Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Đánh giá và can thiệp trường hợp trầm cảm sau sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ HỒNG DIÊN

ĐÁNH GIÁ VÀ CAN THIỆP TRƢỜNG HỢP
TRẦM CẢM SAU SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ HỒNG DIÊN

ĐÁNH GIÁ VÀ CAN THIỆP TRƢỜNG HỢP
TRẦM CẢM SAU SINH
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Trần Thị Minh Đức

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự hướng
dẫn của GS.TS Trần Thị Minh Đức.
Các dữ liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực có nguồn gốc và xuất
xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 2 tháng 12 năm 2018
Học viên

Lê Thị Hồng Diên

i


LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn thạc sĩ, trước tiên em xin được bày tỏ lòng
biết ơn tới các Thầy, Cô trong Khoa Tâm lý học Trường Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân Văn – Đại học Quốc Gia Hà Nội – những người luôn tận tâm giảng dạy,
truyền đạt cho em những kiến thức chuyên môn, những kinh nghiệm làm việc quý
báu trong suốt hai năm học tập tại Khoa.
Đặc biệt, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Trần Thị Minh Đức
– người đã dành nhiều thời gian công sức tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, động viên
em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và cho em những góp ý vô cùng quý
báu để em có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể đội ngũ
bác sĩ, điều dưỡng, nhân viên y tế Khoa Cấp tính nữ (Khoa 8) BVTTTW1 đã nhiệt
tình giúp đỡ, hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được làm việc một cách tốt nhất
với bệnh nhân và gia đình bệnh nhân.
Tôi xin đượccảm ơn chân thành tới thân chủ, gia đình của thân chủ, những
người đã rất nhiệt tình hợp tác và giúp đỡ tôi thực hiện catham vấn để hoàn thành
đề tài nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp và các bạn học viên trong lớp Cao học Tâm lý lâm sàng khóa 1 đã luôn
đồng hành, giúp đỡ động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 02 tháng 12 năm 2018
Học viên

Lê Thị Hồng Diên

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. vi
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẦM CẢM ............................4
1.1. Tổng quan nghiên cứu về trầm cảm ở phụ nữ sau sinh .............................4
1.1.1. Nghiên cứu về trầm cảm sau sinh ở nước ngoài ......................................4
1.1.2. Nghiên cứu trầm cảm sau sinh ở Việt Nam..............................................7
1.2. Lý luận về trầm cảm ở phụ nữ sau sinh ....................................................12
1.2.1 Khái niệm ................................................................................................12
1.2.2. Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán trầm cảm ở phụ nữ sau sinh ..............13
1.2.2.1. Đặc điểm lâm sàng trầm cảm ở phụ nữ sau sinh ............................13
1.2.2.2. Chẩn đoán trầm cảm ở phụ nữ sau sinh .........................................16
1.2.3. Một số nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng dẫn đến rối loạn trầm cảm ở
phụ nữ sau sinh .................................................................................................17
1.2.3.1. Nguyên nhân về mặt di truyền, sinh học .........................................18
1.2.3.2. Nguyên nhân tâm lý, các yếu tố xã hội khác ảnh hưởng đến trầm
cảm ở phụ nữ sau sinh..................................................................................19

1.2.4. Quan điểm của các nhà khoa học trên thế giới về rối loạn trầm cảm,
trầm cảm sau sinh .............................................................................................21
1.2.4.1. Tiếp cận theo trường phái phân tâm ...............................................21
1.2.4.2. Tiếp cận theo trường phái nhận thức – hành vi ..............................22
1.2.4.3. Tiếp cận tâm lý – sinh lý – xã hội....................................................24
1.3. Công cụ đánh giá và các hình thức can thiệp cho phụ nữ sau sinh có rối
loạn trầm cảm......................................................................................................27
1.3.1. Thang đánh giá mức độ trầm cảm của Beck (Beck Depression Inventory
– BDI) ...............................................................................................................27

iii


1.3.2. Thang đánh giá lo âu Zung (Self Rating Axyety Scale SAS) ................28
1.3.3. Thang đánh giá nhân cách MMPI – 2 (Minnesota multiphasic
personality invetory). ........................................................................................28
1.4. Các hình thức can thiệp cho phụ nữ sau sinh có rối loạn trầm cảm ..........28
1.4.1. Can thiệp bằng thuốc ........................................................................29
1.4.2. Can thiệp bằng trị liệu tâm lý ...........................................................29
1.4.3. Can thiệp qua thư giãn .....................................................................31
1.5. Các phƣơng pháp sử dụng trong nghiên cứu và thực hiện ca lâm sàng.32
1.5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ............................................................32
1.5.2. Phương pháp lâm sàng ...........................................................................32
1.5.2.1. Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng .................................................32
1.5.2.2. Phương pháp quan sát lâm sàng .....................................................35
1.5.2.3. Phương pháp phân tích lịch sử cuộc đời ........................................37
1.6. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................39
1.7. Tiến trình thực hiện một ca lâm sàng ........................................................40
1.8. Đạo đức trong thực hành ca lâm sàng .......................................................41
CHƢƠNG 2 KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ VÀ CAN THIỆP CA LÂM SÀNG .........43

2.1. Đặc điểm nhân khẩu - xã hội hai bên gia đình thân chủ Lan ..................43
2.1.1. Vài nét về đặc điểm nhân khẩu – xã hội gia đình thân chủ Lan.............43
2.1.2. Vài nét về dặc điểm nhân khẩu – xã hội gia đình nhà chồng .................45
2.2. Lịch sử vấn đề của thân chủ Lan................................................................46
2.2.1. Vài nét về thân chủ Lan ..........................................................................46
2.2.2. Cuộc sống công việc và hôn nhân của thân chủ Lan..............................47
2.2.2. Sự phát triển các triệu chứng trầm cảm ở chị Lan..................................50
2.3. Các liệu pháp sử dụng trong quá trình can thiệp .....................................59
2.4. Quy trình đánh giá và can thiệp .................................................................59
2.5. Đánh giá hiệu quả can thiệp......................................................................113
2.6. Theo dõi sau can thiệp ...............................................................................115
2.7. Đánh giá ƣu điểm, hạn chế trong tiến trình thực hiện ca lâm sàng ......115

iv


2.7.1. Ưu điểm ................................................................................................115
2.7.2. Hạn chế .................................................................................................116
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt

BVTTTW1

Bệnh viện tâm thần trung ương 1

PNSS

Phụ nữ sau sinh

RLTC

Rối loạn trầm cảm

RLTCSS

Rối loạn trầm cảm sau sinh

TCSS

Trầm cảm sau sinh

VSKTTBM

Viện sức khỏe tâm thần Bạch Mai

vi


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trầm cảm(depression)là một dạng rối nhiễu tâm lý (còn gọi là rối loạn tâm

thần) phổ biến xuất hiện ngày càng nhiều trên toàn thế giới [2].
Bệnh trầm cảmđược thế giới xem là vấn đề hàng đầu trong sức khỏe cộng
đồng. Những con số mới được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra cho thấy trầm
cảm hiện nay đang ngày càng gia tăng trên toàn cầu, là nguyên nhân hàng đầu gây
ra tình trạng khuyết tật về thể chất và tinh thần. Cố vấn Hệ thống Y tế thuộc Bộ Y tế
Tâm thần và Lạm dụng Chất gây nghiện của WHO Dan Chisholm lưu ý rằng "Trầm
cảm là một dạng rối loạn cảm xúc có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai, tại bất kỳ thời
điểm nào trong cuộc đời của con người. Trầm cảm đứng đầu danh sách của các bệnh
phổ biến về các bệnh rối loạn khác nhau trên khắp thế giới gây ra tình trạng khuyết
tật về thể chất và tinh thần của con người. Bạn có thể thấy một trong 20 người trên
thế giới có trầm cảm và sau đó nó có mức độ tàn tật hoặc khuyết tật tương đối
cao."[14].
Tại Việt Nam, hiện có khoảng 30% dân số có rối loạn tâm thần, trong đó tỷ
lệ trầm cảm chiếm 25%. Mỗi năm, số người tự tử do trầm cảm ở nước ta từ 36.000 40.000 người. Đó là thông tin được đưa ra tại hội thảo truyền thông giáo dục sức
khỏe với chủ đề “Trầm cảm – Hãy cùng trò chuyện” tại Viện Sức khỏe Tâm thần
Bạch Mai (VSKTTBM) diễn ra chiều ngày 4/4/2017 [13].
Trầm cảm có mối quan hệ tới việc mang thai và sinh nở, trong khi mang thai
và sinh con là thiên chức tự nhiên và khó có thể từ chối trong cuộc đời của người
phụ nữ. Sự kiện sinh đẻ cũng được coi là một sang chấn, sau khi sinh con các bà mẹ
đã có sự biến đổi lớn về sinh lý và tâm lý đặc biệt là biến đổi về tâm lý đòi hỏi phụ
nữ phải thích nghi dần dần cả về mặt cơ thể lẫn tinh thần.
Những nghiên cứu trong thời gian gần đây chỉ ra rằng trong giai đoạn sau
sinh thường dễ nhạy cảm với những thay đổi trong cuộc sống của người mẹ và đứa
con mới chào đời thì rối nhiễu tâm lý thường có thể gặp làtrầm cảm. Người phụ nữ
có nguy cơ nhập viện tâm thần trong tháng đầu tiên sau sinh cao hơn bất kỳ thời

1


điểm nào khác của cuộc đời. Trầm cảm sau sinh (TCSS) được xem là xuất hiện khá

phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và là một vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm
trọng. Trầm cảm sau sinh không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ mà còn
liên quan đến người thân của họ, nhất là người chồng và đứa con [2, tr 38].
Ở Việt Nam, một nghiên cứu được thực hiện trên 1.134 phụ nữ sau sinh
(PNSS), sinh con trong vòng 12 tháng, sống tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ
Chí Minh do tác giả Trần Thị Minh Đức chủ biên (2016), đã chỉ ra mức độ và biểu
hiện của rối nhiễu tâm lý, các cách ứng phó, cũng như sự hỗ trợ, can thiệp cần thiết
cho những PNSS có rối nhiễu tâm lý. Kết quả nghiên cứu thu được là 17,3% PNSS
có xác suất mắc TC. Trong đó, tỉ lệ PNSS có trầm cảm mức nhẹ là 12,4%, mức vừa
là 3,5%, mức nặng là 1,4% [2].
Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của trầm cảm ở người mẹ đối với
đứa con của họ đã chỉ ra rằng,trầm cảm của người mẹ được coi như một tình huống
rất có nguy cơ đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Theo Weissmann (dẫntheo Beck,
2001) con của các bà mẹtrầm cảm có rối loạn phát triển nhiều gấp 3 lần so với con
của các bà mẹ không có các vấn đề tâm lý. Các rối nhiễu tâm lý sau này của trẻ
thường liên quan đến tiền sử, trạng thái trầm cảm của người mẹ và những rối nhiễu
này khá đa dạng. Có thể là rối loạn lo hãi bị tách mẹ, rối loạn hành vi, rối loạn tăng
động giảm chú ý, rối loạn trong học tập... Hay khi phân tích những hồ sơ liên quan
đến trẻ nhỏ có mẹbị trầm cảm, Filed (1997) nhận thấy rằng các trẻ này có hành vi
kém định hướng, tâm lý buồn chán và rối loạn giấc ngủ nhiều hơn. Bên cạnh đó,
trầm cảm của người mẹ trong giai đoạn sơ sinh còn gây ra sự chậm ngôn ngữ ở trẻ
nhỏ và rối loạn hành vi cũng như kỹ năng tiền học đường trong những năm tiếp theo
[2, tr 57 – 58].
Vì vậy, việc nhận biết, đánh giá và can thiệp cho PNSS mắc rối loạn trầm
cảm (RLTC) có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ cải thiện tình trạng bệnh của
người mẹ mà còn cải thiện được mối quan hệ mẹ con và giúp cho sự phát triển thể
chất và tâm thần của đứa trẻ sau này.
Nhằm góp phần nâng cao tri thức, hiểu biết vềTCSS, đánh giá và can thiệp
kịp thời về mặt tâm lý cho phụ nữcó TCSS, giảm thiểu rủi ro cho bản thân và gia


2


đình họ, tác giả luận văn tiến hành nghiên cứu, thực hiện một ca lâm sàng
nhằm“Đánh giá và can thiệp trƣờng hợp trầm cảmsau sinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về trầm cảm sau sinh, đề tài nghiên cứu một
trường hợp PNSS có RLTC, qua đó đề xuất các kiến nghị nhằm hỗ trợ hiệu quả cho
trường hợp phụ nữ có trầm cảm sau sinh.
3.Đối tƣợng nghiên cứu
- Đánh giá và can thiệp trường hợp PNSS mắc rối loạn trầm cảm.
- Đưa ra những biện pháp phòng ngừa và hỗ trợ cho trường hợp PNSS mắc rối
loạn trầm cảm.
- Đánh giáhiệu quả can thiệp cho trường hợp PNSS mắc rối loạn trầm cảm.
4. Khách thể nghiên cứu
Một PNSS có RLTC được điều trị tại BVTTTW1.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Đánh giá và can thiệp cho một trường hợp PNSS có RLTC không có loạn
thần,được điều trị nội trú tại BVTTTW1.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lý thuyết
- Điểm luận và phân tích một số quan điểm, các công trình nghiên cứu về
TCSS, nguyên nhân cơ chế phát sinh, phát triển của RLTCSS.
- Các lý thuyết về đánh giá, chẩn đoán và tiếp cận trị liệu cho rối loạn trầm
cảm sau sinh.
6.2. Nghiên cứu thực tiễn
Đánh giá và can thiệp một trường hợp cụ thể PNSS có RLTC.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm
- Phần mở đầu

