Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA THU NHẬP VÀ PHÂN BỔ TÀI SẢN ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.09 KB, 18 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA THU NHẬP VÀ PHÂN BỔ TÀI SẢN ĐẾN KHẢ
NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Nghiên cứu này nhằm đánh giá mối quan hệ giữa việc đa dạng hóa thu nhập và đa
dạng hóa phân bổ tài sản với khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại tại Việt
Nam. Các tác giả sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 32 ngân hàng thương mại hiện đang hoạt
động tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2017. Kết quả của nghiên cứu
đã chỉ ra rằng việc đa dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa phân bổ các tài sản có tác động
rất tích cực đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Mặt khác,
nghiên cứu cũng giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa một số yếu tố đặc thù của các ngân
hàng thương mại với hiệu quả hoạt động kinh doanh của các đơn vị này.

1. Giới thiệu
Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập và
toàn cầu hóa hiện nay khá phong phú và đa dạng. Các sản phẩm, dịch vụ của các ngân
hàng thương mại Việt Nam không còn gói gọn trong nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín
dụng truyền thống, mà đã mở rộng sang các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng khác
như: bảo hiểm, đầu tư, quản lý tài sản, kinh doanh chứng khoán,… Thu nhập từ các dịch
vụ tài chính và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư ngày càng góp phần quan trọng vào tổng
lợi nhuận hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Tuy vậy,
các hoạt động đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản hay kinh doanh ngoại tệ luôn là
những hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam đặc
biệt trong điều kiện khung pháp lý chi phối các hoạt động này ở Việt Nam vẫn trong giai
đoạn chưa hoàn thiện và năng lực quản trị rủi ro của bản thân các ngân hàng thương mại
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.

1


Các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa đa dạng hóa hoạt động và hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều kết quả trái ngược nhau về mối


quan hệ giữa 2 yếu tố này. Một số nghiên cứu trước cho rằng việc đa dạng hóa hoạt động
kinh doanh giúp cho các ngân hàng thương mại giảm thiểu được rủi ro và gia tăng hiệu
quả hoạt động (Nguyen và cộng sự, 2012; Deng và cộng sự, 2013). Bên cạnh đó, việc đa
dạng hóa hoạt động còn giúp nâng cao chất lượng nguồn thu nhập của các ngân hàng
thương mại thông qua việc tăng cường vai trò trung gian tài chính và việc giảm thiểu
vấn đề bất cân xứng thông tin trong hoạt động kinh doanh (Baele và cộng sự 2007;
Kohler, 2014). Trái lại, cũng có những nghiên cứu chỉ ra rằng không có mối quan hệ rõ
ràng giữa việc đa dạng hóa hoạt động với khả năng sinh lợi hay mức độ rủi ro của các
ngân hàng thương mại. Cụ thể, Cebenoyan và Strahan (2004) chỉ ra rằng các ngân hàng
thương mại có mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh cao thường phải đối mặt với
nhiều rủi ro hơn và thường duy trì tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao. Điều này làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi nhuận của các đơn vị này trong trường hợp môi trường kinh doanh
có những biến động xấu. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác về các ngân hàng thương
mại tại EU và Mỹ cũng cho thấy các ngân hàng thương mại càng triển khai nhiều sản
phẩm, dịch vụ tài chính bên ngoài hoạt động tín dụng và huy động vốn thông thường
càng phải đối mặt với nhiều rủi ro và có lợi nhuận biến động bất thường mặc dù mối
quan hệ tác động này có thể thay đổi tùy thuộc vào quy mô, đặc điểm sở hữu và loại
hình sản phẩm, dịch vụ tài chính phi lãi mà các đơn vị này cung cấp cho thị trường
(DeYoung và Rice, 2004; Stiroh và Rumble, 2006; Lepetit và cộng sự, 2008).
Để xác định mối quan hệ giữa đa dạng hóa và hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam, các tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu được đề xuất bởi
Stiroh và Rumble (2006), Goddard và cộng sự, (2008), Sanya và Wolfe (2011). Các tác
giả sử dụng chỉ tiêu ROAA (Return on Average Assets – Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản
bình quân) là thước đo hiệu quả kinh doanh và chỉ số AHHI (Adjusted Herfindahl
Hirschman Index – chỉ số Herfindahl Hirschman hiệu chỉnh) để đo lường mức độ đa
dạng hóa thu nhập và mức độ đa dạng hóa phân bổ tài sản của các ngân hàng thương mại
tại Việt Nam. Ngoài ra, các tác giả cũng bổ sung vào mô hình nghiên cứu chỉ tiêu tăng
2



