Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng Những kết quả và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.47 KB, 5 trang )

Tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng - Những kết quả và triển vọng

Khi nền kinh tế bộc lộ các vấn đề yếu kém cần thay đổi thì việc tái cơ cấu lại nền
kinh tế là điều cần thiết ở các quốc gia. Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế được
Chính phủ triển khai từ 2011 đến nay. Tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng
trong đó có các ngân hàng thương mại là một trong những nội dung đóng vai trò
quan trọng để đạt mục tiêu nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bài viết này bàn về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
thương mại giai đoạn từ 2011 đến nay với những kết quả đạt được cùng với những
đặt ra để từ đó đề xuất các khuyến nghị chính sách hiện nay.
1. Tổng quan về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng
Từ năm 2011, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn khi kinh tế
tăng trưởng có xu hướng chậm lại cùng với nhiều rủi ro của hệ thống ngân hàng
được tích lũy từ nhiều năm trước bắt đầu có ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh
tế vĩ mô. Nhiều tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản, nợ xấu cao có nguy
cơ đe dọa đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Do đó, tái cơ cấu, lành mạnh hóa hệ
thống ngân hàng là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn này. Ngày 1/3/2012
Chính phủ đã ban hành Quyết định 254/QĐ-TTg Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 và Quyết định 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 ban
hành Đề án Xử lý nợ xấu. Theo Quyết định 254, trọng tâm là chấn chỉnh làm lành
mạnh hóa hệ thống ngân hàng, giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời
tại các ngân hàng, thực hiện sát nhập, hợp nhất, mua lại, các tổ chức tín dụng nhằm
bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt
động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Theo Quyết định 843, Ngân
hàng Nhà nước thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam nhằm xử lý nợ xấu đang ở mức cao ở nhiều ngân hàng thương mại bao gồm
nợ xấu cấp tín dụng, nợ xấu mua trái phiếu doanh nghiệp và nợ xấu ủy thác cấp tín
dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp.
……Bên cạnh những bất ổn của hệ thống ngân hàng thì cơ cấu nền kinh tế và mô
hình tăng trưởng nước ta cũng bộc lộ nhiều yếu kém khi tăng trưởng kinh tế không
bền vững và có xu hướng giảm dần, lạm phát cao, số doanh nghiệp giải thể, phá


sản nhiều… Do đó, ngày 19/02/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 339/QĐ-TTg phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng hiệu quả và năng lực cạnh
tranh giai đoạn 2013-2020. Trong đó, về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng.
Ngoài ra, Chính phủ luôn coi ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng
thương mại có cổ phần chi phối của Nhà nước phải thực sự là lực lượng chủ lực,


chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng yếu kém cần có
phương án xử lý thích hợp. Chủ trương về tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng
được thể hiện xuyên suốt trong những năm tiếp theo trong Nghị Quyết 05-NQ/TW
ngày 1/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII).
Theo Nghị quyết 05, nhiệm vụ tái cơ cấu thị trường tài chính tiếp tục được triển
khai, trọng tâm là tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, lành mạnh hóa thị trường tài
chính, xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo, ban hành các quy định hỗ trợ xử
lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, tăng cường công tác thanh tra, giám
sát, quản trị rủi ro các tổ chức tín dụng.
Để tháo gỡ các vướng mắc trong xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Nghị quyết
42/2017/QH14 được ban hành ngày 21/6/2017 được ban hành trong đó đã có một
số quyền được mở rộng hơn tạo điều kiện cho việc xử lý nợ xấu của các TCTD
như: i) Khẳng định tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua
bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo
đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện
theo quy định; ii) Cho phép tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ
chức mua bán, xử lý nợ xấu bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công
khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giá thị trường,
có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ; iii) Cho phép Tòa án áp
dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm; mở rộng đối
tượng mua-bán nợ xấu đối với VAMC; Qui định về phương thức xử lý nợ xấu
trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, bất động sản, bị kê biên;

qui định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; qui định nghĩa vụ
thuế, phí khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm; và phương thức phân bổ lãi dự thu,
khoản chênh lệch khi bán nợ xấu của tổ chức tín dụng và VAMC…1.
Nhìn chung, nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
đã kịp thời ban hành các chính sách nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, nâng
cao năng lực quản trị, giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời tại các
ngân hàng đảm an toàn, ổn định của hệ thống, không để xảy ra đổ vỡ và mất an
toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát. Hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu
của Việt Nam đã có bước tiến lớn và dần hoàn thiện, tiến gần hơn với các thông lệ
quốc tế.
2. Kết quả thực hiện tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng
1 Cấn Văn Lực (2019). Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ

/>

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được đảm bảo, ổn định, giảm sở
hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại, không để xảy ra đổ vỡ phá sản
ngân hàng.
Hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhưng không gây sức ép cho lạm phát
tình hình thanh khoản và lạm phát diễn biến ổn định với rủi ro thấp hơn.
Niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng và đồng VND được củng cố và
đảm bảo không có hiện tượng rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng yếu kém. Lãi suất cho
vay có xu hướng giảm dần và ổn định đến nay góp hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiết
kiệm chi phí khi vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Dư nợ lĩnh vực phi sản xuất (nhất là cho vay bất động sản và chứng khoán) được
kiểm soát và điều chỉnh về mức hợp lý. Đồng thời, chuyển dịch cơ cấu tín dụng
theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của nhà nước bao gồm phát triển
nông nghiệp, nông thôn; phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu,
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ. Ngân
hàng Nhà nước cũng đã áp dụng trần lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với

các lĩnh vực ưu tiên, thấp hơn so với mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường.
Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng thương
mại, thực hiện triển khai các gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực ưu tiên.
Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng thương mại thông qua mua bán, sát nhập các ngân
hàng thương mại yếu kém. Có 3 Ngân hàng thương mại cổ phần được Ngân hàng
Nhà nước mua lại với giá 0 đồng. Đến nay, VNCB, Ocean Bank và GP Bank hiện
đã hoạt động bình thường trở lại, thanh khoản tốt, kết quả kinh doanh của ngân
hàng đã được cải thiện đáng kể, lỗ hoạt động giảm mạnh qua từng tháng. Đặc biệt,
nợ xấu của các ngân hàng đã giảm mạnh, 7 ngân hàng thương mại được sát nhập
cũng có tình hình tài chính lành mạnh và kết quả kinh doanh ổn định hơn2.
Bên cạnh các chính sách giảm lãi suất, cho vay ưu đãi với các đối tượng ưu tiên,
các tổ chức tín dụng đã chủ động triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu trong thời
gian qua góp phần làm lành mạnh hóa tình trạng tài chính giảm nợ xấu trong thời
gian qua. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2012 đến cuối tháng 6/2019, hệ thống các tổ
chức tín dụng đã xử lý được 937.5 nghìn tỷ đồng nợ xấu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng
xuống chỉ còn 1.91 dưới ngưỡng 2% được đưa ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ban
hành 1/1/2019. Kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có hiệu
2 7 ngân hàng được sát nhập vào các ngân hàng khác là: Habubank, Western Bank, DaiABank, MDBank,

MHBank, Southern Bank, GP Bank


quả bước đầu khi số lượng khác hành trả nợ các khoản được xếp vào nợ xấu tăng
lên phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã được cải thiện sau khi Nghị quyết đã
bổ sung thềm quyền cho các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có
quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và bán tài sản bảo đảm này theo
giá thị trường. Về kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017
đến cuối tháng 6/2019, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng
264,06 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 127,641 nghìn tỷ

