Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

“ĐặĐặc điểm tư tưởng về bản thể luận của Hêraclit và giá trị đối với phát triển chủ nghĩa duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.26 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU

Với tư cách là một thanh tố căn bản, là “thể nền” của bất kỳ hệ thống
triết học nào, bản thể luận và đi liền với nó là cách tiếp cận bản thể luận đã
cho thấy lôgic vận động nội tại của triết học nói chung, đặc biệt và cụ thể hơn
là của triết học Tây Âu. Chỉ khi đề cập đến nội dung bản thể luận của tư
tưởng triết học Tây Âu, chúng ta mới có thể nắm bắt được tính đặc thù, cũng
như sự tang trưởng tri thức ở nó, vì bản thể luận luôn đóng vai trò thể nền và
là khâu liên kết, hợp nhất mỗi một hệ thống triết học thanh một thể thống
nhất, có quan hệ với tư tưởng triết học quá khứ, hiện tại và mở ra các xu
hướng vận động tiếp theo của tư tưởng ấy vào tương lai. Như vậy, vấn đề đầu
tiên nghiên cứu lịch sử triết học phương Tây chính là việc làm rõ nội hàm
“bản thể luận”
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại – Hêraclít (520 – 460 TCN) khi coi Vũ trụ
là một chỉnh thể thống nhất, đã khẳng định “Lửa là bản nguyên vật chất đầu
tiên và duy nhất của Vũ trụ”. Sự chuyển hoá của Lửa là một quá trình “không
ngừng nghỉ” và quá trình đó dẫn đến sự sinh thành của vạn vật, vạn vật biến
đổi và chuyển hoá lại trở về với Lửa. Thế giới thống nhất ở trong “ngọn Lửa
sống bất diệt”.
Trong quan niệm của Hêraclít về Lửa vẫn còn mang tính vật hoạt luận
và phiếm thần luận, song đó là quan niệm cho thấy tính thống nhất của thế
giới, quan niệm luôn đòi hỏi giải thích các hiện tượng tự nhiên dựa vào
chính tự nhiên và là “sự trình bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng”.
Trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, nhà triết học Hy Lạp cổ đại –
Hêraclít được thừa nhận là người sáng lập phép biện chứng với học thuyết hết
3


sức độc đáo về Vũ trụ – một chỉnh thể luôn vận động như những “dòng chảy”
vĩnh hằng, vừa có sự hài hoà, vừa có sự đấu tranh của các mặt đối lập giống


như “cây cung và chiếc đàn sáu dây”, luôn biến đổi và phát triển theo quy luật
vận động của Logos bất diệt. Tìm hiểu về những đặc điểm về bản nguyên ban
đầu đó trong triết học Hi lạp cổ đại nói chung, triết học của Hêraclit nói riêng
giúp chúng ta có cơ sở để làm rõ được những thành tựu và giá trị tư tưởng mà
triết học Hêraclit đóng góp cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật
Để làm sáng tỏ “Đặc điểm tư tưởng về bản thể luận của Hêraclit và
giá trị đối với phát triển chủ nghĩa duy vật” ở bài tiểu luận này, tôi khái quát
các quan điểm triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại khi bàn về bản nguyên của vũ
trụ; luận giải luận điểm của Hêraclit và từ đó làm rõ giá trị của nó đối với sự
phát triển triết học từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

4


NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ VỀ BẢN THỂ LUẬN TRIẾT HỌC VÀ MỘT SỐ QUAN
ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC HI LẠP VÀ LA MÃ CỔ ĐẠI VỀ
BẢN THỂ LUẬN
1. Vấn đề về bản thể luận trong triết học
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ “on” (cái thực tồn) và “logos” (lời lẽ, học thuyết, quan niệm). Có
thể nói bản thể luận chính là học thuyết về tồn tại, là học thuyết, quan niệm về
thực tồn chung, hoàn toàn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của nó. Nhưng
mãi đến thế kỷ XVII, được R. Gôcleniuyt áp dụng vào năm 1613 thuật ngữ
này mới chính thức xuất hiện và đưa ra những cách hiểu đặc thù về bản thể
luận. Mỗi thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử nghiên cứu về bản thế luận lại đưa ra
những cách lý giải và quan niệm khác nhau. Nhưng tóm lại, bản thể luận hiểu
một cách chung nhất là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc, về tồn tại
hay bản thể luận là quan niệm về thế giới. Nghiên cứu về bản thể luận là tìm
hiểu sự nghiên cứu bản chất của thế giới là gì? Thế giới được hình thành từ

đâu? Và như thế nào?
Bản thể luận chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong triết học, nghiên
cứu về bản thể luận là bàn về sự tồn tại, bàn về khởi nguyên của thế giới, do
đó bản thể luận là một vấn đề cơ bản của triết học, theo Ăng – ghen, “vấn
đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Nghiên cứu vấn đề bản thể luận, làm cơ sở,
căn cứ để chúng ta giải quyết những vấn đề cơ bản khác nhau của hiện
thực. Những quan niệm khác nhau về sự tồn tại của thế giới khác nhau sẽ
có những quan niệm khác nhau về chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc

5


gia, của mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau có ảnh hưởng to lớn tới đời sống
hiện đại của nhân loại.
Bản thể luận nói một cách nôm na đơn giản là quan niệm về thế giới
như thế nào? Trong triết học tồn tại hai trường phái cơ bản khi bàn về bản thể
luận: khuynh hướng duy vật và khuynh hướng duy tâm. Trong lịch sử triết học
luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong triết học, góp phần làm
động lực cho tư duy triết học phát triển tới ngày nay.
2. Quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại về bản
thể luận
Tìm kiếm bản nguyên đầu tiên của toà nhà Vũ trụ, luận giải bản nguyên
đó về phương diện bản thể luận và gắn nó với một hay một vài dạng tồn tại cụ
thể của vật chất - tồn tại dưới dạng trực quan cảm tính mà các giác quan của
con người có thể nhận biết được, đó là một trong những đặc trưng chủ yếu
làm nên tính độc đáo của triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại.
Trước Hêraclít, nhà triết học nổi tiếng của trường phái Milê - Talét (624
- 547 TCN), người có công đầu trong việc làm cho hình học Ai Cập và thiên

văn học Babilon trở thành hình học và thiên văn học với tư cách những bộ
môn khoa học, người đã giải thích đúng đắn hiện tượng nhật thực và xác định
độ dài của một năm là 365 ngày, người đã đưa ra định lý Talét trong toán học
mà cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị - đã cho rằng, trái đất là một cái đĩa
khổng lồ trôi nổi trên đại dương bao la và nước chính là yếu tố đầu tiên, là
bản nguyên của mọi vật, tất cả đều sinh ra từ nước để rồi lại trở về với yếu tố
cuối cùng là nước, nước vận động vĩnh hằng và giữ vai trò hết sức quan trọng
trong tự nhiên cũng như trong đời sống con người.

6


Sau Talét, nhà triết học cũng thuộc trường phái Milê - Anaximanđrơ
(610-546 TCN), người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu nguồn gốc loài người,
coi con người là kết quả tiến hoá của loài cá, người sáng chế ra đồng hồ mặt
trời để đo giờ trong một ngày, người coi trái đất là một khối hình trụ, là trung
tâm của Vũ trụ, vận động quay tròn mà sinh ra nóng, lạnh - đã cho rằng , cơ
sở đầu tiên, độc nhất của mọi dạng vật chất là Apâyrôn và coi Apâyrôn là
dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn, tồn tại vĩnh hằng, không giống bất kỳ
vật thể nào, không giống nước, cũng không giống không khí, mà là cái nằm
giữa nước và không khí, là thực thể vô cùng và bao trùm toàn Vũ trụ. Học trò
của Anaximanđrơ là Anaximen (585 - 525 TCN), người coi mặt trời, mặt
trăng và tất cả các tinh tú khác đều từ trái đất mà ra, do trái đất quay quanh
mà bắn ra xa, thì cho rằng, khởi nguyên vật chất đầu tiên mà ông gọi là “vật
chất mẹ” là không khí – cái giữ vai trò tối quan trọng trong đời sống muôn
loài và trong tự nhiên, cái mà cùng với hơi thở – nguồn sống, sinh khí của con
người – bao trùm cả Vũ trụ và con người biết được nhờ quá trình làm cho nó
trở nên đậm đặc hơn hay loãng hơn.
Sau Hêraclit, Pitago - “người cha của triết học thần thánh”, người
coi Con số là bản chất của mọi cái hiện tồn, là cái tạo nên tính đa dạng của thế

giới, thiết lập nên cả “trật tự” Vũ trụ lẫn “trật tự” xã hội. Là Dênông - nhà triết
học thuộc trường phái Êlê, nổi tiếng với tài hùng biện, với học thuyết về Tồn
tại duy nhất, bất biến, bất động được luận chứng bằng các Apôri - những
nghịch lý gây ra không ít cuộc tranh luận kéo dài mà cho đến nay, không mấy
ai đã có thể bác bỏ được một cách dễ dàng. Là Empêđôclơ - người sáng lập
môn tu từ học, nhà lý luận về nghệ thuật hùng biện; nhà triết học nổi tiếng với
luận điểm coi sự vận động diễn ra dưới tác động của hai cực đối lập nhau
- Tình yêu và Căm thù của Đất, Nước, Lửa, Không khí - những khởi nguyên
vật chất đầu tiên - là nguyên nhân hình thành Vũ trụ. Là Đêmôcrít - người xây
7


dựng nên thuyết Nguyên tử cổ điển từ quan niệm của Lơxíp, nổi tiếng với tư
cách “bộ óc bách khoa đầu tiên trong những người Hy Lạp”, người điều khiển
tư duy trên mọi lĩnh vực, người đã tạo ra “đường lối Đêmôcrít” trong lịch sử
triết học nhân loại. Là Prôtagorơ - nhà triết học thuộc trường phái Xôphistơ
(nguỵ biện), nổi tiếng với luận điểm “vật chất trôi chảy” và “con người là
thước đo của vạn vật”. Là Xôcrát - người sáng lập chủ nghĩa duy tâm khách
quan, nổi tiếng với luận điểm “Con người, hãy nhận thức chính mình”, “Hãy
nói ra để tôi biết về anh”, “Tôi biết là tôi không biết gì”, “Người hạnh phúc là
người có lối suy nghĩ trong sáng và trí tuệ sắc sảo”. Là Platôn - “bậc thầy dẫn
dắt nhân loại”, nổi tiếng với học thuyết về Ý niệm, về “nhà nước lý tưởng”, về
sự hổi tưởng của linh hồn bất tử; người đã tạo ra “đường lối Platôn” trong lịch
sử triết học nhân loại. Là Arixtốt - “Alếchxanđrơ Maxêđoan của triết học Hy
Lạp”, “người khổng lồ về tư tưởng”, “khối óc toàn diện nhất” trong số các
nhà triết học cổ đại Hy Lạp, người sáng lập Lôgíc học hình thức. Là Êpiquya “nhà khai sáng Hy Lạp vĩ đại bậc nhất”, “nhà vô thần chiến đấu”, “nhà triết
học tự ý thức”; người đã đưa ra nguyên tử luận của Đêmôcrít đến độ “hoàn
chỉnh”, đến “những kết luận cuối cùng với tất cả những mâu thuẫn của nó”,
người coi mục đích của triết học là mưu cầu hạnh phúc cho con người.
II. ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG

TRIẾT HỌC HEERRACLIT VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
CHỦ NGHĨA DUY VẬT
1. Đặc điểm tư tưởng về bản thể luận trong triết học của Hêraclit
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng duy vật của các nhà triết học thuộc trường phái
Milê, khi lý giải vấn đề cơ bản của triết học về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy,
vật chất và ý thức, Hêraclít đã khẳng định một cách dứt khoát rằng, thế giới vật
chất là do chính vật chất sinh ra, giới tự nhiên bắt nguồn từ bản thân tự nhiên. Vũ
trụ này không phải là sản phẩm của Thượng đế, thần thánh; thế giới vật chất
8


không phải do con người tạo ra. Vũ trụ là một chỉnh thể vật chất vận động. Ngay
cả thế giới tinh thần mà ông đồng nhất với đời sống linh hồn, theo ông, cũng được
sinh ra từ vật chất. Và, nguyên thể vật chất đầu tiên, bản nguyên vật chất đầu tiên
và duy nhất của mọi dạng vật chất là Lửa. Ông viết “Thế giới là một chỉnh thể bao
gồm vạn vật. Thế giới là đồng nhất với hết thảy mọi sự vật tồn tại trong nó. Thế
giới ấy không do bất cứ vị thần nào sáng tạo ra, cũng không do bất cứ người nào
sáng tạo ra. Thế giới là một ngọn Lửa sống bất diệt trong quá khứ, hiện tại cũng
như trong tương lai. Ngọn lửa ấy cháy sáng trong một khoảnh khắc nhất định và
cũng tàn lụi đi trong một khoảnh khắc nhất định theo những quy luật của nó”.
Khi tìm kiếm nguyên thể vật chất đầu tiên của Vũ trụ và khẳng định
nguyên thể đó là Lửa, Hêraclít, cũng như các nhà triết học duy vật tiền bối
thuộc trường phái Milê, đã xuất phát từ quan niệm cho rằng, mọi quá trình
diễn ra trong Vũ trụ này đều là những quá trình tự nó; chúng tự vận động mà
không cần đến bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài của một lực lượng xa lạ
nào đó, kể cả Thượng đế. Vũ trụ tự vận động với năng lực nội tại, vốn có và
năng lực đó chính là “sự sống”. Tính năng động hay “sức sống” của các vật
thể trong Vũ trụ này thể hiện ra ở sự vận động liên tục và biến đổi thường
xuyên của chúng. Chúng vận động và biến đổi theo quy luật Vũ trụ – Logos.
Logos là cái vốn có, phổ biến, cái quy định trật tự thay thế lẫn nhau một cách

hài hoà của các vật thể trong Vũ trụ. Vũ trụ là một chỉnh thể thống nhất của
các vật thể, nó “vừa là cái duy nhất, vừa là cái Đa, cái Bội đa” và do vậy, Vũ
trụ này không thể thiếu một khởi nguyên ban đầu thống nhất và chung cho
mọi vật thể, một khởi nguyên đóng vai trò là tác nhân của mọi sự biến đổi và
chuyển hoá. Và, khởi nguyên đó chính là Lửa.
Lý giải vì sao Lửa là khởi nguyên vật chất đầu tiên của Vũ trụ chứ
không phải là một nguyên thể vật chất, một yếu tố vật chất nào khác, Hêraclít
đã dựa vào trực quan cảm tính mà cho rằng, sở dĩ Lửa có tư cách đó là bởi
“hết thảy mọi sự vật đều chuyển hóa thành Lửa” và “Lửa cũng chuyển hoá
9


thành hết thảy sự vật”, giống như “hàng hoá chuyển thành vàng, vàng lại
chuyển thành hành hoá”. Không chỉ thế, Lửa còn “điều khiển tất cả”, “Lửa
phán xét tất cả” và đây cũng là đặc điểm nổi trội trong tư tưởng về bản thể
luận của Hêraclit
Còn một lý do nữa đã khiến cho Hêraclít kiên quyết khẳng định Lửa là
bản nguyên vật chất đầu tiên của Vũ trụ. Đó là: vào thời đại của Hêraclít thì
trong số bốn yếu tố, bốn bản thể vật chất phổ biến - Đất, Nước, Lửa, Không
khí mà người Hy Lạp biết tới, Lửa được coi là yếu tố tích cực nhất, năng động
nhất và cũng tinh tế nhất. Giống như dòng sông đang chảy đã đem lại cho
Hêraclít một quan niệm rõ ràng về “dòng chảy”, về sự “trôi đi, chảy đi” – sự
vận động vĩnh hằng của vật chất, Lửa, sự bùng cháy, sự phát sáng của Lửa và
hiện tượng ánh sáng do Lửa phát ra, tia nắng soi rọi của Mặt trời “toả lan ra
như biển” đã đem lại cho ông, đã khiến ông liên tưởng đến một hình ảnh sống
động về cơ sở nền tảng, về tác nhân mà con người có thể cảm thấy được của
mọi sự biến đổi và chuyển hoá trong Vũ trụ. Lửa, theo Hêraclít không chỉ là
tác nhân, nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của Đất, Nước, Không khí, mà
còn là tác nhân, nguyên nhân dẫn đến, sự tiêu tan, biến mất, “sự chết” của
những bản thể vật chất này. Ông viết: “Lửa sinh ra cái chết của đất. Khí sinh