trưởng GDP hằng năm và tỷ lệ lạm phát hàng năm để kiểm soát những thay đổi vĩ mô
của nền kinh tế như một số nghiên cứu thực nghiệm thường áp dụng.
Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đa dạng hóa và hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thường tập trung lấy mẫu quan sát chủ yếu ở Mỹ và các quốc gia
phát triển. Có rất ít nghiên cứu về vấn đề này tại các nền kinh tế mới nổi và đặc biệt
chưa có nghiên cứu nào được tiến hành riêng biệt cho các ngân hàng thương mại tại Việt
Nam. Do vậy, đóng góp của nghiên cứu này đó là xác định rõ mối quan hệ giữa việc đa
dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa phân bổ tài sản đến hiệu quả kinh doanh của các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam. Đây là vấn đề không chỉ liên quan trực tiếp đến bản thân
các ngân hàng thương mại mà đó còn là một đề tài được các cơ quan quản lý hoạt động
ngân hàng tại Việt Nam hết sức lưu tâm nhằm đưa ra các chính sách định hướng phát
triển và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm
Các nghiên cứu thực nghiệm hiện nay về hoạt động của các ngân hàng thương mại
vẫn chưa đưa ra được câu trả lời thuyết phục cho câu hỏi rằng “Các ngân hàng thương
mại có nên đa dạng hóa các dịch vụ, sản phẩm tài chính và tăng cường sự hiện diện tại
các vùng lãnh thổ và quốc gia khác nhau hay không ?”. Trái lại, các nghiên cứu trước
đây đưa đến 2 luồng quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu
nhập và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (Berger và cộng sự 2010).
Một luồng quan điểm cho rằng việc đa dạng hóa giúp cho các ngân hàng thương
mại tăng cường hiệu quả hoạt động và mức độ ổn định. Các quan điểm này xuất phát từ
lý thuyết hiệu quả kinh tế theo quy mô (Economic of Scale). Theo đó, việc các ngân
hàng thương mại mở rộng hay phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới hay mở
rộng phạm vi hoạt động trong phạm vi quốc gia hoặc quốc tế sẽ giúp cho các đơn vị này
chia sẽ các chi phí cố định và tận dụng được năng lực quản lý cho các sản phẩm, dịch vụ
tài chính khác nhau hay cho các chi nhánh tại các vùng lãnh thổ và quốc gia khác nhau
(Drucker và Puri, 2009). Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ cũng giúp
các ngân hàng thương mại đáp ứng được tối đa nhu cầu về các dịch vụ tài chính hay kích

3



thích việc sử dụng các dịch vụ tài chính khác nhau của các khách hàng sẳn có tại ngân
hàng từ đó góp phần gia tăng lợi nhuận cho bản thân các ngân hàng.
Nghiên cứu của Sanya và Wolfe (2011) phân tích mẫu quan sát gồm các ngân hàng
thương mại từ 11 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007 đã chỉ
ra rằng đa dạng hóa giúp tăng cường khả năng sinh lời và mức độ ổn định của các ngân
hàng thương mại. Tiếp theo, nghiên cứu của Kohler (2014) về các ngân hàng thương mại
ở Đức chỉ ra rằng các khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của các ngân hàng theo xu
hướng bán lẻ được cải thiện rõ nét khi các đơn vị này tăng cường cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ tài chính bên ngoài hoạt động cho vay truyền thống. Mặt khác, Nghiên
cứu của Lee và cộng sự (2014) về cấu trúc tài chính và việc tái cấu trúc của các ngân
hàng thương mại tại 29 quốc gia thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương cũng cho thấy
các ngân hàng có khả năng cải thiện được hiệu quả hoạt động khi thực hiện đa dạng hóa.
Ngoài ra, Saghi-Zedek (2016) nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu đến sự đa dạng
hóa của các ngân hàng tại Châu Âu đã cho thấy rằng các ngân hàng bị chi phối bởi các
ngân hàng khác, các tổ chức đầu tư hay các doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sinh
lời tốt hơn các đơn vị khác. Ngoài ra, tác giả này cũng chứng minh rằng việc đa dạng
hóa hoạt động giúp cải thiện khả năng sinh lời, giảm thiểu mức độ biến động của thu
nhập và khả năng phá sản của các đơn vị này. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Sissy và
cộng sự (2017) sử dụng mẫu quan sát gồm 320 ngân hàng thương mại tại 29 quốc gia
Châu Phi đã nhận thấy rằng các lợi nhuận của các ngân hàng thương mại được cải thiện
khi các đơn vị này mở rộng phạm vi hoạt động xuyên biên giới. Cụ thể hơn, nghiên cứu
của Deng và Elyasiani (2008) chỉ ra rằng việc các ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt
động ở các quốc gia khác nhau giúp cho các đơn vị này có cơ hội tiếp cận được các thị
trường vốn tại các quốc gia khác nhau và điều này giúp giảm bớt chi phí nguồn vốn và
góp phần gia tăng lợi nhuận. Mặt khác, nghiên cứu này cũng chứng minh được rằng các
ngân hàng đa quốc gia cũng có khả năng giảm bớt gánh nặng về thuế, từ đó, làm gia tăng
lợi nhuận cho các cổ đông vì các đơn vị này có thể điều chuyển lợi nhuận từ các quốc
gia có thuế suất cao sang các quốc gia có mức thuế suất thấp hơn.


