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định”. [5].
Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được chia
thành ba loại căn cứ vào chủ tạo lập ra nó:
(1) Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ;
(2) Hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ; và
(3) Hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ.
- (i) Về hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ: cá nhân kinh doanh ở
đây được hiểu là từng người cụ thể, là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được quyền thành lập hộ
kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh cá nhân này phải nhân danh mình và
tự chịu trách nhiệm về các hành vi thương mại của mình. Về bản chất, hộ kinh
doanh do một cá nhân làm chủ là một thương nhân thể nhân.
7


- (ii) Về hộ kinh doanh do “hộ gia đình làm chủ”: Đây là một chủ thể
kinh doanh “rất riêng” của Việt Nam, bởi vì đa phần các quốc gia trên thế giới
không thừa nhận hộ gia đình là một thực thể được tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh giống như một thương nhân, hoặc một công ty. Việc quy
định “hộ gia đình” được kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh như trên
vừa nói có lẽ xuất phát từ việc Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định “hộ gia đình” là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Điều 101 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải
thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không
có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên
khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ
dân sự do mình xác lập, thực hiện. [7].
Từ việc quy định hộ kinh doanh do một hộ gia đình làm chủ làm nảy
sinh nhiều khía cạnh pháp lý về chủ thể này mà chúng ta cần nghiên cứu để
làm sáng tỏ.
Hộ gia đình là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam vì hộ gia
đình không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân mà tập hợp các
thành viên có tài sản chung. Do đó hộ kinh doanh không hoàn toàn là thương
nhân thể nhân.
8


Dù Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định cụ thể và dễ dàng nhận biết thế
nào là hộ gia đình. Tuy nhiên hộ gia đình theo pháp luật dân sự khác với chủ
thể hộ kinh doanh cá thể dẫn đến khó xác định đối tượng sẽ bị ràng buộc pháp
lý khi xảy ra tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện.
Điển hình: việc thành lập hộ kinh doanh không đòi hỏi, phải chứng
minh quan hệ hôn nhân, huyết thống,…của các thành viên dẫn đến trường
hợp hai hoặc ba thành viên sáng lập hộ kinh doanh là những người bạn thân
có mối quan hệ bạn bè hàng xóm, bạn bè học đại học với nhau.
Trong thực tiễn các cơ quan hành pháp và tư pháp thường xác định tập
hợp các thành viên hộ gia đình thông qua sổ hộ khẩu và nếu có bất kỳ giao
dịch dân sự nào liên quan đến hộ gia đình thì cơ quan quản lý nhà nước cũng
như người dân luôn yêu cầu người đại diện phải là chủ hộ trong sổ hộ khẩu
như việc giao đất cho hộ gia đình.
Thực tế trên đã và đang làm các giao dịch dân sự liên quan đến hộ gia

đình bị hiểu và thực hiện lệch lạc so với quy định pháp luật về hộ gia đình.
Trong khi đó, sổ hộ khẩu chưa chứng minh tính huyết thống (thành viên), gia
đình, để xác định đối tượng chịu trách nhiệm về hậu quả pháp lý.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung một chủ thể khác trong giao dịch
dân sự bên cạnh hộ gia đình và tổ hợp tác, đó là “tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân” [7], nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của các chủ thể là tổ
chức nhưng không có tư cách pháp nhân trong các giao dịch dân sự, giải
quyết những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến những
chủ thể trên. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 không phân tách các quy định của
hộ gia đình và tổ hợp tác ra thành 2 nội dung riêng biệt mà sử dụng những
quy định nhằm điều chỉnh chung, căn cứ vào những đặc điểm giống nhau giữa