ra trong cái chết của Lửa. Nước sinh ra trong cái chết của khí. Đất sinh ra
trong cái chết của nước. Lửa chết thì khí sinh. Khí chết thì nước sinh. Đất chết
thì nước sinh. Nước chết thì khí sinh. Khí chết thì Lửa sinh. Ngược lại cũng
như vậy”. Lửa không chỉ là tác nhân, nguyên nhân khiến cho “cái lạnh nóng
lên, cái nóng lạnh đi, cái ướt khô đi, cái khô ướt lại, …”, mà còn là tác nhân,
nguyên nhân gây nên sự biến đổi, chuyển hoá của vạn vật trong vũ trụ.
Không chỉ có vạn vật trong Vũ trụ có sự biến đổi và chuyển hoá lẫn
nhau, mà cả Lửa, theo Hêraclít, cũng luôn cũng tự biến đổi và chuyển hoá

10


theo cái Logos vốn có của nó. Ông viết: “Sự chuyển hoá của Lửa là: đầu tiên
thành biển, một nửa biến thành đất, nửa còn lại thành gió xoáy… Đất lại hoá
thành biển và tuân theo Logos mà trước kia, biển hoá thành đất đã tuân theo”.
Sự tự biến đổi, chuyển hoá của Lửa được thể hiện ra ở độ lửa và nhờ độ lửa
này, nhờ sự tăng lên hay giảm đi của độ lửa mà vật chất chuyển hoá từ thể rắn
(Đất) sang thể lỏng (Nước), từ thể lỏng sang thể hơi (Không khí) và ngược
lại. Song, chu trình chuyển hóa này của vật chất không dừng lại ở đó, mà nó
còn tiếp tục chuyển hoá để trở về với cái bản nguyên đầu tiên của nó là Lửa.
Các nhà triết học sau Hêraclít, khi luận giải quan niệm của ông về quá
trình biến đổi và chuyển hoá của vật chất diễn ra nhờ sự tự biến đổi và chuyển
hoá của Lửa, nhờ sự tăng giảm của độ lửa, đã khái quát quá trình đó thành
một chu trình hai cấp độ:
- Cấp độ thứ nhất được gọi là con đường đi lên (có nhà triết học gọi là
con đường thượng) diễn ra theo trật tự: Lửa -> vật chất ở thể rắn (Đất) -> vật
chất ở thể lỏng (Nước) -> vật chất ở thể hơi (Không khí) -> Lửa.
- Cấp độ thứ hai được gọi là con đường đi xuống (cũng có nhà triết học
gọi là con đường hạ) diễn ra theo trật tự : Lửa -> vật chất ở thể hơi (Không
khí) -> vật chất ở thể lỏng (Nước) -> vật chất ở thể rắn (Đất) -> Lửa.

Chu trình hai cấp độ diễn tả quá trình biến đổi và chuyển hoá này của
thế giới vật chất còn được các nhà triết học sau Hêraclít coi là một chu trình
khép kín, thống nhất ở “một ngọn Lửa sống bất diệt”. Bởi lẽ, theo họ, chính
Hêraclít cũng đã khẳng định như vậy khi ông cho rằng, “con đường lên dốc và
đường xuống dốc là cùng một con đường”; rằng, “tự nhiên chết hai lần ở cùng
một trạng thái. Tự nhiên đang chết luôn diễn ra sự xuất hiện và tiêu vong, tiến
lại gần và đi ra xa, tích tụ và phân tán”; rằng, ngay cả trong mỗi con người thì
“sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già trước sau cũng đều là một. Cái sau biến

11


hoá thành cái trước. Cái trước biến hoá lại trở thành cái sau”,… và tất cả đều
là do sự bùng cháy hay tàn lụi của ngọn lửa theo Logos vốn có của nó.
Lý giải vì sao Lửa là bản nguyên vật chất duy nhất của vạn vật trong
Vũ trụ, Hêraclít cho rằng, Vũ trụ này là một, là duy nhất đối với mọi cái hiện
tồn, là chỉnh thể thống nhất, nên vạn vật trong nó phải có chung một nguồn
phát sinh, một cội nguồn xuất phát và nguồn gốc, cội nguồn đó chính là Lửa.
Ngay cả thế giới tinh thần mà ông đồng nhất với đời sống linh hồn, theo ông,
cũng có nguồn gốc xuất phát từ vật chất, được sinh ra từ lửa. Khẳng định
nguồn gốc vật chất của linh hồn, Hêraclít viết: “Đối với linh hồn thì chết có
nghĩa là biến thành nước. Đối với nước thì chết tức là biến thành đất… Nước
từ đất mà ra, linh hồn cũng từ nước mà ra”. “Linh hồn… là cái thoát ra từ nơi
ẩm ướt”. Linh hồn được sinh ra từ nước. Nước lại được sinh ra từ đất nhờ “sự
chuyển hoá của lửa”. Do vậy, linh hồn cũng là cái được sinh ra từ Lửa, do sự
chuyển hoá của Lửa. Song, “linh hồn là một dạng tinh tuý của Lửa, là sự bùng
cháy của Lửa, là tia chớp” và do vậy, con người không thể dễ dàng tìm thấy
“biên giới của linh hồn”, dẫu có đi khắp mọi nẻo đường “cũng vẫn không thể
tìm thấy được”, bởi gốc rễ của linh hồn ở nơi tinh tuý nhất của Lửa và bởi bản
thân linh hồn cũng luôn biến đổi theo quy luật - Logos vốn có của nó: “Logos