4


Trái ngược quan điểm với các nghiên cứu trên, cũng có rất nhiều nghiên cứu thực
nghiệm lại chỉ ra rằng việc đa dạng hóa hoạt động làm gia tăng rủi ro và làm suy giảm
lợi nhuận của các ngân hàng thương mại. Quan điểm này xuất phát từ lập luận cho rằng
các ngân hàng thương mại thực hiện đa dạng hóa sẽ bị pha loãng lợi thế so sánh trong
công tác quản trị vì việc đa dạng hóa làm cho phạm vi hoạt động các đơn vị này vượt
quá lãnh vực chuyên môn hiện tại (Klein và Saidenberg, 1998). Mặt khác, việc đa dạng
hóa hoạt động làm cho ngân hàng phải gánh chịu thêm các áp lực cạnh tranh từ các lãnh
vực mới (Winton, 1999). Ngoài ra, việc đa dạng hóa cũng làm gia tăng chi phí đại diện
trong hoạt động vì ngân hàng phải thực hiện thuê thêm nhân sự để quản lý các mảng
hoạt động kinh doanh mới phát sinh (Deng và Elyasiani, 2008) . Cụ thể, nghiên cứu của
Acharya và cộng sự (2006) đã chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa việc gia tăng tỷ trọng
thu nhập phi lãi trong tổng thu nhập với việc suy giảm khả năng sinh lời của các ngân
hàng thương mại vì các tác giả này cho rằng việc đa dạng hóa hoạt động làm suy giảm
năng lực quản lý và giám sát các khoản mục tín dụng của ngân hàng (điều này dẫn đến
các khoản mục tín dụng không đảm bảo chất lượng và làm suy giảm lợi nhuận). Tương
tự, nghiên cứu của Lepetit và cộng sự (2008) nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa rủi ro và
việc đa dạng hóa sản phẩm của các ngân hàng thương mại Châu Âu trong giai đoạn năm
1996 đến năm 2002 đã chỉ ra rằng các ngân hàng thương mại có rủi ro tín dụng cao lại là
các đơn vị có xu hướng tăng cường triển khai các sản phẩm, dịch vụ bên ngoài hoạt
động tín dụng truyền thống. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Berger và cộng sự 2010 đã cho
kết quả là việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và đa dạng hóa vùng lãnh thổ hoạt động
của các ngân hàng tại Trung Quốc làm gia tăng chi phí và suy giảm lợi nhuận của các
đơn vị này. Ngoài ra, Delpachitra và Lester (2013) nghiên cứu việc đa dạng hóa của các
ngân hàng tại Úc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009 cho thấy rằng việc đa dạng hóa
thu nhập của ngân hàng không góp phần cải thiện lợi nhuận và cũng không giúp giảm
thiểu rủi ro hoạt động.

Trên thực tế, các vụ phá sản hay khó khăn của các ngân hàng thương mại tại Mỹ
trong những năm gần đây ủng hộ cả 2 quan điểm nêu trên. Cụ thể, các bằng chứng ủng
hộ quan điểm đa dạng hóa góp phần cải thiện lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro như: việc
5


phá sản của ngân hàng Continental Illinoi tại Mỹ vào năm 1984, được xem là vụ phá sản
ngân hàng lớn nhất tại Mỹ tính đến thời điểm bấy giờ, có nguyên nhân chủ yếu xuất phát
từ việc ngân hàng này tập trung quá mức vào các khoản cho vay trong lĩnh vực năng
lượng. Vụ sụp đổ của ngân hàng New England trong gian đoạn 1989 – 1991 có nguyên
nhân từ việc ngân hàng này tập trung quá nhiều vào các khoản cho vay bất động sản
thương mại tại khu vực New England. Trái lại, những bằng chứng ủng hộ việc đa dạng
hóa làm suy giảm lợi nhuận và làm tăng mức độ rủi ro của các ngân hàng như: các rủi ro
tín dụng phát sinh từ việc đa dạng hóa quá nhanh của Bank of America và Credit
Lyonnais trong những năm 1980. Gần nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 có nguyên
nhân từ việc các ngân hàng thương mại tại Mỹ tham gia quá mức vào thị trường trái
phiếu thứ cấp liên quan đến tín dụng bất động sản (Berger và cộng sự 2010).
3. Dữ liệu và mô hình nghiên cứu
3.1 Dữ liệu nghiên cứu
Để xác định mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa phân bổ tài sản
đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, các tác giả thực
hiện thu thập dữ liệu của 32 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm
2000 đến năm 2017. Các chỉ số tài chính của các ngân hàng thương mại được lấy từ
nguồn dữ liệu Bankscope, các chỉ số thể hiện các đặc điểm vĩ mô của nền kinh tế Việt
Nam được lấy từ nguồn dữ liệu IMF.
3.1.1Biến phụ thuộc trong mô hình
Để đo lường khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại, các tác giả sử dụng
chỉ tiêu ROAA (Return on Average Assets – Tỷ lệ lợi nhuận ròng/tổng tài sản bình
quân). Chỉ tiêu này đã được sử dụng để đo lường hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
thương mại trong các nghiên cứu của Berger và cộng sự (2010), Sanya và Wolfe (2011),

Nguyen và cộng sự (2012).
3.1.2Các biến độc lập trong mô hình

 Các biến giải thích đo lường mức độ đa dạng hóa của các ngân hàng thương mại

6


Các tác giả đo lường mức độ đa dạng hóa hoạt động của các ngân hàng thương
mại ở 2 góc độ khác nhau: sự đa dạng hóa trong thu nhập và sự đa dạng trong việc phân
bổ tài sản.
Để đo lường mức độ đa dạng hóa trong thu nhập của các ngân hàng, các tác giả áp
dụng phương pháp được sử dụng trong các nghiên cứu của Stiroh và Rumble (2006),
Goddard và cộng sự (2008). Theo đó, các tác giả tính chỉ số Herfindahl Hirschman hiệu
chỉnh (AHHI - Adjusted Herfindahl Hirschman Index) cho tất cả các quan sát trong
mẫu nghiên cứu theo công thức sau:
AHHINOI = 1 – [(NII/NOI)2 + (NON/NOI)2]
Trong đó:
NOI: Net operation income - Lợi nhuận ròng từ hoạt động
NII: Net interest income - Lợi nhuận ròng từ hoạt động cho vay
NON: Non interest income - Lợi nhuận ròng từ các hoạt động kinh doanh khác của ngân
hàng không bao gồm lợi nhuận ròng từ hoạt động cho vay.
Chỉ số AHHINOI đo lường mức độ đa dạng hóa trong hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại. Chỉ số này có giá trị biến động trong khoảng từ 0 – 0.5. Cụ
thể, nếu mức độ đa dạng hóa bằng không, nghĩa là nguồn lợi nhuận ròng từ hoạt động
kinh doanh của ngân chỉ từ một nguồn duy nhất là lợi nhuận ròng từ hoạt động cho vay
hay lợi nhuận ròng từ các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng, chỉ số này sẽ có giá
trị 0. Ngược lại, khi giá trị của chỉ số này bằng 0.5 nghĩa là ngân hàng đã đa dạng hóa lợi
nhuận hoạt động kinh doanh ở mức cao nhất.
Để tăng cường tính chặt chẽ và khách quan cho nghiên cứu, tác giả tiến hành đo