9


các chủ thể, tránh những nội dung trùng lặp gây phức tạp trong quy định của
pháp luật.
Bộ luật Dân sự năm 2015 không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là hộ
gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc xác định nội hàm của
những khái niệm trên là hết sức cần thiết để từ đó có thể làm rõ tư cách thành
viên của những đối tượng này.
Về chủ thể, khoản 1 Điều 101 quy định trong quan hệ dân sự có sự
tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân, thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc
ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Được hiểu là bản thân hộ gia đình, tổ hợp tác hay tổ chức không có tư cách
pháp nhân không được xem là một bên chủ thể trong quan hệ dân sự mà là
các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp
nhân hoặc là người đại diện theo uỷ quyền. Quy định này phù hợp với tinh

thần chung của BLDS năm 2015, đó là chỉ có cá nhân hoặc pháp nhân mới là
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Đây là một bước tiến mới của BLDS
năm 2015 nhằm phân định rõ trách nhiệm dân sự của các chủ thể khi tham gia
vào quan hệ dân sự.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 101 ở đoạn thứ hai lại quy định thêm nếu
thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm
người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác
lập, thực hiện. Nói theo một cách khác, quy định này đòi hỏi phải có sự uỷ
quyền của các thành viên khác thì thành viên được uỷ quyền mới có thể trở
thành chủ thể quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư
10


cách pháp nhân. Theo chúng tôi, quy định này vô hình chung đã tạo nên sự
mâu thuẫn và làm vô hiệu hoá quy định tại đoạn thứ nhất. Vậy câu hỏi đặt ra
là có hay không cho phép thành viên là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân khi không có sự uỷ quyền từ các thành viên khác? Thiết nghĩ, cần
phải có hướng dẫn cụ thể cho nội dung này để tránh nhiều cách hiểu trái
chiều.
Về trách nhiệm dân sự, việc xác định quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân giúp làm rõ trách nhiệm
dân sự của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân trong quan hệ dân sự đó. Cụ thể là nghĩa vụ dân sự phát sinh
từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của
các thành viên. Trường hợp các thành viên không có hoặc không đủ tài sản
chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì người có quyền có thể yêu cầu các
thành viên thực hiện nghĩa vụ liên đới theo quy định tại Điều 288 BLDS năm

2015. Hoặc nếu các bên không có thỏa thuận, hợp đồng hợp tác hoặc luật
không có quy định khác thì các thành viên sẽ chịu trách nhiệm dân sự theo
phần tương ứng với phần đóng góp tài sản của mình; trường hợp không xác
định được theo phần tương ứng thì xác định theo phần bằng nhau. Nói cách
khác, các thành viên không còn phải chịu trách nhiệm liên đới vô hạn bằng tài
sản riêng của mình, thay vào đó là trách nhiệm liên đới theo phần. Đây là một
điểm mới của BLDS năm 2015.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về hậu quả pháp lý đối
với giao dịch dân sự do thành viên không có quyền đại diện hoặc vượt quá
phạm vi đại diện xác lập. Điều 104 quy định: Nếu thành viên không có quyền
đại diện mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh các thành viên khác
11


của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc
người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì giao dịch dân
sự đó vô hiệu đối với phần nội dung không có quyền đại diện.
- (iii) Về hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ: Có lẽ nhận thức
được tác dụng to lớn của nhóm đối tượng này đối với nền kinh tế nên đến
Nghị định số 78… đã cho phép một nhóm người được đăng ký kinh doanh
dưới hình thức “hộ kinh doanh”. Theo quy định tại Điều 67, thì một nhóm
người tự nguyện hùn vốn kỹ thuật cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh,
cùng hưỡng lãi, cùng chịu lỗ và cùng chịu trách nhiệm về hoạt động kinh
doanh của nhóm. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chỉ mới dừng lại ở việc cho
phép “một nhóm người” được đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh
doanh mà chưa có nhiều quy định cụ thể liên quan đến chế độ chịu trách
nhiệm của các cá nhân trong nhóm và chế độ quản trị hộ kinh doanh. Về số
lượng thành viên, mặc dù, luật không có quy định nào về hạn chế số lượng
thành viên trong một nhóm nhưng nếu sử dụng hơn mười lao động thì hộ kinh
doanh phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Như vậy có thể