- Phần nội dung chính gồm 2chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Kết quả đánh giá và can thiệp cho trường hợp phụ nữ sau sinh có
rối loạn trầm cảm
- Phần kết luận

- Tài liệu tham khảo
- Phần phụ lục

3


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẦM CẢM
Ở PHỤ NỮ SAU SINH
1.1. Tổng quan nghiên cứu về trầm cảm ở phụ nữ sau sinh
1.1.1.Nghiên cứu về trầm cảm sau sinh ở nước ngoài
Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO, có khoảng 298 triệu người mắc trầm cảm
trong năm 2010 (chiếm 4,3% dân số toàn cầu). Theo một nghiên cứu khác ở Mỹ
năm 2014, có khoảng 17.6 nghìn người bị trầm cảm mỗi năm, nhưng có tới hơn 2/3
người bị trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị. Điều đáng
báo động là có tới 48% những người trầm cảm có ý tưởng tự sát và 24% những
người có toan tự sát được báo cáo là không nhận được sự hỗ trợ điều trị trước đó.
Đó là thông tin được đưa ra tại hội thảo truyền thông giáo dục sức khỏe với chủ đề
“Trầm cảm – Hãy cùng trò chuyện” tại Viện Sức khỏe Tâm thần Bạch Mai
(VSKTTBM) diễn ra chiều ngày 4/4/2017 [13].
Trầm cảm sau sinh đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới đặc biệt ở các
nước phát triển. Sau đây là một số công trình nghiên cứu về trầm cảm ở PNSS:
Theo O‟ Hara và cộng sự (1984), những người mẹ có các triệu chứng liên
quan đến trầm cảm ước tính tỷ lệ 30 – 75% chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để

chẩn đoán TCSS được gọi là trầm buồn sau sinh (baby blue) thường vào ngày thứ 3
hoặc thứ 4 và kéo dài hàng giờ trong vài ngày với các biểu hiện như lo lắng, chán
ăn, mất ngủ … đa số tự thuyên giảm vào ngày thứ 10 sau sinh mà không cần sự can
thiệp nào. Bên cạnh đó cũng còn có những trường hợp không thể tự khỏi mà vẫn
duy trì các triệu chứng và phát triển thành bệnh lý – TCSS. TCSS dễ làm người phụ
nữ mất khả năng chăm sóc trẻ an toàn, và nếu không được điều trị, can thiệp kịp
thời các triệu chứng có thể ngày càng xấu hơn kéo dài. Hậu quả của TCSS có thể
gây ra những tác động xấu đến sức khỏe của người mẹ với các thành viên trong gia
đình và còn gây ra mâu thuẫn trong hôn nhân. Mặt khác, có thể còn làm giảm sự
gắn kết giữa người mẹ và đứa trẻ, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển thể chất,

4


cảm xúc, tâm lý, hành vi cũng như trí tuệ của đứa trẻ sau này. Một số trường hợp
biểu hiện ở mức độ trầm trọng, thậm chí người mẹ có thể có hành vi tự hủy hoại bản
thân và đứa trẻ như có ý muốn tự sát hoặc những hành động nguy hiểm, hoặc làm
chết chính con mình. [20].
O'Hara, M.W và cộng sự (1996) đã tiến hành nghiên cứu phân tích tổng hợp
(78 công trình nghiên cứu bao gồm 59 nghiên cứu ban đầu, 19 đánh giá và tất cả
đều được đánh giá) trên 12.810 bệnh nhân TCSS tại một số quốc gia cho thấy tỷ lệ
phụ nữ mắcTCSS là 13%. Những nghiên cứu được chọn lọc vào phân tích tổng hợp
phải thỏa mãn một số điều kiện quan trọng. Thứ nhất: Đối tượng nghiên cứu là
những PNSS ít nhất hai tuần để tránh nhầm lẫn với hội chứng “baby blue” (trầm
cảm thoáng qua). Thứ hai: Phương pháp phải đảm bảo tính ngẫu nhiên. Thứ ba:
Việc đánh giá TCSS phải dựa vào những thang đo đã được chuẩn hóa. Cho nên có
thể nói tỷ lệ TCSS dựa trên phân tích của O‟Hara và cộng sự cho chúng ta cái nhìn
tương đối toàn diện về tỷ lệ mắc rối loạn TCSS, đặc biệt là những quốc gia phát
triển vào những năm trước năm 2000 [dẫntheo Donna E. Stewart,25].
Một nghiên cứu khác cho thấy trên thế giới cho thấy, cứ 7 phụ nữ Mỹ thì có

khoảng 1 người mắc trầm cảm trước lúc có bầu, trong thời gian mang thai và sau
khi sinh em bé, kết quả còn phát hiện thêm rằng hơn một nửa số phụ nữ có TCSS
cũng từng trải qua cơn trầm cảm trước khi có bầu và trong suốt thời gian mang thai
và sau khi sinh em bé. Trầm cảm sau sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe bà
mẹ, đặc biệt là sự phát triển trí tuệ, cảm xúc và thể chất của đứa trẻ [17].
Chandran và cộng sự (2002) nghiên cứu trên một nhóm phụ nữ từ vùng
nông thôn Tamil Nadu Ấn Độ, cụ thể trên 359 phụ nữ trong 3 tháng cuối của thai kỳ
và 6 – 12 tuần sau sinh. Kết quả thu được là tỷ lệ TCSS chiếm 19,8%, các yếu tố
ảnh hưởng đến giới tính của đứa trẻ, mối quan hệ không được tốt trong gia đình, các
sự kiện trong cuộc sống gây căng thẳng lúc mang thai, thu nhập thấp, thiếu hụt sự
hỗ trợ sau sinh [23].
Tác giả Bener (2011) nghiên cứu về TCSS trên1.379 bà mẹ người Ả Rập
sống tại Quatar (quốc gia đang phát triển). Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định

