BỘ■ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
»
■
BỘ Tư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI
LUẬT
■ HỌC
■
■ HÀ NỘI
■
HOÀNG CÔNG HUẤN
TỘI GIẾT NGƯÒI
THEO LUẬT
■ HÌNH s ự■VIỆTNAM
■
VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHốNG
TỘI GIÊT IMGƯỜI
■
Chuyên ngành: LUẬT HÌNH sự , TỐ TỤNG HÌNH s ự VÀ TỘI PHẠM HỌC
M ã số: 505.14
LUẬN
M THAC
S Ỹ LUẬT
HỌC
•
•
•
•
( ỉiíỊ H Ồ i
h u ổ ttự d ẫ n k h o a h ọ e: PGS.PTS: K lỀ ư ĐÌNH THỤ
TINrVIỄN
IBÌỂÍI6 6Ạf ÁOỌLy ĩ T íiA .'JI
p*O
K©occ
•
ịLẾẾL
HÀ NỘI -1997
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
C hương I
1
Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1
Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt nam
trước khi pháp điển hóa (1945 - 1985)
7
1.2
Tội giết người theo Bộ luật hình sự hiện hành
18
1.3
Phân biệt tội giết người với một số tội phạm có cấu
thành gần giống
C hương II
Thực trạng tội giết người ở Việt Nam
49
2.1
Đặc điểm tình hình tội giết người ở Việt Nam
49
2.2
Các loại hình tội phạm giết người
53
2.3
Đặc điểm về phương thức gây án
£Q
2.4
Nguyên nhân và điều kiện
65
C hương III
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội giết người
3.1
Một số giải pháp cơ bản đấu tranh phòng, chống tội
giết người
3.2
Những yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan bảo vệ
pháp luật trong việc đấu tranh phòng, chống tội giết
người
Kết luận
Tài liệu tham khảo
rj^
88
96
LỜI NÓI ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nhằm ổn định tình hình kinh tế xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ v in đề ra, một trong những điều kiện tiên quyết là phải giữ vững
an ninh chínỉrtrị, trật tự an toàn xã hội, ổn đinh đời sống của nhân dân.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện mục tiêu phấn đấu nêu trên, trước tiên cần triển khai thực hiện chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm, tạo ra sự chuyển biến về trật tự an toàn
xã hội, đẩy lùi sự gia tăng của tội phạm đặc biệt là tội giết người. Thực tiễn
hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc trong việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm giết người trên rất nhiều phương điện: hoàn thiện hệ thống pháp luật
hình sự, tiến hành các biện pháp đấu tranh phòng ngừa cụ thể kết hợp với việc
cải thiện một bước đời sống kinh tế xã hội..., tạo ra ở mỗi người dân tâm lí và
trạng thái tinh thần ổn định, lòng tin vào sự nghiêm minh và công bằng của
pháp luật. Chỉ khi nào con người thật sự cảm thấy an toàn về tính mạng và
thân thể được bảo vệ mới yên tâm sống, lao động, học tập và nghỉ ngơi.
s
Bảo đảm sự an toàn về tính mạng, sức khỏe cho mọi người dân trong xã
hội là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng cùa Đảng và Nhà nước
ta. Chính vì lẽ đó nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã đề cập vấn đề này.
Ngay từ thời kì đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày 10/7/1957
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 301/TTg quy định chi tiết việc
thực hiện Luật bảo đảm quyền tự do thân thể của công dân. Trong thông báo
của Hội nghị Ban bí thư trung ương Đảng ngày 25/3/1963 về phương hướng
nhiệm vụ công tác năm 1963 của ngành tòa án nhân dân có nhấn mạnh: “Đấu
tranh chống tệ nạn xã hội, đặc biệt phải nghiêm trị tội giết người...
1
Trước tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng
nghiêm trọng ngày 23/5/1986 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra Chỉ thị số
133/CT về xử lí kịp thời và nghiêm minh những vụ phạm pháp. Chỉ thị đã nêu
rõ: "Phải kiên quyết tổ chức ngay việc xét xử trước pháp luật những vụ phạm
pháp hình sự trong lĩnh vực... xâm phạm tính mạng, tài sản, danh dự và nhân
phẩm của công dân...", tiếp theo đó Ban Bí thư trung ương Đảng đã ra Chỉ thị
số 84/CTTW ngày 29/5/1986 để lãnh đạo việc tổ chức thi hành Chỉ thị của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng... Ngày 27/6/1985 Quốc hội đã thông qua việc
ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên kể từ khi nước nhà giành độc lập, đánh dấu
một bước phát triển mới trong việc quy đinh trách nhiệm hinh sự đối với các
hành vi giết người, góp phần đấu tranh có hiệu quả chống loại tội phạm
nghiêm trọng này.
Qua 10 năm đổi mới, thực hiện mục tiêu phấn đấu vì sự nghiệp'"Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh'' với chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2000 mà trọng tâm là chiến lược con người, đất nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Tuy nhiên, việc phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh những thành tựu đạt
được đã nảy sinh những yếu tố tác động tiêu cực đến tình hình tội phạm nói
chung và tội giết người nói riêng. Hoạt động của bọn tội phạm hình sự tinh vi
xảo quyệt hơn, khuynh hướng sử dụng bạo lực diễn ra trầm trọng, thậm chí
trắng trợn đã làm cho tình hình trật tự an toàn xã hội diễn ra phức tạp, gây tâm
lí lo lắng trong nhân dân đặc biệt những vụ cướp có vũ trang, các vụ giết
người.
Theo báo cáo thống kê của Cục cảnh sát điều tra Bộ nội vụ từ năm 1986 1995 trên toàn quốc xảy ra 297.668 vụ án hình sự, trung bình hàng năm xảy ra
29. 766,8 vụ. Mặc dù tình hình phạm pháp hình sự đã giảm trong một vài năm
gần đây nhưng khuynh hướng giảm không cơ bản và không có cơ sở vững
chắc. Cụ thể riêng tội giết người từ năm 1986 - 1995 trên toàn quốc có 10. 514
2
vụ được khởi tố, trung bình hàng năm có khoảng 1051 vụ được khởi tố , chiếm
3, 53% tổng số vụ án hình sự xảy ra. Nếu so sánh số vụ án giết người được
khởi tố ờ giai đoạn 1986 - 1990 với giai đoạn 1991 - 1995 thì số vụ án giết
người tăng khoảng 17%.