hiểu, “hộ kinh doanh và các hình thức công ty không khác gì nhau về hình
thức kết cấu mà chỉ khác nhau về quy mô kinh doanh” .
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh
1.1.2.1. Hộ kinh doanh không phải là pháp nhân
Hộ kinh doanh do một cá nhân thành lập nhằm mục đích kinh doanh,
buôn bán nhỏ lẻ, trong một vị trí địa lý nhất định thuuwongf là trong phạm vi
nhỏ; kiểu kinh doanh này thông thường các hộ dùng vốn tự có và thu nhập từ
kết quả kinh doanh sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thuế theo quy định.
Loại hình kinh doanh này có thể chịu thiệt thòi, trong hậu quả pháp lý
về tài chính, nhất là bồi thường thiệt hại trong quá trình kinh doanh, vấn đề
này là khác biệt rất lớn so với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn, người
12


chủ doanh nghiệp (người kinh doanh) chỉ chịu trách nhiệm về tài chính tương
ứng với phần vốn góp khi thành lập doanh nghiệp.
Nói như thế để nói rằng loại hình hộ kinh doanh tuy có vị trí nhất định
trong vấn đề an sinh xã hội trong nền kinh tế Việt Nam nhưng chưa được Nhà
nước quan tâm đúng mức; tức là phải có giải pháp, biện pháp kiến thiết nhóm
hộ kinh doanh cá thể hoạt động theo khuôn khổ pháp luật (Luật, Bộ Luật),
mục đích tránh thất thu thuế cho Nhà nước, cũng như bảo đảm quyền lợi (chịu
trách nhiệm về tài chính) như mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn.
Xuất phát từ thực tiễn cho nên Quốc hội và Chính phủ đã quan tâm vận
động hộ kinh doanh cá thể chuyển dần cơ cấu sang thành mô hình công ty.
Từ phân tích ở trên, bản thân người viết đề tài nhận thấy: dù chủ trương
của Nhà nước hướng hộ kinh doanh đến việc thành lập doanh nghiệp mà
không có cơ chế, chế tài đúng đắn thì vấn nạn thất thu thuế nhà nước, quyền
về pháp lý đối với tài chính của hộ kinh doanh sẽ luôn tồn tại, hiện hữu trong
nền kinh tế Việt Nam.
Ví dụ: (1) Tại Bản án số 87/2007/KDTM- PT ngày 10/9/2007, Tòa

phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử
vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/MBND/2001 ngày
26/9/2001 giữa nguyên đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn sản xuất và
thương mại Trương Gia Lợi và bị đơn là Cơ sở sản xuất Thuận Lợi (sau khi
có Bản án giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao
quyết định hủy Bản án kinh tế phúc thẩm số 12/KTPT ngày 24/02/2005 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai đương sự này, và
giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố

13


Hồ Chí Minh ( Nay là Tòa án Nhân dân Cấp cao tại TPHCM ) xét xử phúc
thẩm lại theo quy định của pháp luật);
(2) Tại Bản án số 204/2006/KDTM-ST ngày 12/5/2006, Tòa án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán giữa
nguyên đơn Nguyễn Văn Nở - chủ Cửa hàng vật liệu xây dựng và trang trí nội
thất Hải Hưng và bị đơn Công ty TNHH sơn Jotun Việt Nam;
(3) Tại Bản án số 1784/2007/KDTM-ST ngày 24/9/2007 Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng đại lý giữa
nguyên đơn Nguyễn Thị Tốt-Chủ hộ kinh doanh cá thể - Nhà phân phối
Phước Hiệp và bị đơn Công ty TNHH thương mại và sản xuất Khiêm Tín.
Hộ kinh doanh cá thể có thể được thành lập bởi nhiều người, nhưng dù
một người hay nhiều người đều không có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, có
vấn

đề

rắc


rối

cần

lưu

ý

rằng:

Người

đứng ra đăng ký kinh doanh có được xem là người đại diện đương nhiên
cho nhóm tạo lập ra hộ kinh doanh hay không, hay chỉ là người đại diện cho
nhóm để đăng ký kinh doanh? Câu trả lời có ý nghĩa quan trọng đối
với chế độ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của hộ kinh doanh, vấn đề
tư cách tham gia tố tụng và vấn đề quản trị hộ kinh doanh. Câu trả lời phụ
thuộc phần nào vào việc giải thích các qui định về việc thành
lập và đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh mà sẽ được nói tới trong
một chừng mực nhất định.
1.1.2.2. Hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh quy mô rất nhỏ
Xuất phát từ đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp việc làm ăn chủ yếu
nhỏ lẻ và dần hình thành các hộ kinh doanh (gia đình) và được pháp luật Việt
Nam ghi nhận (thừa nhận) là một mô hình trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

14


Từ quan điểm đó mà pháp luật và đa số người dân cho rằng hộ kinh

doanh là hình thức kinh doanh quy mô rất nhỏ, từ “nhỏ” ở đây là nhỏ về vốn,
nhỏ về sử dụng lao động, nhỏ về địa điểm kinh doanh,…Tuy nhiên thực tế
diễn ra không như vậy, hộ kinh doanh cá thể có vị trí hết sức quan trọng trong
cơ cấu nền kinh tế, đóng góp cho GDP cho Nhà nước với tỷ lệ lớn. Do vậy
vấn đề là Nhà nước ta cần phải có cái nhìn bao quát hơn, công nhận vị trí, tầm
quan trọng của mô hình này, từ đó có các chính sách phát triển phù hợp.
Khoản 1 điều 66 nghị định 78/2015/NĐ-CP định nghĩa về hộ kinh doanh
như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá
nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Đồng thời, điều 101 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp hộ gia
đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ
dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự”.
Theo đó, hộ kinh doanh không phải là một chủ thể pháp lý. Các thành
viên là cá nhân tham gia hộ kinh doanh đó mới là chủ thể pháp lý. Hộ kinh
doanh chỉ là cách gọi chung cho những nhóm cá nhân kinh doanh với trách
nhiệm vô hạn (“chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt
động kinh doanh”).
Vì tất cả những điều đó, cá nhân kinh doanh là một chủ thể khác với
công ty kinh doanh, dù trong khái niệm kinh tế thì hai chủ thể đều là doanh
15


nghiệp, nhưng trong khái niệm pháp lý, những cơ chế và yêu cầu pháp lý đối
với hai chủ thể này là khác hẳn. Có thể ví von hai loại hình kinh doanh này

giống như gạo nếp, gạo tẻ, tuy cùng là gạo nhưng không thể cho chung vào
nấu trong một nồi, vì mỗi loại có chức năng và lý do tồn tại riêng.
Hộ kinh doanh như một chủ thể doanh nghiệp không tồn tại trong Luật
doanh nghiệp hiện hành, nhưng hộ kinh doanh thực chất đã có tư cách pháp lý
trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật từ rất lâu rồi, nổi bật là trong Bộ
luật dân sự. Cũng cần tính đến thực tế hộ kinh doanh là khái niệm sinh ra từ
thực tiễn mang tính truyền thống và văn hóa của Việt Nam, bắt đầu từ “hộ gia
đình”.
1.1.2.3. Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản
nợ của hộ kinh doanh
Theo quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP thì hộ kinh doanh là do
một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ
18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ.
Mỗi hộ kinh doanh chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng
dưới 10 lao động và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối
với hoạt động kinh doanh.
Dựa trên quy định trên của pháp luật ta có thể thấy hộ kinh doanh
không phải là một thực thể độc lập, tách biệt với chủ sở hữu nên về nguyên
tắc chủ hộ kinh doanh sẽ có trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ
kinh doanh hay nói cách khác là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình kể cả các tài sản không được đưa vào kinh doanh. Do vậy, nếu phải
thực hiện nghĩa vụ nợ, cá nhân, nhóm cá nhân hoặc hộ gia đình sẽ phải dùng
toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ này và trong trường hợp này
nếu các chủ nợ yêu cầu cá nhân và các thành viên tham gia phải chịu trách
nhiệm là đúng với quy định của pháp luật.
16