lường thêm mức độ đa dạng hóa của các ngân hàng thông qua việc đo lường mức độ đa
dạng trong việc phân bổ tài sản. Dựa theo phương pháp đo lường mức độ đa dạng hóa
trong việc phân bổ tài sản được sử dụng trong nghiên cứu của Elsas và cộng sự (2010),
các tác giả tính toán chỉ số AHHIOEA cho các tài sản sinh lời của các ngân hàng thương
mại trong nghiên cứu theo công thức sau:
AHHIOEA = 1 – {[(LOAN / (LOAN + OEA)]2 + [OEA / (LOAN + OEA)]2}
Trong đó:
7


LOAN: tổng dư nợ tín dụng ròng.
OEA: tổng tài sản sinh lời của ngân hàng không bao gồm khoản mục tín dụng.

 Các biến giải thích thể hiện những đặc điểm của các ngân hàng thương mại
Tương tự các nghiên cứu Berger và cộng sự (2010), nghiên cứu của Kohler
(2014), các tác giả cũng đưa vào mô hình nghiên cứu các biến thể hiện những đặc điểm
riêng của các ngân hàng thương mại có thể ảnh hưởng đến tác động của việc đa dạng hóa
đến hiệu quả hoạt động của các đơn vị này. Những biến giải thích thể hiện những đặc
điểm của các ngân hàng thương mại như: quy mô tổng tài sản, tỷ lệ tổng chi phí/tổng thu
nhập, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, tỷ lệ tiền gởi
khách hàng/tổng tài sản, tỷ lệ dư nợ tín dụng/tổng tài sản, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ tín
dụng.
Biến quy mô tổng tài sản ngân hàng được xác định bằng Logarith tự nhiên tổng
giá trị tài sản của ngân hàng thương mại. Theo lý thuyết hiệu suất theo quy mô thì các
ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn có thể tiết giảm được chi phí trong hoạt động huy
động vốn, tăng cường hiệu quả trong hoạt động cho vay và có thể chia sẽ các chi phí
quản lý cố định cho nhiều các sản phẩm dịch vụ khác nhau. Do vậy, các nghiên cứu của
Ioannidis và cộng sự (2010), Matousek và Stewart (2009) đều cho rằng các ngân hàng có
quy mô tổng tài sản lớn hơn thì sẽ có khả năng sinh lợi cao hơn các đơn vị khác.
Các tác giả sử dụng chỉ số tỷ lệ chi phí/thu nhập để đo lường mức độ hiệu quả hoạt

động của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có mức độ hiệu quả hoạt động cao
thường có khả năng tiết giảm chi phí và tăng cường chất lượng của các nguồn thu từ các
sản phẩm và dịch vụ tài chính và từ đó, làm gia tăng mức độ an toàn và khả năng sinh lợi
của các đơn vị này (DeYoung và Rice, 2004).
Có 2 quan điểm trái ngược nhau về tác động của tăng trưởng quy mô tổng tài sản
đến mức độ an toàn và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại. Một quan điểm
cho rằng, việc tăng trưởng quy mô tổng tài sản quá nhanh tiềm ẩn nhiều rủi ro và có thể
làm suy giảm lợi nhuận của các ngân hàng. Cụ thể, Fu và cộng sự (2014) cho rằng các
nước trong khu vực Đông Nam Á trong một thời gian dài áp dụng chính sách mở rộng tín
dụng ngân hàng để kích thích sự phát triển của nền kinh tế. Các ngân hàng tại các quốc
8


gia này được sử dụng như một kênh dẫn vốn cho các lĩnh vực kinh tế ưu tiên của quốc
gia. Và điều này làm cho quy mô tài sản của các ngân hàng tăng trưởng nhanh chóng.
Tuy nhiên, điều này cũng làm cho các ngân hàng mất đi động lực để xây dựng một chính
sách tín dụng hợp lý và an toàn. Kết quả là các đơn vị này phải đối mặt với sự gia tăng
nhanh chóng rủi ro tín dụng và sụt giảm lợi nhuận. Cùng quan điểm trên, Abedifar và
cộng sự (2013) cho rằng việc tăng trưởng quy mô tổng tài sản quá nhanh có thể dẫn đến
những rủi ro về đạo đức hay làm phát sinh những sự lựa chọn bất lợi trong hoạt động
kinh doanh nếu các ngân hàng nới lỏng các tiêu chuẩn đánh giá và giám sát các khoản
cho vay. Trái lại, cũng có quan điểm cho rằng việc tăng trưởng tổng quy mô tài sản một
cách nhanh chóng là biểu hiện của việc tăng cường đầu tư và đa dạng hóa hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Và đây là một dấu hiệu tốt cho việc tăng cường mức độ an toàn và
hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng.
Chỉ tiêu vốn chủ sở hữu/tổng tài sản thể hiện năng lực vốn chủ sở hữu của các
ngân hàng thương mại. Các nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Mirzaei và
cộng sự (2013) đều chỉ ra rằng nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào của một ngân hảng sẽ làm
tăng mức độ uy tín của bản thân đơn vị này, góp phần giảm thiểu chi phí huy động vốn,
rủi ro phá sản và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Tỷ lệ tiền gửi/tổng tài sản thể hiện khả năng thanh khoản của các ngân hàng
thương mại. Nghiên cứu của Wagner (2007) đã chỉ ra rằng chỉ số này có tác động tích cực
đến khả năng sinh lời và mức độ ổn định của các ngân hàng.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng/tổng tài sản thể hiện mức độ ưu tiên của ngân hàng thương
mại đối với hoạt động tín dụng truyền thống. Các ngân hàng thương mại có tỷ lệ này
càng cao thì khả năng sinh lời càng tốt. Tuy nhiên, các đơn vị cũng phải đối mặt với sự
gia tăng của rủi ro tín dụng. Cụ thể, Bourkhis và Nabi (2013) chỉ ra rằng tỷ lệ dư nợ tín
dụng/tổng tài sản có tương quan nghịch với mức độ ổn định của các ngân hàng thương
mại. Tuy vậy, Kohler (2014) lại cho rằng các ngân hàng thương mại tập trung nhiều vào
hoạt động tín dụng sẽ ít rủi ro và có mức độ ổn định tốt hơn các đơn vị khác.