5


tỷ lệ mắc rối loạn TCSS và xác định các yếu tố nguy cơ của chứng TCSS bằng cách
sử dụng thang đo trầm cảm sau sinh của Endinburgh (EPDS). Đây là một nghiên
cứu cắt ngang tại trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu được tiến hành trong thời
gian 6 tháng, từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011. Kết quả trong nhóm
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ TCSS là 17,6%, các bà mẹ trên 35 tuổi là 49,9%. Xác
định các yếu tố nguy cơ chính cho việc phát triển TCSS làcác yếu tố khó khăn như
về tài chính, sinh non, thiếu sự hỗ trợ của gia đình, mâu thuẫn trong mối quan hệ
hôn nhân [21].
Công trình của Reck và cộng sự (2004) được nghiên cứu trong một mẫu cộng
đồng gồm 853 phụ nữ ở Đức và đánh giá 2 tuần sau sinh sử dụng bằng một cuộc
phỏng vấn qua điện thoại và bảng câu hỏi về sức khỏe tâm thần và sử dụng thang đo
trầm cảmEPDS. Kết quả thu được tỷ lệ mắc “baby blue” ở phụ nữ sau sinh Đức là
52,2% có mối liên quan đáng kể giữa tình trạng trầm cảm thai sản thoáng qua và

TCSS, trầm cảm thoáng qua thai sản với rối loạn lo âu [28, pp 77 - 87].
Trong một nghiên cứu của Zubazan và cộng sự (2010), mục đích của nghiên
cứu này là tiến hành so sánh 4 công cụ sàng lọc sau sinh hay được sử dụng. Trong số
4 công cụ sàng lọc được xem xét và so sánh, thang TCSS của EPDS thể hiện độ hiệu
lực cao hơn cả. Tuy nhiên, qua kết quả nghiên cứu các tác giả cũng nhấn mạnh không
có công cụ nào được đánh giá hoàn hảo khi áp dụng cho các bối cảnh ngôn ngữ; văn
hóa khác nhau. Và họ cũng bổ sung rằng ngoài thang đo TCSS của EPDS còn có thể
có thêm nhiều các công cụ khác mà cần các nghiên cứu để chứng minh tính hiệu quả
của nó trong việc sàng lọc, phát hiện TCSS trong phạm vi rộng hơn [29, pp 357 –
365].
Hiện nay, tỉ lệ PNSS có trầm cảm được báo cáo khác nhau giữa các nước và
giữa các nghiên cứu nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mẫu nghiên cứu cũng như
đặc điểm về kinh tế và bối cảnh văn hóa đó như thế nào. Tổng hợp những tài liệu về
TCSS cho thấy, rối loạn này thường xuyên xuất hiện ở khoảng 10 – 15%PNSS
trong các xã hội phương Tây (Kumar và Robson, 1984, O‟Hara và cộng sự 1996).
Theo Elizabeth và cộng sự (2011), tỷ lệ PNSS mắc trầm cảm tại các nước Mỹ, Anh,

6


Úc được nghiên cứu thấy là từ 7% - 20%, và với hầu hết các nghiên cứu cho thấy tỷ
lệ này thường dao động trong khoảng từ 10 – 15%. Tuy nhiên, Halbreich và Karkun
(2006) nhận định rằng một tỷ lệ trung bình từ 10 – 15% đối với TCSS không phải là
đại diện của sự phổ biến toàn cầu do sự thay đổi của các tiến trình và sự đa dạng của
triệu chứng. Ở các nước kém phát triển với sự hạn chế về nguồn lực kinh tế, an sinh
xã hội, tỉ lệ TCSS ở phụ nữ ở các nước này có thể vượt qua con số 25% (báo cáo
của Tổ chức y tế thế giới, (2009), thậm chí có thể lên tới 60% [2, tr44 - 45].
Nghiên cứu về TCSS ở nước ngoài luôn gắn với những nghiên cứu dịch tễ
học và công cụ để đo mức độ TCSS ở phụ nữ. Các kết quả nghiên cứudịch tễ học về
trầm cảm ở PNSS ở các nước cho thấy TCSS khá phổ biến với tỷ lệ khác nhau. Sự

khác nhau này được lý giải là do thiếu sự đồng thuận của các tác giả khi lựa chọn
thời gian đo mức độ trầm cảm kéo dài trong giai đoạn sau sinh, do sự khác nhau
trong việc đưa ra điểm ngưỡng của trầm cảm và khác nhau về phương pháp đánh
giá để xác định trầm cảm. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra mức độ, nguyên nhân, cơ
chế bệnh, đặc điểm lâm sàng, các triệu chứng, biểu hiện bệnh, các yếu tố văn hóa xã
hội, sang chấn tâm lý có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh TCSS. Kết quả
nghiên cứu này cũng là một gợi ý quan trọng để làm cơ sở thực hiện một quy trình
đánh giá và can thiệp trường hợp phụ nữ mắc RLTCSS.
1.1.2. Nghiên cứu trầm cảm sau sinh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cũng đã có nhiều tác giả cũng tập trung nghiên cứu về TCSS
nhằm xác định tỷ lệ dịch tễ, các đặc điểm lâm sàng, mức độ, các yếu tố ảnh hưởng
và các biện pháp hỗ trợ. Dưới đây chúng tôi kể đến một số những nghiên cứu điển
hình đã được tiến hành.
Nghiên cứu cắt ngang của Lê Quốc Nam (2002) khảo sát trên 321 sản phụ
đến khám lại vào tuần thứ 4 sau sinh tại Bệnh Viên Từ Dũ. Mục tiêu của nghiên cứu
là tìm hiểu tỷ lệ bệnh TCSS và những yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh này để góp
phần phòng ngừa và bổ sung vào chương trình giáo dục cho PNSS lúc mang thai.
Nghiên cứu được tiến hành phỏng vấn bằng bảng câu hỏi và đưa cho họ tự đánh giá
bằng thang TCSS của Edinburgh (EPDS) (hỏi về các triệu chứng xảy ra trong một

7


tuần trước đó). Các phụ nữ có điểm số thang EPDS 13 sẽ được bác sĩ tâm thần đánh
giá tiếp qua thang trầm cảm Hamniton, đồng thời khám lâm sàng để chẩn đoán xác
định RLTC. Kết hợp cả việc sử dụng chẩn đoán bệnh trầm cảm dựa theo tiêu chí
chẩn đoán của DSM –IV. Tiêu chí để lựa chọn khách thể cũng dựa trên các yếu tố
về độ tuổi, trình độ học vấn, tính chất ổn định của nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế
của gia đình, tình trạng hôn nhân, số lần sinh. Kết quả cho thấy tỷ lệ sản phụ thật sự
bị TCSS là 5,3% trong số 12,5% sản phụ có tổng số điểm thang đo của EPDS 13.