1.2. Vai trò của hộ kinh doanh và sự khác biệt của hộ kinh doanh
với doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay

1.2.1. Vai trò của hộ kinh doanh trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam
Kinh tế hộ gia đình hoạt động sản xuất, kinh doanh là một lực lượng
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Sớm nhận thức rõ vai trò của hộ kinh
doanh trong quá trình đổi mới phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có
những chủ trương, chính sách tạo điều kiện phát triển khu vực hộ kinh doanh.
Nhờ đó, từ năm 1988 đến nay, kinh tế hộ gia đình đã có những chuyển
biến tích cực cả về quy mô, tốc độ và cơ cấu. Nhiều hộ kinh doanh đã đứng
vững trong nền kinh tế thị trường, có tác động tích cực đến công tác xóa đói
giảm nghèo. Tuy vậy, dưới góc độ phát triển bền vững, sự phát triển của hộ
kinh doanh vẫn còn nhiều hạn chế. Qua khảo sát thực trạng hoạt động của hộ
kinh doanh thời gian gần đây, bài viết đề xuất một số giải pháp thúc đẩy kinh
tế hộ phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững.
Thuật ngữ “hộ kinh doanh (HKD)” chính thức được sử dụng tại các văn
bản quy phạm pháp luật Việt Nam từ năm 2006. Trước đây, tùy theo điều
kiện kinh tế - xã hội (KT-XH), HKD tại Việt Nam được gọi dưới các tên gọi
khác nhau như “tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa”; “hộ cá thể”, “hộ tiểu công
nghiệp”; “HKD cá thể”…
Tên gọi “tổ chức tiểu sản xuất hàng hoá” được sử dụng trong giai đoạn
trước “đổi mới” (năm 1986) như: Thợ thủ công, nông dân cá thể, người làm
dịch vụ nhỏ được phép kinh doanh sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp Giấy môn bài. Tuy nhiên, do thực hiện chủ trương coi thành phần
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nên khu vực kinh tế tiểu sản xuất hàng
hóa thời kỳ này chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn.
17


Từ sau đổi mới (năm 1986), cùng với chủ trương, chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, HKD đã chính thức được thừa nhận là đơn vị
kinh tế tự chủ, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, từ đó khu vực có sự

phát triển mạnh mẽ.
Trước khi Luật Doanh nghiệp (DN) tư nhân và Luật Công ty ra đời
(năm 1990), HKD tồn tại dưới hình thức hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp và lực
lượng này chính thức được công nhận bằng Nghị định số 27-HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Trong giai đoạn này, do điều kiện lịch sử
và bối cảnh kinh tế - xã hội, hạn chế bởi danh mục cấm kinh doanh hoặc kinh
doanh có điều kiện, nên sự phát triển của hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp còn
chậm.
Giai đoạn từ khi ban hành Luật DN tư nhân và Luật Công ty được ban
hành cho đến trước khi ban hành Luật DN năm 1999 (1990-1999) ra đời,
HKD tồn tại dưới hình thức người kinh doanh, gồm: Các cá nhân, nhóm
người kinh doanh dưới vốn pháp định và hoạt động theo quy định tại Nghị
định số 66/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Giai đoạn từ 1999- 2005 (Luật DN năm 1999 - Luật DN năm 2005),
HKD tồn tại dưới hình thức HKD cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm
chủ, được quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có quy định không cho phép
HKD được thường xuyên thuê lao động không phù hợp với thực tế hoạt động.
Vì vậy, để tạo điều kiện cho HKD cá thể phát triển, ngày 2/4/2004 Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 109/2004/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh; trong đó,
bãi bỏ quy định HKD không được thường xuyên thuê lao động.
Giai đoạn từ khi ban hành Luật DN năm 2005 đến nay, HKD cá thể
được đổi tên thành HKD, bổ sung đối tượng một nhóm người làm chủ HKD
18


và sửa đổi quy định việc yêu cầu các HKD sử dụng từ 10 lao động phải
chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức DN.
Bên cạnh việc đổi tên HKD theo từng thời kỳ, nhiều cơ chế, chính sách
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc hình thành và phát triển của HKD đã