 Các biến giải thích thể hiện các đặc điểm vĩ mô của nền kinh tế.

9


Trong mô hình của các nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng, các tác
giả thường đưa vào các biến kiểm soát thể hiện những đặc điểm vĩ mô của nền kinh tế
như: tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm và tỷ lệ lạm phát hàng năm. Do vậy, trong nghiên
cứu này, các tác giả cũng đưa vào mô hình nghiên cứu 2 biến giải thích là GDP_Gro và
InfRate để thể hiện tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát hàng năm của nền kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Bởi lẽ, tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát của
nền kinh tế là 2 yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro
của các ngân hàng thương mại.
3.2 Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở tham khảo mô hình nghiên cứu của Stiroh và Rumble (2006), Acharya
và cộng sự (2006), Sanya và Wolfe (2011), các tác giả thực hiện ước lượng trên mô hình
nghiên cứu như sau:
Bank profitability = f (Diversication, Bankspecific, Controls)
Cụ thể hơn, mô hình nghiên cứu có dạng chi tiết như sau:

Yit = β1DIVit + β2BSit + β3MACit + εit
Trong đó, i và t tương ứng với ngân hàng thương mại thứ i tại năm t. Y it là biến
phụ thuộc thể hiện khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại. DIV it là biến giải
thích thể hiện mức độ đa dạng hóa trong thu nhập hay mức độ đa dạng hóa trong việc
phân bổ tài sản của các ngân hàng thương mại. BS it là vector các đặc điểm cụ thể của các
ngân hàng thương mại có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các đơn vị này. MACit là
vector các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh
lợi của các ngân hàng thương mại. β 1, β2 và β3 là các vector hệ số hồi quy của các biến
giải thích trong mô hình, εit là sai số ngẫu nhiên trong mô hình nghiên cứu.
3.3 Mô tả dữ liệu nghiên cứu
Các tác giả sử dụng dữ liệu các báo cáo tài chính và báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn năm 2000 đến 2017.
Mẫu dữ liệu nghiên cứu bao gồm 32 ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam.
Dữ liệu của nghiên cứu này thuộc dạng dữ liệu bảng không cân xứng vì sự không đồng
nhất về tính sẵn có của các dữ liệu báo cáo tài chính theo từng năm của các ngân hàng
10


trong mẫu quan sát. Danh sách các ngân hàng thương mại trong mẫu quan sát được trình
bày chi tiết trong bảng 1.
Bảng 1: Các ngân hàng thương mại trong mẫu dữ liệu nghiên cứu
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13
14
15
16

Tên ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và
phát triển Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Ngân hàng thương mại cổ phần
xuất nhập khẩu Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phấn Á Châu
Ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn Thương Tín
Ngân hàng thương mại cổ phần
Kỹ thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn – Hà Nội
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải
Việt Nam

Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển
thành phố Hồ Chí Minh
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam
Á
Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện
Liên Việt
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn Công Thương

Stt

Tên ngân hàng thương mại

17

Ngân hàng TNHH MTV Public Việt Nam

18

Ngân hàng thương mại cổ phần
Quốc tế Việt Nam

19

Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á

20

Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương


21

Ngân hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam

22

Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình

23
24
25

Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển
nhà đồng bằng sông Cửu Long
Ngân hàng TNHH MTV ANZ Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần
Phương Đông

26

Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong

27

Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Việt Nam

28

Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á


29
30
31
32

Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu
Petrolimex
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc dân
Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam Thịnh Vượng
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội

Bảng số 2 và 3 trình bày thống kê mô tả các biến phụ thuộc và ma trận tương quan
của các biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu.

11


Bảng 2: Thống kê mô tả các biến giải thích thể hiện đặc điểm các ngân hàng và
các biến thể hiện đặc điểm vĩ mô nền kinh tế
Biến thể hiện đặc điểm
ngân hàng thương mại
Ln_Ass
Asset_gro
Impaired_Loan
Equity_TotalAss
Loan_Asset
Cus_depo_TotalAss
Cost_Inco

AHHI_NOI
AHHI_OEA
Biến thể hiện đặc điểm
vĩ mô nền kinh tế
InfRate
GDP_Gro

Giá trị
trung bình
4.8343
26.3508
2.6515
9.8374
0.5436
0.6488
51.5275
0.2876
0.6026
Giá trị
trung bình