là cái mà linh hồn vốn có, tự nó phát triển”.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Hêraclít thì lửa là bản nguyên
vật chất đầu tiên và duy nhất của vạn vật trong Vũ trụ. lửa là cơ sở nền tảng
của thực tại vật chất, bao trùm toàn bộ thực tại vật chất này, “toả lan ra như
biển” khắp Vũ trụ này và quy định, quyết định (“điều khiển”, “phán xét” theo
cách nói của Hêraclít) sự vận động, biến đổi, chuyển hoá của thực tại vật chất
ấy, của mọi vật thể trong Vũ trụ theo cái Logos - quy luật vốn có của nó. lửa
là cái mà từ đó, vạn vật được sinh ra, kể cả linh hồn với tư cách thế giới tinh
thần, để rồi lại biến đổi, chuyển hoá thành lửa, trở về với chính lửa như là hệ
12


quả tất yếu của Logos Vũ trụ. “Sự chuyển hoá của Lửa”, sự tự thay đổi theo
con đường lên - xuống của độ lửa là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời và diệt
vong của vạn vật trong Vũ trụ và của cả Vũ trụ với tư cách một chỉnh thể.
Do vậy, mọi sự “phán xét” về Vũ trụ này và vạn vật sống trong đó đều phải
được “thực hiện thông qua Lửa”, thông qua độ lửa với tư cách sản phẩm trực
tiếp của sự chuyển hoá của Lửa. Vạn vật trong Vũ trụ này đều có thể chuyển
hoá thành Lửa và Lửa cũng có thể chuyển hoá thành bất cứ vật thể nào, kể cả
linh hồn, trong Vũ trụ. Vũ trụ là một chỉnh thể thống nhất và tính thống nhất
của Vũ trụ là ở “ngọn lửa sống bất diệt”, vĩnh hằng nhưng cũng luôn bùng
cháy và lụi tàn trong những khoảnh khắc nhất định, ở những vật thể nào đó
theo Logos vốn có của nó.
Với tư cách là cái bản nguyên vật chất đầu tiên và duy nhất của Vũ trụ,
Lửa, trong quan niệm của Hêraclít không phải là một hiện tượng tự nhiên tự
phát, xa lạ với Logos Vũ trụ và không tuân thủ, phục tùng một giới hạn nào;
cũng không phải là một khởi nguyên phi lý, không có lý tính, không phải là
một lực lượng, một sức mạnh không thể điều khiển được bởi một lực lượng,
một sức mạnh nào đó, lại cũng không phải là “một sự sáng tạo” nhưng không
biết mình sáng tạo ra cái gì. Với Hêraclít, Lửa là khởi nguyên tự nhiên tích

cực, năng động và tinh tế nhất. Lửa vận động, biến đổi và chuyển hoá theo
Logos Vũ trụ và tuân thủ cái Logos của chính nó - độ lửa. Lửa “tạo ra, quản
lý và quy định mọi sự biến hoá”. Lửa “điều khiển tất cả”, “phán xét tất cả”,
“phán xét thế giới và vạn vật sống trong đó”, song không phải vì thế mà có
thể “tự do vượt quá độ”. Lửa có sức mạnh vạn năng nhưng vẫn phải tuân thủ
“sự sáng suốt duy nhất” – trí tuệ, bởi “đó là cái có thể chế ngự vạn vật thông
qua vạn vật”. Lửa có trong vạn vật, song ở một chừng mực nào đó, vẫn là cái
xa lạ với vạn vật.

13


Lửa chuyển hoá theo Logos vốn có của nó dẫn đến sự ra đời của vạn
vật trong Vũ trụ và đến lượt mình, vạn vật ra đời vận động, biến đổi, chuyển
hoá theo độ lửa để rồi lại trở về với cái bản nguyên đầu tiên của mình – Lửa:
“Hết thảy mọi sự vật đều chuyển hoá thành Lửa. Lửa cũng chuyển hoá thành
hết thảy sự vật”. Lửa là bản nguyên vật chất sinh thành ra vạn vật trong Vũ
trụ, song Lửa cũng là cái thiêu đốt vạn vật ấy, thiêu đốt cả Vũ trụ này, đưa cả
Vũ trụ này về cõi vĩnh hằng: “Nếu như không có Mặt trời, cho dù có các tinh
tú khác cũng chỉ là đêm tối”. Lửa là bản nguyên vật chất “có lý tính” và do
vậy, là cái duy nhất quy định tính có trật tự, tính hài hoà của Vũ trụ, mang lại
cho vạn vật trong Vũ trụ và cả Vũ trụ này sự tồn tại hợp lý, tồn tại như một
chỉnh thể thống nhất, “đồng nhất đối với hết thảy mọi sự vật”. Lửa là “kẻ sáng
tạo” duy nhất ra Vũ trụ này, là cái đem lại sự vận động, biến đổi và chuyển
hoá “không ngừng nghỉ” của Vũ trụ này, đem lại cho Vũ trụ này sức sống
trường tồn, năng lực sống vĩnh hằng.
Lửa - đó không phải là thứ Lửa thông thường, mà là “sự cháy” với tư
cách khởi nguyên sáng tạo sự sống. Lửa là cái “sống vĩnh hằng”, là cái không
chỉ đem lại sự sống cho vạn vật, cho Vũ trụ, mà còn tượng trưng cho mọi cái
sống động, năng động và tích cực. Song, Lửa cũng là “sự chết”, là cái chấm