Thực tiễn hiện nay cho thấy xu hướng phạm tội có chuẩn bị trước, có tổ
chức hoặc có sự cấu kết thành băng, ổ, nhóm ngày càng thể hiện đậm nét. Có
tới 32, 2% vụ giết người có sự cấu kết thành băng, ổ, nhóm; 32, 6% số vụ giết
người bằng súng, lựu đạn và hoạt động mang tính chất khủng bố, dùng mìn để
hạ sát nạn nhân. Điểm đáng chú ý là số vụ giết người cướp của xảy ra tăng và
bọn tội phạm đã sử dụng nhiều thủ đoạn gây án tinh vi, xảo quyệt gây khó
khăn cho hoạt động điều tra (Theo số liệu của Cục cảnh sát điều tra Bộ nội vụ
thì có tới 41% số vụ thủ phạm tẩy xóa dấu vết và 12% số thủ phạm chôn giấu
xác nạn nhân). Mặt khác, tội phạm hình sự nói chung, tội phạm giết người nói
riêng phần nhiều có mối liên hệ chặt chẽ với các tệ nạn xã hội.
Tình hình tội phạm giết người xảy ra nghiêm trọng như vậy nhưng công
tác điều tra, xử lí loại tội phạm này còn nhiều hạn chế và gặp rất nhiều khó
khăn. Đặc biệt lưu ý, số vụ án giết người chưa rõ thủ phạm chiếm tỷ lệ 18%
tổng số vụ án giết người xảy ra, trong đó có tới 50% các vụ án giết người chưa
rõ thủ phạm phải đình chỉ điều tra do không xác định được thủ phạm.
m
Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết phải nói đến là công tác điều
tra các vụ án giết người chưa rõ thủ phạm gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác
công tác điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, chất
lượng điều tra án giết người còn thấp. Mặt khác nhiều vụ án kéo dài không xử
lí kịp thời đã ảnh hưởng không tốt đến công tác phòng chống tội phạm, án
tuyên phạt không được chấp hành nghiêm chỉnh, nhiều kẻ phạm tội có lệnh
truy nã nhưng trốn thóat thậm chí cá biệt có trường hợp can thiệp thô bạo của
các quan chức trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
3
Việc nghiên cứu toàn diện đối với tội giết người để rút ra những yếu kém,
khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu tranh trên cơ sở đó xây dựng những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống loại tội phạm này
chưa được quan tâm thường xuyên. Các văn bản pháp luật là cơ sở hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử trong đó Bộ luật hình sự, đã phát huy hiệu quả trong
đấu tranh chống tội phạm, ngoài ra những tài liệu tổng kết thực tiễn hoạt động
điều tra, hoạt động kiểm sát điều tra, hoạt động xét xử về tội giết người được
đánh giá, đúc kết trong các báo cáo chuyên đề như : Báo cáo sơ kết, tổng kết
của các ngành bảo vệ pháp luật và địa phương. Đây là những tài liệu phong
phú có giá trị cho nghiên cứu và xây dựng các biện pháp đấu tranh chống tội
phạm nhằm từng bước nâng cao hiệu quả phòng ngừa và chống với tội giết
người.
Tất cả những điều trình bày ở trên đã nói lên sự cần thiết phải nghiên cứu
một cách toàn diện đề tài này và khả năng giải quyết những vấn đề bức xúc
đang đặt ra cho đề tài ở cả hai phương diện lí luận và thực tiễn.
2. TÌNH HỈNH NGHIÊN c ứ u
Từ trước đến nay có một số công trình trong nước và nước ngoài đã đề
cập vấn đề án mạng và nêu một số kinh nghiệm trong công tác điều tra, khám
phá, xử lí tội giết người. Trong đó phải kể đến "Chuyên đề tổng kết thực tiễn
xét xử loại tội giết người" ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao;
"Chuyên đề nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra án giết người" của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; "Trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe con người" của tác giả Đinh Văn Quế (Nhà xuất
bản Công an nhân dân ấn hành 1994) và một số bài viết của một số tác giả
đăng trên Tạp chí tòa án nhân dân, Tạp chí luật học, Tạp chí nhà nước pháp
luật, Tạp chí kiểm sát... Nhìn chung các công trình, nêu trên chủ yếu đề cập
đến những vấn đề ,cơ bản của tội giết người ở những khía cạnh pháp lí hình
sự, song chưa có công trình nào đề cập toàn diện vấn đề đấu tranh phòng,
4
chống tội giết người. Đặc biệt, chưa có đề tài nào phân tích một cách khái quát
những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét
xử loại tội này. Một số giáo trình của các trường Đại học luật, Đại học tổng
hợp, Đại học an ninh, Đại học cảnh sát có đề cập đến tội giết người nói chung
nhưng chủ yếu xung quanh những dấu hiệu pháp lí cơ bản, trình tự và phương
pháp điều tra cơ bản loại tội phạm này.
Nghiên cứu một cách toàn diện tội giết người trong tình hình hiện nay là
một vấn đề khó. Các nhà nghiên cứu khẳng đinh loại tội giết người là loại tội
nghiêm trọng nhất trong các loại tội về xâm phạm trật tự xã hội, bởi lẽ nó
cướp đi mạng sống của con người, đồng thời gây nên sự hoang mang lo lắng
trong đời sống nhân dân. Do vậy, nghiên cứu đề tài "Tội giết người theo luật
hình sự Việt nam vẵ đấu tranh phòng chống tội giết người" nhằm góp phần
thiết thực nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và công tác
phòng, chống tội giết người sẽ có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM vụ VÀ PHẠM VI NGHIÊN cứ u
Mục đích của luận án là đánh giá một cách khái quát thực trạng, nguyên
nhân và điều kiện của tội giết người ở nước ta trong 10 năm trở lại đây (1986 1995), phân tích các dấu hiệu pháp lí hình sự của tội giết người trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội giết
s
người.