đồng.
3. Những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Một số vấn đề đặt ra
Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam còn thiếu một thị trường mua bán nợ thực
sự khi các tổ chức tín dụng vẫn chủ yếu bán nợ cho VAMC và DATC mà hai công
ty này do nhà nước làm chủ sở hữu. Mặc dù, trong Nghị quyết 42/2017/QH14 quy
định các Tổ chức tín dụng được bán các khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo liên quan
một cách công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật và giá bán phù hợp
với giá thị trường, cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Việc mua bán
nợ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các nhà đầu tư nhất là đầu tư nước
ngoài với tổ chức tín dụng hiện chưa diễn ra. Bên cạnh đó, các điều kiện để thực
hiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ khá cao (tối thiểu vốn điều lệ 100 tỷ đồng đối
với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ và tối thiểu 500 tỷ đồng đối
với doanh nghiệp thành lập sàn giao dịch nợ, yêu cầu về quản lý nội bộ), Trong khi
thị trường vốn chưa phát triển (bên mua nợ muốn bán, chuyển nhượng các khoản
nợ còn khó khăn vì chưa có thị trường thứ cấp, các sản phẩm phái sinh như chứng
khoản bảo đảm bằng tài sản chưa có dẫn đến không thu hút được các nhà đầu tư
mua bán các khoản nợ).
Hiện nay với những diễn biến khó lường của tình hình kinh tế thế giới đã ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều tập đoàn có quy mô
lớn, điều này dễ dẫn đến gia tăng trực tiếp rủi ro cho các tập đoàn và dễ ảnh hưởng
tới hệ thống ngân hàng do ngân hàng có các khoản cho vay tín dụng quy mô lớn
đối với các tập đoàn này.
Bên cạnh đó, các diễn biến phức tạp về tình hình chiến tranh thương mại và các rủi
ro khác trên toàn cầu. Rủi ro từ chiến tranh thương mại Mỹ Trung Quốc ảnh hưởng
tới mục tiêu ổn định thị trường tiền tệ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng
đang là những thách thức liên quan tới việc tái cơ cấu hoạt động ngân hàng.
Một số khuyến nghị



Cần có cơ chuyến khuyến khích các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài,
các tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu. Nên nghiên cứu có
thể giảm các điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ xấu đối với doanh nghiệp
kinh doanh mua bán nợ và các doanh nghiệp thành lập sàn giao dịch nợ. Ngoài ra,
có thể nghiên cứu cho phép các sản phẩm chứng khoán phái sinh đối với các khoản
nợ được giao dịch trong thời gian tới để thu hút các nhà đầu tư mua bán các khoản
nợ. Thực tế, việc bán nợ cho VAMC thì thực chất là không phải mua bán hẳn mà
trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn phụ thuộc vào các ngân hàng bán nợ xấu, VAMC chỉ
phát hành trái phiếu đặc biệt khi mua các khoản nợ xấu của Ngân hàng thương mại
để từ đó giảm nợ xấu trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại, các
ngân hàng thương mại có thể dùng trái phiếu đặc biệt này để vay tái cấp vốn tại
Ngân hàng Nhà nước. Do đó, thu hút các nhà đầu tư tham gia vào thị trường mua
bán nợ xấu sẽ giúp cho tiến trình xử lý các khoản nợ xấu được đẩy nhanh hơn.
Hai là, trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại, cần nghiên cứu đánh
giá các khoản nợ lớn của các tập đoàn để có các biện pháp can thiệp cần thiết để
đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Ba là, trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cần xem xét các biến
động của kinh tế thế giới hiện nay để có những chiến lược ứng phó kịp thời. Cần
có các chính sách tỷ giá phù hợp để ứng phó kịp thời với việc các nước lớn phá giá
tiền tệ cũng như có những biện pháp đồng bộ và phù hợp trong hoạt động mua bán
ngoại tệ.
Tài liệu tham khảo:
PGS.TS. Tô Ngọc Hưng (2017). Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam hướng tới phát triển bền vững. Tạp chí Ngân hàng số 9 tháng 1-2/2017.
TS. Cấn Văn Lực (2019). Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết
42 và đề xuất tháo gỡ. Trường Đào tạo cán bộ BIDV.
TS. Cấn Văn Lực (2019). Việt Nam nằm trong danh sách theo dõi khả năng thao
túng tiền tệ - điều này có ý nghĩa gì?. Trường Đào tạo cán bộ BIDV.
J. Stiglitz và S. Yusuf (2002). Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội.




×