Độ lệch
chuẩn
0.6236
31.3656
2.0512
5.4750
0.1397
0.1307
14.4584

0.1232
0.1833
Độ lệch
chuẩn

8.0349
6.0506

6.8657
4.2957

Cực tiểu

Cực đại

2.8347
-39.2400
0.0200
2.5750
0.1334
0.2923
22.9390
0.0091
0.1271
Cực tiểu

6.0855
171.1000
14.5090
33.8100

0.8448
0.9282
126.7950
0.4999
0.9810
Cực đại

-0.1908
-4.5121

22.6733
16.2923

(Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả từ mẫu dữ liệu quan sát)
Giải thích các biến trong mô hình nghiên cứu: Ln_Ass: Logarit tự nhiên tổng giá trị tài sản của các ngân
hàng thương mại, Asset_gro: tốc độ tăng trưởng tổng tài sản hàng năm của các ngân hàng,
Impaired_Loan: tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ tín dụng, Equity_TotalAss: tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản,
Loan_Asset: tỷ lệ dư nợ tín dụng/tổng tài sản, Cus_depo_TotalAss: tỷ lệ tiền gửi khách hàng/tổng tài sản,
Cost_Inco: tỷ lệ tổng chi phí/tổng thu nhập, AHHI_NOI: hệ số Herfindahl Hirschman đo lường mức độ
đa dạng hóa thu nhập của các ngân hàng, AHHI_OEA: hệ số Herfindahl Hirschman đo lường mức độ đa
dạng hóa trong việc phân bổ tài sản của các ngân hàng, InfRate: tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế Việt Nam,
GDP_Gro: tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam.

Bảng 3: Ma trận tương quan các biến trong mô hình nghiên cứu
ROAA

Ln_Ass

Asset_gro


ROAA

1

Ln_Ass

-0.2720

1

Impaired_
Loan

Equity_
TotalAss

Loan_Asset

Cus_depo
TotalAss

Cost_Inco

Asset_gro
Impaired_
Loan
Equity_
TotalAss

0.3392


-0.1884

1

-0.2127

0.0226

-0.1179

1

0.4480

-0.5982

-0.0478

-0.0445

1

Loan_Asset

-0.0776

0.1576

-0.0779


0.2185

-0.006

1

Cus_depo
_TotalAss

0.2043

0.3139

-0.384

0.0455

-0.1503

0.2572

1

Cost_Inco

-0.7291

0.0482


-0.3248

0.1202

-0.2155

-0.0543

0.0834

1

0.2744

-0.0773

0.1436

0.0568

0.0418

-0.2750

0.0063

-0.2960

AHHI_NOI


12

AHHI_NOI

1

AHHI_OE
A

InfRate

GNI_Gro


AHHI_OE
A
InfRate
GNI_Gro

0.1475

-0.1524

0.0714

-0.2777

0.0409

-0.9382


-0.2563

-0.0189

0.2438

1

-0.3273

-0.1269

0.1203

0.1072

0.0451

-0.0438

-0.377

-0.2823

0.2003

-0.0003

1


0.0148

0.0065

0.0886

-0.0192

-0.0047

-0.1011

-0.0867

-0.0401

-0.0489

0.0940

0.0416

(Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả từ mẫu dữ liệu quan sát)
Từ kết quả ma trận hệ số tương quan của các biến trong mô hình nghiên cứu được
trình bày trong Bảng 3, ta có thể thấy rằng biến AHHI_NOI, thể hiện mức độ đa dạng hóa
trong việc phân bổ thu nhập, và biến AHHI_OEA, đại diện mức độ đa dạng hóa trong
việc phân bổ tài sản, có tương quan thuận với biến ROAA, khả năng sinh lợi của các
ngân hàng thương mại. Các biến đại diện cho các đặc điểm của các ngân hàng thương
mại như: Ln_Ass, Impaired_Loan, Loan_Asset, Cost_Inco có tương quan nghịch với biến

ROAA. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản,
tỷ lệ tiền gửi khách hàng/tổng tài sản (đại diện bởi biến Asset_gro, Equity_TotalAss và
Cus_depo_TotalAss) lại có tương quan cùng chiều với khả năng sinh lời của các ngân
hàng thương mại.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết quả mô hình nghiên cứu tác động của việc đa dạng hóa hoạt động đến khả
năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại được trình bày trong bảng 4 bên dưới. Mô
hình 1 và mô hình 2 lần lượt thể hiện tác động của việc đa dạng hóa thu nhập và đa dạng
hóa trong việc phân bổ tài sản đến chỉ tiêu ROAA, khả năng sinh lợi của các ngân hàng
thương mại. Từ kết quả của 2 mô hình nghiên cứu, ta có thể thấy rằng việc đa dạng hóa
thu nhập và đa dạng hóa trong việc phân bổ tài sản đều có tác động tích cực làm tăng khả
năng sinh lời của các ngân hàng thương mại. Kết quả này tương đồng với các kết quả
nghiên cứu của Drucker và Puri (2009), Sanya và Wolfe (2011), Kohler (2014), Lee và
cộng sự (2014) đã được trình bày. Qua đó, ta có thể thấy rằng việc đa dạng hóa thu nhập
và đa dạng hóa việc phân bổ tài sản của các ngân hàng thương mại giúp tăng cường khả
năng sinh lời của các đơn vị này. Việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tài chính không
chỉ giúp cho các ngân hàng thương mại Việt Nam phân bổ được rủi ro trong hoạt động
mà còn giúp cho các đơn vị này tận dụng ưu thế về nguồn khách hàng và mạng lưới hoạt
động có để bán chéo các sản phẩm dịch vụ tài chính nhằm gia tăng doanh thu và lợi
13

1


nhuận. Cụ thể, Drucker và Puri (2009) đã chỉ ra rằng việc ngân hàng thương mại thực
hiện đa dạng hóa sâu rộng có thể giúp các đơn vị này chia sẽ chi phí cố định cho các sản
phẩm, dịch vụ và các vùng lãnh thổ khác nhau. Đồng thời, việc đa dạng hóa này cũng
giúp cho ngân hàng có thể cung cấp đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ tài chính cho các đối
tượng khách hàng có nhiều nhu cầu khác nhau.
Bảng 4: Kết quả mô hình nghiên cứu tác động của việc đa dạng hóa thu nhập và