Bên cạnh đó nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởngđến TCSS như: Có mối
quan hệ vợ chồng không tốt chiếm 60% trường hợp, trầm cảm có tiền căn lo âu
hoặc mất ngủ là 30,4%, trầm cảm có rối loạn tâm thần trong thời kỳ thai kỳ là
13,9%, trầm cảm có tiền sử bệnh khác là 12,5%, trầm cảm có sử dụng rượu; thuốc
lá trong thời kỳ thai kỳ là 28,6%, TCSS thường là: khó sinh;sinh mổ 18,2%, trầm
cảm có vấn đề về sức khỏe của con là là 8%, trầm cảm gặp khó khăn cho con bú là
17%, trầm cảm không có sự giúp đỡ từ môi trường xung quanh là 11,1%, trầm cảm
do không có ai để tâm sự là 22,2%, trầm cảm do không tin tưởng vào hạnh phúc là
28,6% [4].
Tác giả Nguyễn Linh Trang cùng cộng sự (2000) Trung tâm nghiên cứu về
phụ nữ - ĐHQG Hà nội, khảo sát thu thập ý kiến của 30 phụ nữ có độ tuổi dưới 35
trên diễn đàn ww w.webtretho.com (mục bà mẹ sau sinh). Nghiên cứu đã khái quát
các vấn đề tâm lý của PNSS gồm 3 mức độ chính là: Mức độ nhẹ (cơn buồn thoáng
qua sau sinh) và được xem như là một phản ứng bình thường của PNSS chiếm tỉ lệ
60% - có đến 18 bà mẹ; mức độ vừa có đến 5 bà mẹ - chiếm tỉ lệ 15,6%; mức độ
nặng (trầm cảm có loạn thần) có 1 bà mẹ - chiếm 3,3%. Bên cạnh đó nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng có 4 loại biểu hiện rất rõ ở đa số PNSS con: Tâm trạng dễ xúc
động, khóc; lo sợ; hay cáu gắt; tủi thân; và một số biểu hiện khác như cảm thấy cô
đơn, hồi hộp… Biểu hiện rõ nhất của sự biến đổi tâm lý ở người phụ nữ sau sinh là
rất dễ khóc, nghiên cứu chỉ ra có 33,3% phụ nữ có biểu hiện này. Không có một
nguyên nhân riêng biệt nào gây nên những biến đổi tâm lý của người PNSS, nó có
thể là mặt trái của cuộc sống sôi động với nhiều áp lực, sự thay đổi về mặt thể chất

8


sinh lý của người PNSS, là áp lực về mặt kinh tế, là tình cảm vợ chồng, mối quan
hệ khác và cả sự ra đời của đứa trẻ [9, tr48 – 52].
Tác giả Vũ Thị Chín và cộng sự (2001) đã thực hiện công trình nghiên cứu
về “Tâm lý PNSS và quan hệ mẹ con” trong 4 năm 1993 – 1996: 154 phiếu phỏng

vấn đã được ghi chép qua tiếp xúc hai năm 1993 và 1994 với các PNSS, đã cung
cấp cái nhìn tổng quát về diễn biến tâm lý của phụ nữ trong cuộc hành trình để trở
thành mẹ. 42 hồ sơ tâm lý đã được thu thập trong 2 năm, năm 1995 và 1996, khoanh
lại để theo dõi chi tiết những vấn đề cần quan tâm, trong đó có diễn biến tâm lý 11
ca mổ đẻ, 6 trường hợp điển hình phản ánh khá chân thực mối quan hệ sớm mẹ con
chịu ảnh hưởng bởi tâm lý của bà mẹ, của các yếu tố văn hóa xã hội, của môi
trường. Đây là một công trình hiếm hoi mô tả tâm lý của phụ nữ sau sinh trong thời
kỳ mang thai và sinh con. Trong đó, tâm lý của PNSS gắn liền với cuộc sinh đẻ
được mô tả là sự mất chủ động và lo hãi. Sự thay đổi về sinh lý (ở đây là sự co bóp
tử cung), trong môi trường xa lạnh và cô quạnh bởi có một mình, tiếng kêu rên của
những PNSS khác có thể khiến PNSS bị ngập tràn trong đau đớn. Từ đây tác giả
khẳng định việc chuẩn bị tâm lý cho sản phụ từ lúc mang thai, nhất là khi chuyển dạ
và đẻ là cần thiết. Sự nâng đỡ xã hội trong thời điểm phụ nữ sinh đẻ vô cùng quan
trọng đối với bản thân người PN. Trong thời gian sau sinh, PNSS sẽ trải qua một
trạng thái u buồn, chán nản, mệt mỏi, lờ đờ, ảm đạm. Tình trạng này có thể là hậu
quả của mệt mỏi sau sinh, mà PNSS mô tả một cách mơ hồ và mọi chuyện sẽ qua đi
rồi đầu sẽ vào đấy” [2, tr67 – 68].
Tác giả Lê Thị Thu Quỳnh (2015) với luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý
học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, nghiên cứu trên 134 bà mẹ mang thai từ 6 – 9
tháng và sau khi sinh (3 tháng) tại huyện Thường Tín nhằm tập trung tìm hiểu một
số yếu tố văn hóa và chấn thương tâm lý ảnh hưởng đến các bà mẹ trước sinh và sau
sinh cũng như mối quan hệ giữa chúng và nguy cơ TCSS của các bà mẹ. Trong
nghiên cứu của mình tác giả đã sử dụng các trắc nghiệm và thang đo như: Thang đo
TCSScủa EPDS, thang đo hài lòng trong quan hệ hôn nhân ADAS, thang đánh giá
PDPI – R phiên bản trước sinh và sau sinh, thang đánh giá lo âu GAD – 7, thang