dứt sự tồn tại của vạn vật, đem lại sự nguội lạnh cho những “linh hồn… bị ẩm
ướt”. Lửa “bùng cháy” thì sự sống xuất hiện, sự vật mới ra đời. Còn khi Lửa
“lụi tàn” thì sự sống chấm dứt, sự vật cũ không còn. “Bùng cháy” và “lụi tàn”
là hai quá trình diễn ra đồng thời, theo chu kỳ và được chế định, được điều
tiết bởi độ lửa. Nói cách khác, song song với quá trình chuyển hoá của Lửa
thành vạn vật thì cũng diễn ra quá trình ngược lại - sự chuyển hoá của vạn vật
thành Lửa. Lửa với tư cách khởi nguyên ban đầu, duy nhất và sự đa dạng của
các vật thể đơn nhất tạo thành một sự thống nhất biện chứng - thống nhất

14


trong mâu thuẫn và trong sự hài hoà của chúng, thống nhất trong sự chuyển
hoá lẫn nhau của chúng.
Không chỉ thế, với Hêraclít, Lửa còn là thực tại vật lý, là cơ sở tự
nhiên của mọi cái đang diễn ra,đồng thời là hình ảnh, là biểu tượng của mọi
cái đang diễn ra đó và với tư cách này, Lửa tự nó là Vũ trụ.
Tính độc đáo, khác thường trong quan niệm của Hêraclít về Lửa không
chỉ dừng lại ở đó. Với tư cách người theo chủ nghĩa vật hoạt, Hêraclít còn coi
Lửa là “sự sống vĩnh hằng”, là sức sống bất diệt, là cái đem lại “sinh khí”
không chỉ cho con người, cho thế giới hữu sinh, mà còn cho cả những vật thể
vô tri, vô giác, cho thế giới vô sinh. Còn với tư cách một nhà phiếm thần luận,
Hêraclít đã coi Lửa không chỉ là cái tạo nên “thân xác” của vạn vật, mà còn là
cái tạo nên “linh hồn” cho vạn vật ấy. Với quan niệm này, ông đã gán cho Lửa
những hoạt động tâm lý giống như hoạt động tâm lý ở con người. Và, khác
với nhiều nhà triết học tiền bối, Hêraclít còn đưa ra một quan niệm hết sức
độc đáo về cái khởi nguyên vật chất đầu tiên và duy nhất này - quan niệm
coi Lửa là một quá trình - quá trình liên tục “bùng cháy” và “lụi tàn” theo cái
Logos vốn có của nó.
Nói về quan niệm coi Lửa là một quá trình của Hêraclít, Hêgen đã

khẳng định rằng, với Hêraclít thì “Lửa là thời gian vật lý; nó là sự không yên
tĩnh tuyệt đối”. Cũng nói về quan niệm này của Hêraclít, trong tác phẩm Triết
học của Hêraclít khó hiểu ở Êphedơ, Ph.Látxan cho rằng, Lửa ở Hêraclít là
“một thứ lửa thuần tuý và tuyệt đối phi vật chất”. Và, với cách hiểu này,
Ph.Látxan khẳng định: “Triết học của Hêraclít = Triết học duy tâm”.
Không thể nói Lửa trong quan niệm của Hêraclít là thứ Lửa “thuần tuý
và tuyệt đối phi vật chất”. Lửa ở Hêraclít là bản nguyên vật chất đầu tiên và
duy nhất của Vũ trụ. Lửa chuyển hoá theo cái Logos vốn có của nó là nguyên
nhân dẫn đến sự sinh thành của vạn vật trong Vũ trụ. Nếu có thể nói về hạn
15


chế trong quan niệm này của Hêraclít thì đó là, khi coi sự sinh thành của vạn
vật trong Vũ trụ nhờ sự chuyển hoá của Lửa, Hêraclít đã không nhận thấy có
sự phát triển từ thấp đến cao trong cái “dòng chảy” và biến đổi phổ biến, liên
tục của vạn vật trong Vũ trụ. Ở ông cũng không có quan niệm rõ ràng về sự
biến đổi chất lượng, mặc dù ông có nói tới sự chuyển hoá lẫn nhau của các
mặt đối lập và nói tới sự chuyển hoá từ một trạng thái chất lượng này sang
trạng thái đối lập của nó.
Mặc dù, Hêraclít coi sự biến đổi và chuyển hoá trong Vũ trụ diễn ra
không chỉ từ cái giản đơn và thấp (Đất, Nước, Không khí) đến cái phức tạp và
cao hơn (Lửa), mà còn ngược lại . Song, về thực chất, chu trình hai cấp độ
diễn tả quá trình biến đổi và chuyển hoá của vạn vật trong Vũ trụ mà Hêraclít
đưa ra không cho thấy một sự phát triển của thế giới vật chất nhờ sự chuyển
hoá của Lửa theo nghĩa hoàn thiện: chuyển hoá từ thấp lên cao. Ở ông, Lửa
“bùng cháy” và “lụi tàn”, vạn vật xuất hiện và tiêu vong với tư cách một quá
trình không chịu sự quy định, quyết định của thần thánh hay con người được
lặp đi lặp lại một cách không có mục đích. Với ông, Vũ trụ này và vạn vật
trong nó dường như chỉ là thứ “trò chơi” của Lửa với chính nó, là mục đích tự
thân của Lửa.