Để đạt được mục đích trên trong luận án cần phải giải quyết những
nhiệm vụ cơ bản sau :
- Phân tích, đánh giá tình hình tội giết người trong thời gian 10 năm gần
đây (1986 - 1995), rút ra những đặc điểm hình sự cơ bản của tội giết người,
- Phân tích làm rõ cấu thành tội giết người theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay, làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lí hình sự của tội
giết người theo pháp luật hình sự hiện hành, đánh giá một cách toàn diện
5
công tác đấu tranh, xử lí loại tội này, những nguyên nhân và điều kiện của tình
trạng trên, những khó khăn vướng mắc trong hoạt động thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiêụ quả công tác điều tra, truy
tố, xét xử tội giết người, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
tội phạm.
Luận án giới hạn ở việc nghiên cứu các khía cạnh pháp lí hình sự và tội
phạm học của tội giết người theo điều 101 Bộ luật hình sự hiện hành.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
Cơ sở phương pháp luận của luận án là phép duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, những luận điểm lí luận chung về tội phạm học, luật hình sự và
pháp luật về trật tự an toàn xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả áp dụng các biện pháp nghiên cứu cụ
thể như: Tổng hợp, thống kê, phân tích, qụy nạp, diễn giải và so sánh.
5. Ý NGHĨA Lí LUẬN VÀ THựC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
- Những kết quả của luận án có ý nghĩa lí luận thiết thực có thể dùng
tham khảo trong quá trình nghiên cứu những khía cạnh tội phạm học và luật
hình sự về tội giết người. Luận án đã nêu được khái quát thực trạng về tội giết
người, những nguyên nhân và điều kiện chủ yếu dẫn đến tội giết người.
- Luận án đã đưa ra được những giải pháp cơ bản nhằm nâng'cao hiệu
quả đấu tranh phòng chống tội giết người.
6. K ẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 3 chương:
Chương I: Tội giết ngưòi theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương II: Thực trạng tội giết ngưòỉ ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chông tội giết ngưòỉ.
6
CHƯƠNG I
TỘI GIẾT NGƯỜI
THEO PHÁP LUẬT
HÌNH s ự• VIỆT
NAM
•
•
1.1
.TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH s ự TRƯỚC KHI PHÁP ĐlỂN
HÓA(1945 -1985)
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân ta thực sự
làm chủ đất nước. Thời kì đó, chính quyền cách mạng còn non trẻ một lúc
phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách to lớn. Để bảo vệ chính quyền
cách mạng, chống lại sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và âm mưu phá
hoại của các thế lực thù địch bên ngoài, Nhà nước ta đã sử dụng pháp luật, đặc
biệt là pháp luật hình sự nhằm củng cố chính quyền và giữ gìn trật tự an tòan
xã hội. Hàng loạt các sắc lệnh đã ra đời: sắc lệnh thiết lập Tòa án quân sự để
xét xử tất cả những người nào thực hiện một việc gì có phương hại nền độc
lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 14/12/1946, các sắc lệnh số
27/SL ngày 28/2/1946; số 223/SL ngày 27/11/1946; số 168/SL ngày 14/4/1948
nhằm tăng cường bảo vệ trật tự - an ninh trong giai đoạn hiện tại... Việc ban
hành các sắc lệnh nói trên đã nói lên tình hình vô cùng gay go, phức tạp mà
chính phủ lầm thời phải đối phó. Trong bản Chỉ thị kháng chiến kjến quốc
ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng đã chỉ rõ "nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân là: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống nhân dân". Song song với việc tăng cường chuyên
chính đối với kẻ thù của nhân dân, Chính phủ đã ban hành một loạt sắc lệnh
quy định việc trừng trị những hành động xâm phạm đến nền kinh tế, tài chính,
trật tự trị an xã hội. Tội giết người theo pháp luật hình sự trong giai đoạn bấy
giờ chưa được quy định một cách cụ thể, hành vi giết người được hiểu là sự
xâm phạm nghiêm trọng trật tự trị an xã hội. sắc lệnh số 27/SL ngày
7
28/2/1946 quy định việc trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát quy đinh
hình phạt tù từ 2 năm đến 10 năm và có thể bị tử hình. Ngoài những văn bản
pháp luật hình sự mới được ban hành nói trên, Chính phủ còn cho phép áp
dụng một số điều khoản của pháp luật hình sự cũ nhằm duy trì ổn đinh trật tự
xã hội trong lúc chưa xây dựng kịp các văn bản pháp luật mới. Tuy nhiên, việc
áp dụng một số điều khoản trên cần có những điều kiện là nội dung không trái
với nguyên tắc độc lập của Việt Nam và chính thể cộng hòa, khi vận dụng vào
những vụ án hình sự người thẩm phán phải xuất phát từ ý thức pháp luật cách
mạng.
Tóm lại: Hành vi giết ngưòi theo pháp luật hình sự việt Nam thời kì đầu
mới giành được đôc lập, do những đặc điểm tình hình chính trị - xã hội đa
phần đểu gắn với mục đích chống phá cách mạng, hành vi giết người thông
thường không được quy định một cách cụ thể mà được hiểu là sự xâm phạm
nghiêm trọng đến trật tự trị an xã hội và phải bị trừng trị thích đáng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc nước ta bước sang giai đoạn cách mạng XHCN đồng thời tiếp tục đấu
tranh chống đế quốc Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam
tiến tới thống nhất tổ quốc. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ m đã nêu rõ: “Đ ể đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
s
nghĩa và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, bảo đảm lợi ích của nhân
dân lao động, bảo đảm trật tự an ninh. Nhà nước dân chủ nhân dân dựa vào
sự ủng hộ của nhân dân, cần chuyên chính với bọn phản cách mạng, nghiêm
trị những kẻ phá hoại công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội". Giai đoạn này việc áp dụng một số điều khoản của pháp luật cũ
không còn phù hợp nữa. Tại Thông tư 19/VHH ngày 30/6/1955 đã chỉ rõ:
"Các luật lệ cũ không thể làm cơ sỏ phấp lí cho các tòa án nhân dân để định
tội trong bất cứ trường hợp nào... Nếu chỉ có luật hình chưa có sắc lệnh mới
thì cũng không viện dẫn luật hình cũ. Tòa án sẽ căn cứ vào đường lối truy tô',
8
xét xử, vào các yêu cầu chung và cụ thể đối với từng sự việc, vào án lệ". Trong
chỉ thị ngày 10/7/1959 của Tòa án nhân dân tối cao cũng hướng dẫn "trong
tình hình xã hội Việt Nam hiện nay hoàn toàn không thể sử dụng điều luật của
đ ế quốc và phong kiến nữa”.