9


đánh giá trầm cảm PHQ -9 … Kết quả thu được, tỷ lệ 14,9% các bà mẹ có triệu

chứng trầm cảm ở mức nguy cơ, số lượng các bà mẹ trong nghiên cứu đáp ứng các
tiêu chuẩn của trầm cảm sau sinh ở mức cần can thiệp là 9,7%. Và các yếu tố như
văn hóa, chấn thương tâm lý đều liên quan đến tình trạng lo âu TC của các bà mẹ.
Điển hình như những mâu thuẫn trong cuộc sống chung với gia đình nhà chồng,
thiếu sự hỗ trợ từ chồng và gia đình, thiếu sự hỗ trợ từ các mối quan hệ bạn bè, sự
ký vọng về giới tính của trẻ [6].
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Minh Đức và cộng sự (2016) được thực hiện
trên 1.134 PNSS, sinh con trong vòng 12 tháng, sống tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành
phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu được tiến hành trên lượng mẫu lớn và nhằm hướng
tới việc thử xây dựng một thang đánh giá trầm cảm riêng cho phụ nữ sau sinh Việt
Nam. Thang đánh giá trầm cảm sử dụng trong nghiên cứu này các tác giả xây dựng
từ việc tham khảo những biểu hiện, triệu chứng được mô tả trong các nghiên cứu
lâm sàng như: thang đánh giá trầm cảm của Beck,của Hamilton, Madrs,thang đánh
giá lo âu của Zung, và các biểu hiện được đối chiếu với các triệu chứng trầm cảm
mô tả trong DSM – V, phần: “Các rối nhiễu lưỡng cực và các rối nhiễu liên quan”.
Công trình nghiên cứu chỉ ra mức độ và biểu hiện của TCSS, những yếu tố
ảnh hưởng đến trầm cảm ở PNSS, các cách ứng phó, cũng như sự hỗ trợ, can thiệp
cần thiết cho những phụ nữ có rối loạn TCSS. Kết quả thu được là 17,3% phụ nữ
sau sinh có xác suất mắc TCSS. Kết quả là 17,3% PNSS có xác suất mắc TCSS.
Trong đó, tỉ lệ PNSS có TCSS mức nhẹ là 3,5%, mức vừa là 3,5%, mức nặng là
1,4%. Cụ thể nghiên cứu chỉ ra các yếu tố làm tăng điểm số trầm cảm ở PNSS như:
Điều kiện sống, đó là sự sa sút kinh tế trong gia đình, việc người phụ nữ hoặc chồng
mất việc làm, không có người giúp đỡ sau sinh và gia đình có người thân đau ốm
nặng. Về đặc điểm của trẻ, đó là sự ra đời của trẻ không nằm trong kế hoạch sinh
con của cha mẹ và trẻ mới sinh được đánh giá là khó nuôi. Về điều kiện hôn nhân,
đó là việc phụ nữ sống trong hoàn cảnh ly thân hoặc ly hôn, luôn trải nghiệm sự
căng thẳng trong mối quan hệ với chồng và chất lượng mối quan hệ hôn nhân không
tốt. Về trình độ nhận thức, đó là sự hiểu biết về mang thai và nuôi con của PNSS

10



còn hạn chế. Đối với sức khỏe của PNSS, đó là những nhìn nhận về sức khỏe của
bản thân không tích cực, việc mắc bệnh huyết áp và trầm cảm trước sinh. Xét về đặc
điểm tính cách, đó là việc phụ nữ tự đánh giá bản thân là người hướng nội. Độ tuổi
có nguy cơ mắc trầm cảm ở PNSS theo 3 độ tuổi (từ 18 – 22, từ 26 – 30 và trên 30
tuổi) và kết quả của nghiên cứu cho thấy độ tuổi có nguy cơ mắc trầm cảm tập trung
đông nhất ở những PNSS có tuổi từ 26 – 30 tuổi (tỷ lệ PNSS mắc trầm cảm dao
động từ 8, 9% - 12,2% cho từng độ tuổi cụ thể). Theo kết quả nghiên cứu thời điểm
xuất hiện và thời gian kéo dài của các biểu hiện trầm cảm ở PNSS được xác định rối
loạn nhiều nhất ở tuần đầu sau sinh (41,5%). Tiếp đó là sự xuất hiện các biểu hiện
của trầm cảmtừ tuần thứ hai đến dưới 3 tháng sau sinh (35,2%). Thời gian sau sinh
càng kéo dài thì tỉ lệ PNSS thông báo sự xuất hiện của trầm cảm càng giảm. Cụ thể,
ở thời điểm từ 3 đến dưới 6 tháng sau sinh, chỉ có 13,1% PNSSthông báo về các
biểu hiện của trầm cảm và thời điểm từ 6 tháng đến một năm sau sinh, tỉ lệ này
giảm xuống còn 10,2% [2].
Chính vì thế mà hiện tượng RLTC ở PNSS nếu không được hỗ trợ tâm lý và
y tế kịp thời (trường hợp ở trầm cảm ở mức nặng) có thể gây tác hại lâu dài, trở
thành tiền thân của bệnh trầm cảm tái phát mạn tính sau đó. Đối với trẻ nhỏ, RLTC
liên tục ở người mẹ có thể góp phần tạo nên các vấn đề rối nhiễu về cảm xúc, hành
vi, nhận thức và giao tiếp trong cuộc đời sau này của trẻ. Vì vậy, vấn đề chăm sóc
sức khỏe cho những bà mẹ sau sinh cần được đặt lên hàng đầu [21, pp 101].
Tóm lại, các nghiên cứu được tiến hành về TCSS của phụ nữ Việt Nam cũng
có nhiều điểm tương đồng với các bằng chứng nghiên cứu thu được từ nước ngoài.
Các nghiên cứu đã được tiến hành thường sử dụng công cụ sàng lọc Edinburgh với
điểm cắt biến thiên trong khoảng từ 9 – 13 điểm đồng thời cũng chỉ ra độ tuổi, tỷ lệ,
mức độ, thời gian và các yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ TCSS.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về trầm cảm ở PNSS chủ yếu của các
bác sĩ tâm thần nhằm xác định tỷ lệ dịch tễ của RLTC, các đặc điểm lâm sàng, mức
độ RLTC, các yếu tố ảnh hưởng Với nghiên cứu trên diện rộng về rối nhiễu tâm lý


11


ở PNSS từ góc độ Tâm lý học chưa có nhiều. Ít công trình đi vào nghiên cứu một
quy trình đánh giá và can thiệp trường hợp phụ nữ có RLTCSS.
1.2. Lý luận về trầm cảm ở phụ nữ sau sinh
1.2.1 Khái niệm
Trầm cảm sau sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe bà mẹ, đặc biệt là
sự phát triển trí tuệ, cảm xúc và thể chất của đứa trẻ.TCSS là những cảm xúc mạnh
mẽ hòa quyện vào nhau như phấn khích, vui sướng cho đến lo lắng và sợ hãi từ việc
ra đời của một đứa trẻ. Nhưng TCSS cũng có thể dẫn đến trầm cảm nặng đòi hỏi
cần được điều trị lâu dài và đây là điều không ai mong đợi [19].
Trầm cảm ở PNSS là một tình trạng rối loạn khí sắc nặng nề (buồn rầu và
chản nản), gặp tương đối phổ biến ở thời kỳ sau sinh, được đặc trưng bởi các triệu
chứng của trầm cảm nhưng chỉ xảy ra sau khi sinh con.
Trước đây các nhà tâm thần học mô tả trầm cảm như là một giai đoạn bệnh điển
hình, trong các trạng thái u sầu (melancholia), biểu hiện ức chế nặng nề các mặt hoạt
động tâm thần. Chủ yếu là các quá trình: 1. Cảm xúc ức chế biểu hiện bằng khí sắc
giảm, buồn rầu (hypothimie); 2. Các quá trình tư duy bị ức chế và chậm lại
(bradypsychie); 3. Sự ức chế tâm thần, vận động (thể hiện tình trạng chậm chạp cả về
lời nói, hành vi, nhiều khi nặng đến mức sững sờ, bất động) [30, tr 307 – 323].