đa dạng hóa phân bổ tài sản đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại
tại Việt Nam trong giai đoạn năm 2000 - 2017
Mô hình 1
Biến giải thích
Hệ số hồi quy
Ln_Ass
0.1134**
(0.0579)
Asset_gro
0.0027***
(0.0008)
Impaired_Loan
-0.0012**
(0.0113)
Equity_TotalAss
0.0387***
(0.0059)
Loan_Asset
1.9460***
(0.3499)
Cus_depo_TotalAss
0.8573***
(0.2193)
Cost_Inco
-0.0287***
(0.0020)
AHHI_OEA
1.6564***
(0.2511)
GDP_Gro

-0.0054
(0.0046)
InfRate
0.0342
(0.0014)

Mô hình 2
Biến giải thích
Hệ số hồi quy
Ln_Ass
0.3695***
(0.0402)
Asset_gro
0.0040***
(0.0008)
Impaired_Loan
-0.0113*
(0.0122)
Equity_TotalAss
0.0499***
(0.0060)
Loan_Asset
0.3697
(0.2399)
Cus_depo_TotalAss
0.7365***
(0.2248)
Cost_Inco
-0.0263***
(0.0021)

AHHI_NOI
0.8381***
(0.2076)
GDP_Gro
-0.0026
(0.0048)
InfRate
0.0562
(0.0218)

(Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả từ mẫu dữ liệu quan sát)
Ghi chú: Giá trị sai số chuẩn của hệ số hồi quy được trình bày trong dấu “( )”.
*:mức ý nghĩa thống kê 10%.
**:mức ý nghĩa thống kê 5%.
***:mức ý nghĩa thống kê 1%.

Đối với các biến giải thích thể hiện những đặc điểm của các ngân hàng thương
mại, từ kết quả nghiên cứu các tác giả nhận thấy rằng quy mô tổng tài sản và tốc độ tăng
14


trưởng quy mô tổng tài sản đều có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lợi của các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam. Kết quả này trùng khớp với kết quả nghiên cứu của
Ioannidis và cộng sự (2010), Matousek và Stewart (2009). Kết quả này chỉ ra rằng các
ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang tận dụng được lợi thế theo quy mô của đơn
vị mình để tăng cường khả năng sinh lợi và hiệu quả hoạt động. Do vậy, các ngân hàng
thương mại Việt Nam nên có chiến lược tăng cường độ phủ của mạng lưới chi nhánh,
phòng giao dịch trên khắp các tỉnh thành hay mở rộng hoạt động sang các quốc gia tiềm
năng thay vì chỉ tập trung tại các thành phố lớn của Việt Nam như hiện nay. Tuy vậy, việc
tăng cường mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch và mở rộng hoạt động kinh doanh phải

luôn gắn liền với việc tăng cường công tác kiểm soát rủi ro và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng năng lực vốn chủ sở hữu
cũng có tác động rất tích đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại. Kết quả
này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Caporale và
cộng sự (2012), Mirzaei và cộng sự (2013). Bởi lẽ, các tác giả này cho rằng các ngân
hàng thương mại có nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào thường có công tác quản trị rủi ro và
quản trị hiệu quả kinh doanh tốt hơn các đơn vị khác. Bên cạnh đó, nguồn vốn chủ sở hữu
dồi dào còn góp phần tăng cường uy tín của các đơn vị này giúp giảm thiểu chi phí sử
dụng vốn và nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường.
Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ tiền gửi khách hàng/tổng tài sản
có tác động tích cực đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại. Kết quả này
trùng khớp với nghiên cứu của Lehar (2005) và Wagner (2007). Các tác giả này cho rằng
các ngân hàng thương mại có khả năng huy động vốn tốt sẽ giảm được rủi ro thanh khoản
vì có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau khi cần thiết. Mặt khác, các tác giả này
cũng chứng minh rằng các ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt có nhiều cơ hội đa
dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ phi lãi từ đó góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động và
mức độ ổn định của chính các đơn vị này.
5. Kết luận

15


Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã một lần nữa chứng minh tầm quan
trọng của sự ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại đối với sự ổn định chung của
nền kinh tế mỗi quốc gia. Xác định tác động của việc đa dạng hóa nguồn thu nhập và đa
dạng hóa phân bổ tài sản đến khả năng sinh lời và mức độ ổn định của các ngân hàng
thương mại là một vấn đề được các nhà điều hành hệ thống ngân hàng, bản thân các ngân
hàng thương mại và các nhà nghiên cứu hết sức quan tâm. Tuy nhiên, sự tác động này có
thể khác nhau giữa các quốc gia do sự khác biệt về hệ thống pháp luật và các đặc điểm

riêng của hệ thống ngân hàng thương mại ở từng quốc gia. Sử dụng mẫu nghiên cứu bao
gồm 32 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn năm 2000 – 2017, các tác giả
đã xác định được tác động của đa dạng hóa nguồn thu nhập và đa dạng hóa phân bổ tài
sản đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam.
Kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra được rằng việc đa dạng hóa nguồn thu nhập và
đa dạng hóa phân bổ tài sản giúp tăng cường khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương
mại tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy quy mô tổng tài sản và quy mô vốn
chủ sở hữu của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất tích cực đến hiệu quả hoạt động của
các đơn vị này. Kết quả của nghiên cứu giúp cho các nhà điều hành hệ thống ngân hàng
và bản thân các ngân hàng thương mại Việt Nam có một định hướng để tăng cường và đa
dạng hóa hơn nữa các sản phẩm, dịch vụ tài chính và từ đó giảm dần sự phụ thuộc vào
các sản phẩm và dịch vụ tín dụng truyền thống.
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
16