Như vậy, khi chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tình
hình đã có những thay đổi lớn lao các văn bản pháp luật về hình sự được Nhà
nước ban hành đã tương đối nhiều, chính sách hình sự đối với một số loại tội
phạm rõ ràng, cụ thể hơn, kinh nghiệm xét xử về hình sự tích luỹ được khá
phong phú, ý thức pháp luật cách mạng của thẩm phán và hội thẩm nhân dân
nâng cao, cho nên việc cấm viện dẫn pháp luật hình sự cũ để xét xử là hòan
tòan đúng đắn và cần thiết.
Trong số các văn bản pháp luật hình sự được ban hành ở thời kỳ này
nhằm đấu tranh chống tội giết người trước hết phải kể đến Thông tư 442/TTg
ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm.
Điểm 3 Thông tư này quy đinh "C ốý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm,
nếu có trường hợp nhẹ có thể hạ xuống 1 .năm, giết người có dự mưu có thể
phạt đến tử hình". Như vậy sau 10 năm giành được độc lập, lần đầu tiên tội
giết người được quy đinh một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật thể hiện
cụ thể chính sách hình sự của Nhà nước ta. Kế tiếp là Thông tư 556 ngày 24*
12-1958 của Thủ tướng Chính phủ nêu một cách tòan diện chính sách truy tố
và xét xử đối với tội phạm hình sự trong đó có tội giết người. Tại thông báo về
Hội nghị Ban bí thư trung ương Đảng ngày 25/3/1963 về phương hướng nhiệm
vụ công tác năm 1963 của ngành tòa án nhân dân ở điểm 3 nhấn mạnh: "Đấu
tranh chống tệ nạn xã hội, đặc biệt phải nghiêm trị tội giết người...''.
Căn cứ vào chính sách truy tố và xét xử đối với các loại tội phạm cụ thể
và kinh nghiêm vận dụng xét xử của tòa án địa phương trong từng thời kì, Tòa
án nhân dãn tối cao đã hướng dẫn về đường lối xét xử đối với một số loại tội
phạm cụ thể trong bản tổng kết số 452/HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân
9
dân tối cao. Dựa trên cơ sở Thông tư 442/TTg Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn các tòa án địa phương trong quá trình xét xử tội giết người đã nêu bật
những điểm cơ bản để phân biệt tội giết người (với 2 hình thức lỗi) với tội cố ý
gây thương tích nhân thương làm chết người, giết người chưa đạt với cố ý gây
thương tích; tội giết người với tội vô ý làm chết người... Như vậy, thông tư
442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ là cơ sở pháp lý cơ bản để
truy cứu trách nhiệm hình sự với tội giết người, bên cạnh đó trong quá trình
vận dụng đường lối truy tố, xét xử tội giết người việc dựa vào bản tổng kết số
452- HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao là rất quan trọng. Đoạn
3, điều 3 Thông tư 442/TTg quy định hình phạt đối với tội giết người trong
những trường hợp thông thường thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm. Khung
hình phạt trên đối với tội giết người trong những trường họp khi không có
những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đặc biệt được thực tiễn xác nhận.
Theo bản tổng kết công tác xét xử ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối
cao, đối với trường hợp giết ngưòi đã thành "Nếu hình thức cố ý trực tiếp mức
án thông thường từ khoảng 15 năm đến 20 năm tù, nếu hình thức lỗi cố ý gián
tiếp, mức án thông thường là từ khoảng lồ năm đến 15 năm; đối với những
trường hợp giết người chưa đạt hoặc đối với những kẻ cộng phạm trong các
vụ án giết người đã thành, mức hình phạt tối thiểu cũng từ 5 năm tù trở lên,
cố khi đến 10 năm hoặc trên 10 năm".
Tình tiết có dự mưu là tình tiết duy nhất được thông tư 442/TTg coi là
tình tiết cần thiết để có thể xử phạt tử hình (giết người có dự mưu trước), v ề
tình tiết này tòa án các cấp từ thực tiễn xét xử đã coi là có dự mưu khi có ý
định dứt khóat sẽ giết người tà trước khi giết và đã có sự chuẩn bị hoặc ít nhất
là có kế hoạch để thực hiện ý định đó. Nếu trong tư tưởng mới loáng thóang
có ý muốn giết người nhưng chưa dứt khóat hoặc ý thức chưa hình thành hẳn
hoi hoặc còn phãn vân khi có, khi không thì chưa thể gọi là có dự mưu. Tóm
lại việc đánh giá tình tiết giết người có dự mưu phải xuất phát từ việc can
10
phạm có ý định dứt khóat, có chuẩn bị hoặc ít nhất có kế hoạch giết người,
nhưng ý định hay có sự chuẩn bị hoặc kế hoạch này phải được suy nghĩ tương
đối kỹ trước khi hành động. Tại bản chuyên đề tổng kết công tác xét xử loại
tội giết người ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao đánh giá tình tiết
có dự mưu có ờ hầu hết các vụ án đã xử tử hình đối với bị cáo về tội giết
người. Tuy nhiên, trong một số trường hợp không có dự mưu vẫn xử tử hình vì
có những tình tiết tăng nặng nghiêm trọng khác. Loại tình tiết tăng nặng đặc
biệt được thực tiễn xét xử các vụ án giết người ở thòi kì này xác định rất cụ thể
tại chuyên đề tổng kết xét xử ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao là:
1/ Giết người vì động cơ đê hèn hoặc với tính chất côn đồ. Đó là việc
giết vợ hoặc chồng để được tự do lấy vợ hoặc chồng khác, giết người để cướp
vợ hoặc chồng nạn nhân, gỉết người tình sau khi đi lại có mang để trốn tránh
trách nhiệm.
- Giết người vì những mục đích vụ lợi (giết người để khỏi phải trả nợ,
để cướp gia tài, để lấy tiền thuê).