Trầm cảm điển hình là một quá trình ức chế toàn bộ các hoạt động tâm thần
thể hiện cảm xúc, tư duy và hành vi [1].
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán các rối loạn tâm thần DSM – 5 (Sổ tay chẩn đoán
và phân loại bệnh tâm thần của Hội tâm thần học, tâm lý Hoa kỳ DSM – 5 (2013).
Trầm cảm là dạng rối loạn tâm thần biểu hiện đặc trưng bởi ít nhất 5 trong số các
dấu hiệu cơ bản và kéo dài trong thời gian khoảng 2 tuần là:1) Khí sắc trầm; 2) Mất
quan tâm thích thú; 3) Có biểu hiện sụt cân khi không ăn kiêng hoặc tăng cân; 4)

Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều; 5) Sự kích động tâm vận động hoặc chậm vận động;
6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng; 7) Cảm thấy không xứng đáng hoặc tội lỗi quá
mức hoặc không thích hợp; 8) Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung chú ý hoặc khả
năng ra quyết định; 9) Ý nghĩ tiếp tục về cái chết (không chỉ là sợ chết) hoặc có ý

12


định tự sát tái diễn không có một kế hoạch trước, một hành vi tự sát hoặc một kế
hoạch cụ thể để tự sát thành công [10, tr 25 – 27].
Hiện nay, theo mô tả trong bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD –
10F (1992)) của Tổ chức Y tế Thế giới: Trầm cảm là một hội chứng bệnh lý, tồn tại
kéo dài trong một khoảng thời gian tối thiểu liên tục trong hai tuần, giảm khí sắc
không tương ứng với hoàn cảnh, hay lạm dụng rượu, ám ảnh sợ, lo âu và nghi bệnh,
ăn không ngon miệng, sút cân trên 5% một tháng. Có kèm theo 2 trong số 3 triệu
chứng chủ yếu là đặc trưng bởi khí sắc trầm đến một mức độ hoàn toàn không bình
thường đối với một cá nhân, mất mọi quan tâm thích thú mà cá nhân vẫn hứng thú,
giảm năng lượng dễ mệt mỏi, phổ biến là tăng mệt mỏi rõ rệt nhiều sau khi chỉ sau
một cố gắng nhỏ. Có ít nhất 2 trên 7 triệu chứng phổ biến khác như: giảm sút sự
tập trung chú ý, giảm sút lòng tự trọng và lòng tự tin; có cảm giác bị tội quá mức tự
trách bản thân và không xứng đáng; bi quan về tương lai; có ý tưởng và hành vi tự
hủy hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ; giảm cảm giác ngon miệng; ngoài ra còn
có các triệu chứng loạn thần [12].
1.2.2. Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán trầm cảm ở phụ nữ sau sinh
1.2.2.1. Đặc điểm lâm sàng trầm cảm ở phụ nữ sau sinh
Trầm cảm sau sinh là một dạng trong các rối loạn tâm thần xảy ra vào thời
kỳ sinh đẻ, ngoài TCSS nhóm bệnh này còn bao gồm: Trạng thái buồn chán sau
sinh (postpartum blues), loạn thần sau sinh [18].
Bảng 1.1: Phân loại rối loạn tâm thần sau sinh
Rối loạn


Tần suất

Khởi phát

Triệu chứng

Buồn sau sinh

30 – 85%

Trong tuần

Cảm xúc xao động, dễ

đầu tiên
TCSS

10 – 15%

Thường mơ hồ,
trong 2 – 3

13

mất ngủ, lo âu.
Khí sắc trầm buồn, lo
âu qúa mức, mất ngủ.



tháng đầu
Loạn thần sau
sinh

0,1 – 0,2%

Thường trong

Kích động, gây hấn,

2 – 4 tuần đầu

khísắc trầm hay hưng
phấn, hoang tưởng, giải
thể nhân cách, hành vi
vô tổ chức.

Các triệu chứng có thể xuất hiện bao gồm các triệu chứng thường gặp: cảm
thấy mình không xứng đáng chăm sóc em bé; sao nhãng trong việc chăm sóc con: dễ
lo âu và hoảng sợ; cáu gắt với người khác; buồn bã; cảm thấy có tội; không còn thích
thú với những thứ, hoạt động mình ưa thích trước kia; Giảm giao tiếp với người khác;
rối loạn giấc ngủ (thường là mất ngủ); ăn uống thất thường; an ủi không đem lại hiệu
quả; cảm thấy trống rỗng; cảm thấy yếu ớt hoặc không còn sức lực; không cảm thấy
thoải mái trong quan hệ tình dục; giảm khả năng diễn đạt chính xác khi nói hoặc viết;
tuyệt vọng, bi quan; lòng tự trọng thấp. Những ý nghĩ ám ảnh có thể xuất hiện và
thường liên quan đến bạo lực với đứa trẻ. Trong trường hợp bị nặng ý nghĩ và hành vi
giết đứa trẻ ngay sau khi sinh có thể xảy ra với những hoang tưởng hoặc ảo giác [18].
Theo tác giả Ronnie Lichman cho rằng: Nếu PNSS có 3 hoặc nhiều hơn các
triệu chứng dưới đây thì có thể họ bị mắc TC:
1. Buồn, lo lắng, hoặc “trống rỗng” tâm trạng một cách rõ ràng.

2. Cảm giác tuyệt vọng, bi quan.
3. Cảm giác tội lỗi, vô dụng, bất lực.
4. Mất quan tâm hay niềm vui trong những sở thích và hoạt động mà họ đã
từng trải qua, trong đó có quan hệ tình dục.
5. Giảm năng lượng, mệt mỏi, như là „chậm lại”.
6. Khó tập trung, ghi nhớ, khó đưa ra quyết định.
7. Mất ngủ, thức dậy sớm vào buổi sáng, hoặc là ngủ quên.
8. Giảm cân và chán ăn hoặc ăn quá nhiều và tăng cân.
9. Suy nghĩ về cái chết hoặc tự sát, tự tử.