Quan niệm coi đời sống tinh thần - hoạt động linh hồn nhờ sự chuyển
hoá của Lửa có cả trong thế giới hữu sinh lẫn thế giới vô sinh mà Hêraclít đưa
ra chỉ thuần túy là quan niệm theo vật hoạt luận. Mặc dù vậy, ở nó vẫn có một
đóng góp tích cực - đó là sự thừa nhận và bảo vệ nguyên lý duy vật nền tảng đòi hỏi sự giải thích các hiện tượng tự nhiên dựa vào chính tự nhiên chứ
không phải vào các lực lượng xa lạ. Quan niệm coi Lửa là bản nguyên của cả
thế giới vật chất lẫn thế giới tinh thần ở Hêraclít dẫu mang tính phiếm thần
luận, song nó đã cho phép khẳng định thế giới là môt chỉnh thể thống nhất,
thế giới thống nhất ở “ngọn lửa sống bất diệt”.
2. Giá trị đối với phát triển chủ nghĩa duy vật

16


Hêraclít - người sáng lập phép biện chứng, “nhà triết học vận động”,
nổi tiếng với luận điểm coi “Lửa” là bản nguyên vật chất đầu tiên của Vũ trụ,
với học thuyết về “dòng chảy”, về Logos - đã đem lại vinh quang có một
không hai cho triết học Hy Lạp cổ đại. Đó là cái vinh quang của những trí tuệ
bách khoa kỳ diệu, của những năng lực tư duy triết học hiếm thấy mà cho đến
nay, như Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Biện chứng của tự nhiên, “trong
triết học cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, chúng ta phải luôn luôn trở lại
với thành tựu của cái dân tộc nhỏ bé đó, cái dân tộc mà năng lực và hoạt động
toàn diện của nó đã tạo ra cho nó một địa vị mà không một dân tộc nào khác
có thể mong ước được trong lịch sử phát triển của nhân loại”; rằng “từ các
hình thức muôn hình muôn vẻ” của nền triết học này, “đã có mầm mống và
đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” và do vậy, ngay cả
“khoa học tự nhiên lý thuyết” cũng “buộc phải quay trở lại với người Hy Lạp,
nếu nó muốn truy cứu lịch sử phát sinh và phát triển của những nguyên lý
chung của nó ngày nay”. Ánh hào quang đó đã đem lại cho triết học Hy Lạp
cổ đại “tràn đầy sức sống và bước ngạo nghễ trên vũ đài toàn thế giới”.
Nó đã khiến C.Mác phải quan tâm đến ngay từ khi ông bắt đầu sự

nghiệp triết học của mình. Mặc dù chọn triết học tự nhiên của Đêmôcrít và
triết học tự nhiên của Êpiquya làm đối tượng nghiên cứu, trong luận án tiến sĩ
triết học của mình, hơn một lần, C.Mác đã nhắc đến Hêraclít và quan niệm
duy vật thô sơ, mộc mạc của người sáng lập phép biện chứng này. Ông đánh
giá cao cái nhìn biện chứng dẫu còn “ngây thơ” nhưng là “khách quan” của
Hêraclít trong việc mổ xẻ, phân tích và lý giải để tìm ra “ánh sáng thuần
khiết”, mặc dù đó là “ánh sáng mờ nhạt” trong bản chất của các hiện tượng tự
nhiên. Với đóng góp này của Hêraclít, C.Mác đã khẳng định Hêraclít và các
nhà triết học duy vật khác của triết học Hy Lạp cổ đại “mãi mãi là những
người thầy của chúng ta nhờ sự ngây thơ khách quan kỳ vĩ ấy”. Cũng trong
17


luận án tiến sĩ triết học của mình, không dưới một lần, C.Mác đã nói về ảnh
hưởng và giá trị lịch sử của triết học Hêraclít trong lịch sử phát triển của triết
học Hy Lạp cổ đại.
Nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại nói chung, triết học và phép biện
chứng của Hêraclít nói riêng, Ph.Ăngghen đã khẳng định triết học Hêraclít là
một trong những hình thức đầu tiên của quan niệm biện chứng và duy vật về
triết học. Trong tác phẩm nổi tiếng - Chống Đuyrinh, khi nói đến quan niệm
của Hêraclít về sự vận động và biến đổi phổ biến của sự vật, hiện tượng trong
thế giới, Ph.Ăngghen viết: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự
nhiên, lịch sử loài người, hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì
trước nhất, chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những
mối liên hệ và những sự tác động qua lại trong đó không có cái gì là đứng
nguyên, không thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi.
Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế
giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít
trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại,
vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không

ngừng phát sinh và tiêu vong”.
Nói về triết học Hêraclít, với cái nhìn khách quan, C.Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ chỉ ra giá trị tư tưởng, ý nghĩa lịch sử và tính chất vô
thần trong những luận điểm, quan niệm của nhà triết học này về cái bản nguyên
vật chất đầu tiên của Vũ trụ là Lửa; về cái Logos Vũ trụ; về “dòng chảy”; về
tính thống nhất của Vũ trụ ở ngọn lửa sống vĩnh hằng; về sự hài hoà và đấu
tranh của các mặt đối lập với tư cách một phỏng đoán thiên tài về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; về linh hồn và Thượng đế, v.v., mà
còn chỉ ra những thiếu sót và hạn chế của ông trong lĩnh vực nhận thức do
18


“chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên”, chưa chứng minh được
về chi tiết mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên, chỉ ra những hạn
chế và sai lầm về quan điểm chính trị, xã hội của ông. Và, khi coi các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại “đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh”, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định Hêraclít là một đại biểu xuất sắc của phép biện
chứng tự phát ấy, đồng thời làm rõ những hạn chế lịch sử, tính chất ngây thơ, tự
phát trong những quan niệm biện chứng của Hêraclít về Vũ trụ.
Không chỉ thế, với cái nhìn khách quan, khoa học về lịch sử triết học,
với sự am hiểu sâu sắc về triết học Hy Lạp cổ đại nói chung, triết học Hêraclít
nói riêng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thẳng thắn phê phán và bác bỏ những
cách hiểu hay lý giải không đúng về triết học Hêraclít và phép biện chứng của
ông. Chúng ta có thể thấy điều đó qua sự phê phán của các ông đối với những
đánh giá sai lầm của Ph.Látxan về triết học Hêraclít.
V.I.Lênin còn chỉ rõ, mặc dù di sản triết học của Hêraclít mà chúng ta
còn lưu giữ được là hết sức ít ỏi, song chỉ từng ấy cùng đã đủ để thấy triết học
Hêraclít “thật là tuyệt vì cái tính chất phác ngây thơ của nó”. Rằng, trong học
thuyết về “dòng chảy” nổi tiếng, Hêraclít đã đưa ra những phỏng đoán thiên
tài về “vận động biện chứng”, và trong quan niệm về ngọn lửa sống vĩnh

hằng, ông đã nói đến sự “hài hoà” và đấu tranh của các mặt đối lập, đến tính
thống nhất vật chất của Vũ trụ. Và, với Hêraclít, thế giới hay Vũ trụ này là
một chỉnh thể bao gồm vạn vật; thế giới hay Vũ trụ ấy không phải do bất cứ
một vị thần hay bất cứ người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ mãi còn là
một ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật vốn có
của nó, theo cái Logos Vũ trụ của nó - đó là “một sự trình bày rất hay những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng”.

19


KẾT LUẬN
V.I.Lênin, khi nhắc lại quan niệm coi thế giới là một chỉnh thể thống
nhất đã, đang và sẽ còn là ngọn Lửa sống vĩnh hằng, luôn “bùng cháy” và “lụi
tàn” theo những quy luật của nó mà Hêraclít đưa ra, đã coi đó là “một sự trình
bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng”. Chúng ta
hoàn toàn có thể coi đây là một sự đánh giá đúng đắn đối với cống hiến quan
trọng này của Hêraclít về Lửa với tư cách bản nguyên đầu tiên và duy nhất
của Vũ trụ. Tuy còn những hạn chế dù là khách quan hay chủ quan những triết
học của Hêraclit đã có nhứng đóng góp không nhỏ trong việc đặt nền móng
cho chủ nghĩa duy vật sau này
Như vậy, có thể nói, dưới nhãn quan của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hêraclít không chỉ là đại diện tiêu biểu, là một trong những nhà
triết học duy vật xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại, mà còn là
người sáng lập ra phép biện chứng. Với tư cách nhà triết học duy vật, người
sáng lập phép biện chứng, Hêraclít đã đi vào lịch sử tư tưởng nhân loại và để
lại những dấu ấn sâu đậm mà cho đến nay, sau gần 25 thế kỷ, chúng ta vẫn
phải trở lại với chủ nghĩa duy vật thô sơ, mộc mạc và phép biện chứng ngây
thơ, tự phát của ông với tư cách “bản nguyên đầu tiên”, cội nguồn lý luận của
thế giới quan duy vật biện chứng.


20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr.166.
2. Các nhà duy duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb Tư tưởng, Mátxcơva, 1955,
tr.46, 49.
3. Điôgien Laécxơ. Về cuộc đời, học thuyết và những châm ngôn của
các nhà triết học nổi tiếng, quyển 9, Mát xcơva, 1986.
4. G.V.Ph.Hêghen. Bách khoa toàn thư triết học, tập 1, Nxb Tư tưởng,
Mátcơva, 1974, tr.226.
5. V.I.Lênin. Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.363,
364, 367-368.
6. Nguyễn Hòa, triết học Cổ Hi Lạp giản yếu, Nxb Thanh Niên, 2002
7. PGS, TS Nguyễn Tấn Hùng, Lịch sử triết học phương Tây từ triết
học Hi Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức, Nxb CTQG, 2012, tr.40, 41
8. PGS, TS Nguyễn Bá Dương, hỏi đáp lịch sử triết học, Nxb Chính trị
- hành chính, 2009, tr.96, 97
9. GS, TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), lịch sử triết học, Nxb Chính trị
Quốc gia, 2008, tr.156, 1573.
10. Khoa Triết học Mác - Lênin, Học viện Chính trị, Giới thiệu những vấn
đề triết học trong một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2008.10. Vũ Ngọc Pha, Lịch sử triết học, Nxb Thống kê,
Hà Nội, 2003.
11. Tổng Cục Chính trị, Lịch sử triết học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

21



12. Tổng Cục Chính trị, Giáo trình Lịch sử triết học, Nxb Quân đội nhân

22



×