Abedifar, P., Molyneux, P., Tarazi, A., 2013. Risk in Islamic banking. Review Finance 17
(6), 2035–2096.
Acharya, V., Hasan, I., Saunders, A., 2006. Should banks be diversified? Evidence from
individual bank loan portfolios. Journal of Business 79, 1355–1413.
Baele, L., De Jonghe, O., Vennet, R., 2007. Does the stock market value bank
diversification? Journal of Banking & Finance 31 (2), 1999–2023.
Berger, A., N., Hasan, I., Zhou, M., 2010. The effects of focus versus diversification on bank
performance Evidence from Chinese banks. Journal of Banking & Finance 34, 1417–1435.

Bourkhis, K., Nabi, M., 2013. Islamic and conventional bank’s soundness during the 2007–
2008 financial crisis. Review of Financial Economics 22 (2), 68–77.
Caporale, G.M. et al., 2012. Ratings assignments: Lessons from international banks. Journal
of International Money and Finance, 31, 1593-1606.
Cebenoyan, S., Strahan, P., 2004. Risk management, capital structure and lending at banks.
Journal of Banking & Finance 28 (1), 19–43.


8.

Deng, S., Elyasiani, E., 2008. Geographic diversification and BHC return and risk
performance. Journal of Money, Credit and Banking 40, 1217–1238.

9.

Deng, S., Elyasiani, E., Jia, J., 2013. Institutional ownership, diversification, and riskiness of
bank holding companies. Financial Review 48 (3), 385–415.

10. Delpachitra, S., Lester, L., 2013. Non-interest income: are Australian banks moving away
from their traditional businesses? Economic Papers 32 (2), 190– 199.
11. DeYoung, R., Rice, T., 2004. Noninterest income and financial performance at U.S.
commercial banks. Financial Review 39 (1), 101–127.
12. Drucker, S., Puri, M., 2009. On loan sales, loan contracting, and lending relationships.
Review of Financial Studies 22, 2835–2872.
13. Elsas, R., Hackethal, A., Holzhauser, M., 2010. The anatomy of bank diversification. Journal
Banking & Finance 34 (6), 1274–1287.
14. Fu, X. , Lin, Y. and Molyneux, P., 2014. Bank competition and financial stability in Asia
Pacific. 2014. Journal of Banking & Finance 38, 64 -77.
15. Goddard, J., McKillop, D., Wilson, J., 2008. The diversification and financial performance
of US credit unions. Journal of Banking & Finance 32 (2), 1836–1849.

16. Ioannidis, C. et al., 2010. Assessing bank soundness with classification techniques. Omega,
38: 345-357.
17. Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., Tarazi, A., 2008. Bank income structure and risk: an empirical
analysis of European banks. Journal of Banking & Finance 32 (8), 1452–1467.
18. Lee, C., Hsieh, M., Yang, S., 2014. The relationship between revenue diversification and
bank performance: do financial structures and financial reforms matter? Japan and World
Economy 29 (1), 18–35.
19. Lehar, A., 2005. Measuring systemic risk: a risk management approach. Journal of Banking
& Finance 29 (10), 2577–2603.
20. DeYoung, R., Roland, K., 2001. Product mix and earnings volatility at commercial banks:
evidence from a degree of total leverage model. Journal of Financial Intermediation 10 (1),
54–84.
21. Klein, P., Saidenberg, M., 1998. Diversification, organization, and efficiency: Evidence from
bank holding companies. Working Paper, Federal Reserve Bank of New York.
22. Köhler, M., 2014. Does non-interest income make banks more risky? Retail- versus
investment-oriented banks. Review Finanance Economic 23 (3), 82–193.
23. Matousek, R. and Stewart, C., 2009. A note on ratings of international bank. Journal of
Financial Regulation and Compliance, 17: 146-155.
24. Pasiouras, F. and Kosmidou, K., 2007. Factors influencing the profitability of domestic and
foreign commercial banks in the European Union. Research in International Business and
Finance, 21: 222–237.

17


25. Nguyen, M., Skully, M., Perera, S., 2012. Market power, revenue diversification and bank
stability: evidence from selected South Asian countries. Journal Int. Finance Markets, Inst.
Money 22 (4), 897–912.
26. Mirzaei, A. et al., 2014. Does market structure matter on banks’ profitability and stability?
Emerging vs. advanced economies. Journal of Banking & Finance, 37: 2920-2937.

27. Sanya, S., Wolfe, S., 2011. Can banks in emerging economies benefit from revenue
diversification? Journal Finance & Services Res. 40 (1), 79–101.
28. Saghi-Zedek, N., 2016. Product diversification and bank performance: does ownership
structure matter? J. Bank. Finance 71 (3), 154–167.
29. Sissy, A., Amidu, M., Abor, J.Y., 2017. The effects of revenue diversification and crossborder banking on risk and return of banks in Africa. Research in International Business and
Finance 40 (1), 1–18.
30. Stiroh, K., Rumble, 2006. The dark side of diversification: the case of US financial holding
companies. Journal of Banking & Finance 30 (8), 2131–2161.
31. Wagner, W., 2007. The liquidity of bank assets and banking stability. Journal of Banking &
Finance 31 (1), 121–139.
32. Winton, A., 1999. Don’t put all your eggs in one basket? Diversification and specialization

in lending. Working Paper, University of Minnesota.

18



×