được ban hành. Nhờ đó, thị trường đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của
HKD. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1999 cả nước có hơn 1,5 triệu HKD sử
dụng hơn 3 triệu lao động, đến năm 2017, số HKD đã tăng lên trên 5,14 triệu,
sử dụng khoảng 8,58 triệu lao động. Năm 2015, tổng doanh thu của khu vực
HKD là trên 2.249 nghìn tỷ đồng.
Thực trạng hoạt động của hộ kinh doanh:
Theo Tổng cục Thống kê (năm 2018), tính đến năm 2017, cả nước có
trên 5,14 triệu HKD. Xét theo quá trình thì tổng số lượng HKD liên tục tăng
qua các năm (Hình 1).
Các HKD phân bố tương đối đồng đều trên cả nước. Trong đó, Đồng
bằng sông Hồng, Trung bộ, Đồng Bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ là
những vùng chiếm tỷ trọng cao nhất, lần lượt là 25,86%; 23,03%; 19,34% và
17,52% (2017). Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên chiếm tỷ trọng
thấp nhất, lần lượt là 9,47% 4,78% tổng số HKD. Trên cơ sở phân bổ dân cư,
tỷ trọng HKD giữa các vùng không có sự biến động đáng kể trong nhiều năm
qua.
Theo ngành nghề kinh doanh, tỷ trọng HKD trong ngành Thương mại dịch vụ chiếm khoảng 80%, 20% còn lại là trong ngành Công nghiệp - xây
dựng. Thống kê các năm cho thấy, tỷ trọng các hộ thương mại dịch vụ ngày
càng tăng: năm 2012 là 78,9%, năm 2014 là 80% và năm 2017 là 81,9%, cùng
với đó là tỷ trọng giảm đi trong ngành Công nghiệp - xây dựng. Tương ứng
với đó, năm 2017 số lao động tại các HKD trong lĩnh vực công nghiệp chiếm
trên 22%, gần 88% còn lại đến từ khu vực hộ trong lĩnh vực dịch vụ.
19


Nguyên nhân của tình trạng này có thể do yếu tố quy mô nên các hộ có
ngành nghề công nghiệp - xây dựng đã dần chuyển sang các hình thức DN
chính thống.
Thời gian qua, HKD đã có những đóng góp tích cực trong nền kinh tế,
nổi bật như:

Thứ nhất, khu vực HKD có đóng góp lớn trong tạo việc làm và giải
quyết các vấn đề xã hội. Theo Tổng cục Thống kê, số lao động làm việc trong
khu vực HKD tăng nhanh theo thời gian, từ trên 7,4 triệu người năm 2010
tăng lên gần 8,6 triệu người năm 2017.
Số lượng lao động làm việc trong khu vực HKD giai đoạn 2010-2017
chiếm khoảng từ 59%-75% so với số lao động làm việc trong khu vực DN.
Nếu chỉ so với số lao động làm việc trong các DN thuộc khu vực tư nhân thì
số lao động làm việc trong khu vực HKD trong 2 năm gần đây là tương
đương. Trong giai đoạn trước đó, số lao động làm việc trong khu vực HKD
cao hơn tương đối so với số lao động làm việc trong các DN ngoài nhà nước,
khoảng từ 3%-24%.
Số lao động trung bình một HKD dao động từ 1,677-1,8 người/HKD
trong giai đoạn 2010-2017, trong khi con số này ở khu vực DN là khoảng 2635,2 người/Doanh nghiệp. Ý nghĩa tạo việc làm và thu nhập cho người dân
của HKD là khá quan trọng. Tổng cục Thống kê (năm 2018) phân tích, gần
8,6 triệu lao động làm việc tại các HKD có ý nghĩa quan trọng trong xã hội
hiện nay.
Không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo trực tiếp
cho chính chủ sở hữu, người quản lý khu vực này còn gián tiếp cải thiện cuộc
sống cho những người có thu nhập thấp, người nghèo ở thành thị và nông
thôn.
20


×