- Giết người có tính chất bội bạc, phản trắc như giết người thực sự
thương yêu mình, tin tưởng vào mình vì những nguyên cớ cá nhân ích kỷ.
- Giết người do tính chất côn đổ hung hãn cao độ của can phạm.
2/ Giết người để che giấu hoặc để dễ dàng thực hiện một tội phạm khác.
3/ Giết người có kèm theo hiếp dâm, cướp của hay một tội phạm
nghiêm trọng khác những tội này phải xảy ra cùng một lúc với tội giết người
hoặc xảy ra ngay trước hoặc sau khi giết người, nếu tội đó xảy ra vào một
khoảng thời gian khác tội giết người thì không nằm trong trường hợp này, khi
đó cần xử riêng hai tội rồi vận dụng nguyên tắc tổng họp hình phạt.
4/ Giết người một cách cực kì man rợ hoặc bằng thủ đoạn nguy hiểm có
thể làm chết nhiều người.
11
5/ Giết nhiều người hoặc giết phụ nữ biết là có mang
6/ Giết người được giao nhiệm vụ công tác trong khi hoặc vì nạn nhân
thi hành nhiệm vụ.
7/ Can phạm có nhân thân xấu (can phạm trước đã có tiền án vể tội giết
người).
Những tình tiết tăng nặng đặc biệt trên đã được thực tiễn xét xử tổng
kết. Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao khung hình phạt được áp
dụng trong những trường hợp này (khi không có những tình tiết giảm nhẹ đặc
biệt khác) từ 12 năm cho đến chung thân hoặc tử hình. Tương tự như trên,
hành vi giết người theo thông tư 442/TTg "Nếu có trường hợp nhẹ có thể hạ
xuống đến 1 năm' cũng được thực tiễn tổng kết xác đinh là những tình tiết có
tính chất giảm nhẹ đặc biệt và được xác đinh như sau: Giết người trong tình
trạng tinh thần bị kích động mạnh một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi
sai trái nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong tình trạng bị nạn nhân ngược
đãi áp bức tàn tệ. Việc giết người phải xảy ra tức thời ngay lúc hành vi sai trái
đó (nếu giữa lỗi của nạn nhân và hành động của bị cáo có một quãng thời gian
nhất định thì không thể nói bị cáo ở trong tình trạng đột xuất bị kích động tinh
thần mạnh mẽ. Sự kích động tinh thần của can phạm phải do một hành vi sai
trái nghiêm trọng của nạn nhân. Hành vi sai trái có thể là một tội phạm hình
sự (như cố ý gây thương tích...) cũng có thể là một hành vi sai trái về đạo đức.
Ngoài ra, giết người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết cũng được giai đoạn
này coi là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Hành vi này được hiểu : "kẻ bị giết đang
có hành động trái phép trực tiếp đe dọa thân thể của can phạm hoặc của người
khác hoặc đe dọa lợi ích cách mạng của nhân dân mà can phạm muốn kịp thời
đối phó để bảo vệ nên đã giết người (biện pháp này là vượt quá không tương
xứng với mức độ của mối nguy hiểm đang đe dọa). Do biện pháp bảo vệ đã
vượt quá mức cần thiết cho nên đây là tội phạm về hình sự nhưng trong hoàn
12
cảnh cần được bảo vệ lợi ích chính đáng và động cơ của can phạm là muốn
bảo vệ lợi ích đó nên khi xét xử tòa án cân nhắc xử nhẹ hơn bình thường.
Trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở miền Bắc
hàng năm xảy ra khá nhiều những vụ giết trẻ em mới đẻ. Hầu hết những
trường hợp này là những người mẹ đẻ con hoang vì sợ dư luận chê cười hoặc
vì gặp hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt (kinh tế, tình cảm...) đã bí mật giết
con đi. Cá biệt một số vụ giết trẻ em mới đẻ vì mê tín. Năm 1963 ngành tòa án
nhân dân đã tổng kết và ra Chỉ thị số 01/ NCCS ngày 14/3/1963 về đường lối
xử lí tội gọi là "tội giết trẻ sơ sinh”. Theo bản chỉ thị này những dấu hiệu để
đinh tội "giết trẻ sơ sinh'' cần được hiểu là việc người mẹ đã bất đắc đĩ phải
giết đứa con đẻ hoang của mình vì sợ bị dư luận chê cười hoặc vì gặp hoàn
cảnh khó khăn, khốn quẫn về kinh tế hoặc vế tình cảm. Đứa trẻ mới sinh được
một thời gian ngắn (thông thường từ 1 tuần trở lại, cũng có thể dài hơn nhưng
không quá 1 tháng). Ngoài những trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ
đặc biệt đã nói ờ trên, thực tiễn xét xử còn gặp một số trường hợp đặc biệt nữa.
Đó là các trường hợp giết người vì mê túi (ở miền núi). Năm 1960 Tòa án
nhân dân tối cao đã có sơ kết thực tiễn xét xử và ban hành Chỉ thị 1025 ngày
15/6/1960 hướng dẫn đường lối xét xử những trường hợp giết người do mê túi;
các trường hợp giết người hủi, người điên, người tàn tật, giết trẻ em vì sợ lây
bệnh hoặc để khỏi phải nuôi khổ sở trong hòan cảnh khốn quẫn về kinH tế.
Ngoài tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ có tính chất đặc biệt đã nói trên,
thực tiễn xét xử đã tổng kết rất nhiều tình tiết khác có ý nghĩa cá thể hóa hình
phạt và chỉ ra rằng: cố ý trực tiếp giết người cần phải xử nặng hơn cố ý gián
tiếp làm chết người; giết người có tổ chức, có cộng phạm là một tình tiết tăng
nặng, lợi dụng chức vụ, lợi dụng chuyên môn nghề nghiệp, lợi dụng vũ khí
được giao để giết người... cũng là những tình tiết tăng nặng.
Về thủ đoạn giết người của can phạm ngoài những thủ đoạn cực kì man
rợ hoặc nguy hiểm khi thực hiện hành vi, những thủ đoạn khác cũng ảnh
13
hưởng đến mức hình phạt được quyết định đối với bị cáo như: giết người có sự
đồng tình phần nào của nạn nhân cũng được xem là một tình tiết giảm nhẹ .
Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả
nước độc lập thống nhất. Trong khi chờ đợi thống nhất về mặt nhà nước, về
hình thức ở đất nước ta tạm thời tồn tại hai nhà nước, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Mỗi nhà nước có
pháp luật riêng. Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành những văn bản pháp
luật cấp thiết để góp phần giải quyết những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách,
trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy đinh các tội phạm và
hình phạt ra đời nhằm trừng trị các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài
sản, xâm phạm thân thể. Ngày 25/4/1976 nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử
bầu đại biểu Quốc hội chung của cả nước. Tháng 7/1976 Quốc hội họp và
quyết định đổi tên nước là Cộng hòa xã hôi chủ nghĩa Việt Nam. Sau khi đất
nước thống nhất, một yêu cầu khách quan tất yếu là pháp luật cũng phải được
thi hành thống nhất trên toàn lãnh thổ. Trên cơ sở kết quả của việc hệ thống
hóa pháp luật hiện hành cả hai miền, Chính phủ đã công bố hai danh mục gồm
700 văn bản trong đó có nhiều văn bản pháp luật hình sự để thi hành thống
nhất trong cả nước. Đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội giết người
trong giai đoạn mới. sắc luật 03 - SL/76 ngày 15/3/1976 được áp dụng thống
nhất trong cả nước thay thế thông tư 442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng
Chính phủ. Điểm a Điều 5 sắc luật 03 - SL/76 quy định: "Phạm tội cố ý giết
người thì bị phạt tù từ 15 năm đến chung thân hoặc bị xử tử hình. Trường hợp
có tình tiết giảm nhẹ, thì mức hình phạt có thể thấp hơn.
Phạm tội vô ỷ làm chết người thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
Trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm".
Như vậy điểm a Điều 5 sắc luật 03 - SL/76 về mặt nội dung không có điểm gì
mới so với Thông tư 442/TTg. Tuy nhiên, ở giai đoạn này việc xác định những
14
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để áp dụng hình phạt đối với các hành vi giết
người được hiểu một cách cụ thể hơn qua hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ
pháp luật. Các tình tiết tăng nặng thuộc về phương diện khách quan của tội
phạm như hình thức cộng phạm có tổ chức, lợi dụng một số hoàn cảnh, để
phạm tội (lợi dụng thiên tai, chiến sự, lợi dụng tình hình trật tự trị an diễn biến
phức tạp, các cơ quan chuyên chính chưa làm hết trách nhiệm, lợi dụng quần
chúng còn e dè trong đấu tranh chống tội phạm và có tâm lí ngại bị trả thù) để
giết người. Lợi dụng chức vụ quyền hạn, chuyên môn, nghề nghiệp để phạm
tội. Phương pháp thủ đoạn: táo bạo, xảo quyệt, bỉ ổi, tàn ác... hoặc nạn nhân là
đối tượng cần được bảo vệ (những người thừa hành công vụ...) cũng là những
tình tiết tăng nặng để áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với những hành vi
giết ngươi. Ngoài ra, những tình tiết tăng nặng thuộc về chủ quan của tội phạm
như: Phạm tội với động cơ đê hèn, động cơ hưởng lạc, quyết tâm thực hiện tội
phạm cao hay các tình tiết khác thuộc về nhân thân người phạm tội như kẻ
phạm tội là lưu manh chuyên nghiệp, côn đồ, cao bồi càn quấy, tái phạm (kẻ
phạm tội trước kia đã bị kết án về tội giết người nay lại phạm tội giết người
hoặc tội khác cùng khách thể loại...), kẻ phạm tội là phần tử ngoan cố không
chịu cải tạo, kẻ phạm tội đã có tiền án (mức độ nhẹ hơn tái phạm), phạm tội
nhiều lần hoặc phạm nhiều tội và người phạm tội có thái độ xấu sau khi phạm
tội...
Những tình tiết tăng nặng nêu trên được vận dụng một cách linh hoạt, tùy
theo tình hình chính trị của địa phương mà can phạm phải chịu mức hình phạt
tù từ 15 năm đến chung thân hoặc bị xử tử hình (nếu không có những tình tiết
giảm nhẹ đặc biệt). Điều 5 điểm 3 của sắc luật 03 - SL/76 còn quy định:
"Trường hợp cố tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể thấp hơn" tức là
dưới 15 năm tù. Những tình tiết giảm nhẹ ở đây theo thông tư số 03 - BTP/TT
tháng 4/1976 của Bộ tư pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền
Nam Việt nam về hướng dẫn thi hành sắc luật 03 - SL/76 là:
15
- Giết người trong trường hợp thần kinh bị kích động quá mạnh
- Giết người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết.
- Nạn nhân chưa chết và cũng chưa bị thương nặng. Trường hợp giết
người trong trường hợp thần kinh bị kích động quá mạnh được giải thích qua
chuyên để tổng kết công tác xét xử tội giết người ngày 10/8/1970 của Tòa án
nhân dân tối cao. Đối với trường hợp vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết
được hướng dẫn cụ thể tại hội nghị tổng kết công tác ngành tòa án năm 1977.
"Về trường hợp giết người vượt quá mức phòng vệ cần thiết. Đây là trường hợp
cần xử lí cố mức độ, với mức án được hướng dẫn thông thường là 8 năm tù trỏ
xuống vì ở đây bị cáo là người đang làm nghĩa vụ còn nạn nhăn là người cố
tội đã vi phạm phấp luật, nhà chức trách hô đứng lại nhưng họ tìm cách trốn
thóat, không nên cho rằng xử như vậy sẽ ảnh hưởng đến tinh thần cán bộ đang
làm nhiệm vụ ... vì luật pháp không cho phép nổ súng bừa bãi khi tuần tra
canh gác, bất chấp pháp luật, coi thường tính mạng của nhân dân..." Đối với
trường hợp cán bộ đang làm nhiệm vụ đã bắn chết một số người chạy sang
biên giới nước khác cũng được báo cáo hướng dẫn " Nếu chủ quan người cán
bộ cho rằng những người đó là phẩn tử nguy hiểm có ỷ định vượt biên trốn
theo địch chống lại ta, khi phát hiện được cố hô đứng lại mà họ vẫn cứ chạy
nên đã bắn chết thì hành động bắn như vậy được coi như trường hợp phòng vệ
cần thiết ị có hô đứng lại, có bắn chỉ thiên nhưng họ vẫn chạy). Nếu người cán
bộ đang làm nhiệm vụ biết người dân chỉ là người bình thường vượt biên để
buôn lậu thì việc bắn chết người phải được coi là trường hợp bắn chết người
một cách không cần thiết, cẩn phải xử lí. " Nếu bị cáo lợi dụng nhiệm vụ công
tác bắn chết người với động cơ tư lợi để chiếm đoạt tài sản thì cần phải
nghiêm trị"} )
(*) Xem: Chuyên đ ề tổng kết xét xử các tội giết người của TANDTC ngày 10-8-1970.
16
Đối với trường hợp giết người có nợ máu để trả thù, cần xác đinh rõ nạn
nhân có đúng là người có nợ máu thật sự hay không để có đường lối xử lí thích
hợp tránh quy kết chung chung đi đến tình trạng xử lí tùy tiện bất chấp pháp
luật. Trường hợp không chỉ giết người có nợ máu mà giết cả những người
thân của người đó gây hậu quả nghiêm trọng thì không phải là trường hợp
đáng được chiếu cố, mà cần căn cứ theo đường lối chung về xử lí tội giết
người để xử phạt thích đáng (có trường hợp xử phạt đến chung thân hoặc tử
hình). Đối với trường hợp giết ma lai ở miền Nam hay giết ma chài ở miền
Bắc cũng đều là trường hợp giết người vì mê tín. Các Tòa án địa phương vận
dụng đường lối đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tại Chỉ thị 1025
ngày 15/6/1960. Mặt khác, tùy tình hình cụ thể của địa phương, trình độ nhận
thức vùng dân tộc để xử lí thích hợp. Nếu không phải giết người vì mê tín mà
lợi dụng mê túi giết người để trả thù cá nhân thì xử theo đường lối chung về xử
lí tội giết người.
Như vậy, trước khi pháp điển hóa hình sự tội giết người được quy đinh
rất chung chung. Việc xét xử các vụ án giết người chủ yếu dựa vào thông tư
442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ và sắc luật 03 - SL/76 ngày
15/3/1976, và một số văn bản hướng dẫn khác của Toà án nhân dân tối cao.
Tất cả các văn bản pháp luật hình sự trên đều là những văn bản đơn hành (sắc
luật, sắc lệnh, , thậm chí cả văn bản của Chính phủ như thông tư...) Mỗi văn
bản chỉ quy định một vấn đế riêng biệt, nhiều trường hợp có những quy đinh
về tội phạm và hình phạt lại chứa đựng trong các văn bản quản lí. Thực trạng
đó cho thấy pháp luật hình sự ở giai đoạn này thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất,
nhiều chỗ hổng và bắt buộc phải cho phép áp dụng nguyên tắc tương tự dẫn
đến việc lấy chính sách, chỉ thị của Đảng, lấy kinh nghiệm xét xử của tòa án
(án lệ) để thay thế cho những chỗ hổng của pháp luật. Điều này dẫn đến tình
trạng áp dụng tùy tiện pháp luật, xử nặng, xử nhẹ thậm trí xử sai, làm oan
người vô tội. Việc quy định áp dụng nguyên tắc tương tự trong tình hình thiếu
Vi ẸN
Tíìm C& ẠI:
17
PrtỏNP Đ C C
pháp luật là cần thiết nó đã đáp ứng được phần nào yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội giết người trong giai đoạn hiện tại, song cũng bộc lộ những hạn chế,
tiêu cực cần khắc phục.
Trong suốt chặng đường bốn mươi năm tò 1945 đến 1985 mặc dù Nhà
nước chưa ban hành được Bộ luật hình sự để pháp điển hóa luật hình sự và
mặc dù chưa có một định nghĩa cụ thể về tội phạm nhưng ở các văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau, các tội phạm cụ thể trong đó có tội giết người cũng
đã được quy định kèm theo các hình phạt tương ứng. Chúng ta biết rằng ở xã
hội nào cũng vậy, giết người đều được coi là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội,
là tội ác nhưng khác so với pháp luật của các chế độ trước đây, pháp luật của
Nhà nước ta đã xóa bỏ sự bất công, bất bình đẳng trong việc quy đinh các tội
phạm trong đó có tội giết người. Theo quy định của Hiến pháp 1946, 1959
cũng như 1980 tính mạng, sức khỏe của con người là bất khả xâm phạm, mọi
hành vi tước đi mạng sống của con người đều bị nghiêm trị, kẻ phạm tội giết
người phải chịu những hình phạt nghiêm khắc và mức cao nhất có thể lên tới
tử hình.
1.2. TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH s ự HIỆN HÀNH
Trước đây, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau
nhà nước ta chưa có điều kiện để xây dựng BLHS, tức là một văn bản quy
phạm pháp luật hình sự do Quốc hội ban hành trong đó quy đinh toàn diện và
thống nhất những vấn đề về tội phạm, và hình phạt, những nguyên tắc xác
định tội phạm và quyết đinh hình phạt cũng như những vấn đề khác liên quan
đến chính sách hình sự.
Đối với tội giết người, cả quãng thòi gian dài chúng ta cũng chỉ căn cứ
vào 2 văn bản pháp luật đó là Thông tư 442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ
tướng Chính phủ và sắc luật 03 - SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính
phủ cách mạng lãm thòi Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nhược điểm của hai
văn bản trên chưa thể thiện được toàn diện và đầy đủ chính sách hình sự của
18
Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội giết người. Do vậy, việc
ban hành BLHS là một yêu cầu tất yếu khách quan, xuất phát từ nhiệm vụ của
giai đoạn cách mạng mới ở nước ta - giai đoạn cả nước xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đáp ứng việc thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp mới (Hiến pháp 1980)
tăng cường pháp chế, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội bảo vệ
tính mạng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện một bước hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
Bộ luật hình sự năm 1985 đã thể hiện được một cách rõ ràng chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước, quy định một cách thống nhất, cụ thể và
có hệ thống những vấn đề về tội phạm và hình phạt, trong đó đã thể hiện được
quan điểm: con người là vốn quý của xã hội, là đối tượng được luật hình sự
bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng của họ. Vì vậy BLHS
Việt Nam ngay sau chương I quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia đã
quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người ở chương n và tội giết người được quy định tại Điều 101.
"ỉ) Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a- Vì động cơ đê hèn; để thực hiện hoặc đ ể che dấu tội phạm khác.
b- Thực hiện tội phạm một cách man rợ; bằng cách lợi dụng nghề
nghiệp hoặc bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
c- Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn
nhân;
d- Giết nhiều người hoặc giết phụ nữ mà biết là có thai;
đ- Có tổ chức;
e- Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó phạm một tội nghiêm
trọng khác;
g- Có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm.
19
2) Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định ở khoản 1 điều này
hoặc không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt thì bị phạt tù từ năm năm đến hai
mươi năm.
3) Phạm tội trong tình trạng tinh thẩn bị kích động mạnh do hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với
người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
4) Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc
trong hòan cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vướt bỏ con
mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm".
Như vậy, Điều 101 BLHS quy định tội giết người, nhà làm luật không
mô tả cụ thể những dấu hiệu của tội này mà chỉ nêu tội danh với 4 khung hình
phạt tương ứng với 4 cấu thành của tội phạm này: 1- khoản 1 điều 101 quy
định cấu thành tăng nặng của tội giết người với khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình; 2 - khoản 2 điều 101 quy đinh cấu thành cơ bản của tội giết
người với mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù,3- khoản 3 điều 101 quy định
cấu thành giảm nhẹ của tội giết người với mức cao nhất của khung hình phạt
tương ứng là 5 năm tù;4- khoản 4 điều 101 quy đinh cấu thành giảm nhẹ đặc
biệt của tội giết người với mức cao nhất của khung hình phạt tương ứrtg là cải
tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù đến 2 năm.
1.2.1.
Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội giết người theo Bộ luật
hình sự hiện hành.
Việc phân tích các yếu tố cấu thành tội giết người rất quan trọng vì cấu
thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự. Một người chỉ có thể
phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ thoả mãn các dấu hiêu của
một cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự.
20
Khách thể của tội giết người
Tội giết người là tội nguy hiểm nhất trong nhóm các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người vì nó trực tiếp xâm phạm
đến một khách thể rất quan trọng đó là quyền sống của con người.
Khoa học pháp lý khẳng định sự sống của con người được xác đinh từ khi
đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ cất tiếng khóc chào đời cho đến khi tế bào hoàn toàn
tê liệt. VI vậy, thai khi còn trong bụng mẹ mà người mẹ phá thai thì không coi
là hành vi giết người, nhưng ngay sau khi thai nhi ra khỏi bụng mẹ, đứa bé cất
tiếng khóc chào đời và vì một lí do nào đó người mẹ giết đứa con mới đẻ đó
thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Giết người là hành vi
tước đi một cách cố ý quyền sống của người khác một cách trái pháp luật. Con
người với tư cách là đối tượng tác động của tội giết người được hiểu đồng thời
vói tính cách là một thực thể tự nhiên và thực thể xã hội. Vì thế, xác chết con
người (thi hài) không phải là đối tượng tác động của tội giết người.
Mặt khách quan của tội giết người
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi cố ý tước bỏ sinh mạng
người khác một cách trái pháp luật.
Hành vi “tước bỏ sinh mạng của người khác” phải là hành vi trái pháp
luật thì mới cấu thành tội giết người. Còn trong những trường hợp “tước bỏ
sinh mạng”người khác phù hợp với những qui đinh của pháp luật thì không
coi là tội phạm như hành vi phòng vệ chống trả lại một cách tương xứng người
tấn công xâm phạm đến các lợi ích hợp pháp đã tước bỏ mạng sống của người
tấn công và được thừa nhận là phòng vệ chính đáng hoặc hội đồng thi hành
hình phạt tử hình tước đoạt mạng sống của kẻ bị án tử hình.
Hành vi “tước bỏ sinh mạng” trong tội giết người thường được thực hiện
dưới dạng hành động phạm tội. Các hành động này có thể chỉ là một động tác
đơn giản xảy ra trong một thời gian ngắn cũng có thể là sự tổng hợp nhiều
động tác khác nhau, nhiều hành động lặp đi lặp lại trong một khoảng thời
gian nhất định Ví dụ: kẻ phạm tội đã đánh đập nhiều lần nạn nhân với ý thức
tước đi sinh mạng của nạn nhân dẫn đến cái chết cho nạn nhân.
Có những trường họp giết người được thực hiện dưới dạng không hành
động phạm tội. Đây là trường hợp người phạm tội có nghĩa vụ phải thực hiện
một công việc nhất định và có điều kiện cũng như khả năng để thực hiện nghĩa
vụ đó nhưng họ đã không thực hiện nghĩa vụ của mình với ý thức tước đi sinh
mạng của nạn nhân. Ví dụ: Người mẹ bằng cách không cho đứa con mới đẻ bú
với ý định giết con đã dẫn đến đứa trẻ chết vì khát sữa .
Dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong cấu thành tội giết
người là sự thiệt hại về tính mạng do hành vi của người phạm tội gây ra. Hậu
quả trực tiếp của tội giết người là gây ra cái chết cho nạn nhân. Nếu hậu quả
chết người đã xảy ra thì tội phạm được coi là đã hoàn thành. Trường hợp hậu
quả chết người chưa xảy ra vì những lí do khách quan gọi là phạm tội giết
người chưa đ ạ t.
Để xác định đúng hậu quả của tội phạm phải xác đinh được mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi của người phạm tội và cái chết đã xảy ra tức là giữa
hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật và hậu
quả chết người xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi trái pháp luật
nói trên là nguyên nhân phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Hành vi
đó phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người đối với
chính nạn nhân. Hành vi phải có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả; hậu
quả đã xảy ra là sự hiện thực hóa khả năng thực tế gây ra cái chết chứa đựng
trong hành vi của can phạm gây ra. Thực tiễn xét xử đã chứng minh rằng
không phải bất cứ hành vi nào dù chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả chết người cũng đều gây ra hậu quả chết người vì trong nhiều trường
hợp hậu quả chết người xảy ra còn chịu chi phối của nhiều yếu tố khác.
22