14


10. Triệu chứng thể chất thể hiện ở sự bồn chồn, khó chịu thường xuyên nhưng
không đáp ứng với điều trị, ví dụ như nhức đầu, rối loạn tiêu hóa và đau mãn tính.

Về thời gian, các triệu chứng trên cần kéo dài ít nhất 2 tuần để có thể chẩn
đoán một người có trầm cảm [2, tr39 - 40].
Theo Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD – 10) của Tổ chức Y tế
thế giới.Rối loạn tâm thần sau sinh được xếp vào mục F53 trong Bảng phân loại
bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi kết hợp với thời kỳ sinh
đẻ không phân loại ở nơi khác. Tuy nhiên, mục này chỉ dùng cho các rối loạn tâm
thần liên quan đến thời kỳ sinh đẻ [12].
Gồm các mã sau:
F53.0: Các rối loạn tâm thần và hành vi nhẹ kết hợp với thời kỳ sinh đẻ,
không phân loại ở nơi khác.
F53.1: Các rối loạn tâm thần và hành vi nặng kết hợp với thời kỳ sinh đẻ,
không phân loại ở nơi khác.
F53.8: Các rối loạn tâm thần và hành vi khác kết hợp với thời kỳ sinh đẻ,
không phân loại nơi khác.

F53.9: Rối loạn tâm thần thời kỳ sinh đẻ, không biệt định.
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán các rối loạn tâm thần DSM – V, đã chấp nhận chẩn
đoán hậu sản được sử dụng như một sự khởi phát cụ thể của các rối loạn cảm xúc nếu
người bệnh có đầy đủ các triệu chứng cảm xúc thỏa mãn các tiêu chuẩn trầm cảm,
hưng cảm hoặc hỗn hợp, thì sẽ chẩn đoán vào mục F30 đến F39. Nếu thỏa mãn các
tiêu chuẩn của loạn thần cấp thì sẽ được chẩn đoán sang mục F23. Nhưng cả hai chẩn
đoán trên phải đảm bảo điều kiện là các triệu chứng xảy ra trong vòng 6 tuần sau sinh
[10].
Như vậy, TCSS được hiểu là một dạng bệnh (có tên tiếng Anh là postpartum
depression) ảnh hưởng đến PNSS. TCSS cũng như trầm cảm là một tình trạng rối
loạn khí sắc nặng nề (buồn rầu, chán nản, dễ bị tổn thương, tinh thần bất ổn sau khi
sinh con) gặp tương đối phổ biến ở thời kỳ sau sinh, được đặc trưng bởi các triệu
chứng của trầm cảm nhưng chỉ xảy ra sau khi sinh con.

15


1.2.2.2. Chẩn đoán trầm cảm ở phụ nữ sau sinh
* Chẩn đoán xác định: Các triệu chứng trầm cảm kéo dài ít nhất 2 tuần và
xuất hiện trong vòng 1 – 6 tuần đầu sau sinh [10].
* Chẩn đoán phân biệt: Là phân biệt TCSS với các rối loạn tâm thần khác
- Trầm buồn thoáng qua sau sinh (Baby blue): Có nhiều PNSS cảm xúc trầm
buồn xuất hiện, các nghiên cứu chỉ ra khoảng 30 – 75% ở người mẹ, tình trạng này
bắt đầu trong vòng 3 – 4 ngày sau khi sinh và có thể kéo dài đến 14 ngày. Đó là
những cảm giác buồn bã, mất ngủ, mệt mỏi ủ rũ, tính tình dễ bị kích thích. Phụ nữ
có baby blue dễ thay đổi cảm xúc, dễ dàng chuyển nhanh từ vui sang buồn, đặc biệt
là rất dễ khóc, kèm theo có biểu hiện lo lắng. Lo lắng xuất hiện như thời kỳ đầu
mang thai thường gắn liền với ý nghĩ ám ảnh rằng mình không có khả năng chăm
sóc được con, xen kẽ với cảm xúc hạnh phúc là tâm trạng bi quan chán nản. Ngoài
ra, còn có biểu hiện đau đầu, mất tập trung. Các rối loạn thường nhẹ và kín đáo,

mạnh nhất vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 và thường hết trong khoảng 10 ngày đầu
sau sinh, các triệu chứng này dần mất đi mà không cần có sự can thiệp nào [18].
- Trầm cảm sau sinh (Postpartum depression – PPD): Là tình trạng nặng và
kéo dài hơn 2 tuần so với cơn buồn thoáng qua sau sinh. Khoảng 10% - 15% PNSS
phải đối mặt với trầm cảm và có thể kéo dài hàng tháng đến hàng năm hoặc lâu hơn
ảnh hưởng trực tiếp tới việc sinh hoạt hàng ngày và việc chăm sóc đứa trẻ. Những
triệu chứng bao gồm như: Mệt mỏi, mất ngủ, mất cảm giác ăn uống, cáu kỉnh, giận
dữ thường xuyên, mất hứng thú tình dục, mất hứng thú trong cuộc sống, mặc cảm tự
ti, tách biệt khỏi gia đình và các mối quan hệ khác bạn bè, có ý nghĩ hành vi tự tử
hoặc làm hại đứa con [18]
- Trầm cảm sau sinh có loạn thần (Postpartum psychosis – PPP): Là tình
trạng hiếm gặp của TCSS thường khởi phát trong vòng 4 tuần sau sinh nhưng có
một số trường hợp xuất hiện ở tuần thứ 2 sau sinh. Phụ nữmắc TCSS có loạn thần
thường biểu hiện triệu chứng sau: Hoang tưởng, thay đổi tính tình rất nhanh, có ảo
giác, thể hiện sự tuyệt vọng, mất niềm tin, mất khả năng kiểm soát bản thân như đập
phá la hét; tự làm hại bản thân, đứa con hoặc người khác [18].

16


Riêng với PNSS có trầm cảm được chẩn đoán theo ba mức độ khác nhau:
Nhẹ, vừa, nặng tùy thuộc vào số lượng của các triệu chứng đặc trưng; phổ biến và
các triệu chứng này phải kéo dài ít nhất liên tục trong hai tuần. Tiêu chuẩn chẩn
đoán giai đoạn trầm cảm dựa vào 3 triệu chứng đặc trưng và 7 triệu chứng phổ biến
[10, 11,18, 24].
- Trầm cảm ở mức độ nhẹ: Sau sinh khoảng 3 – 4 ngày người mẹ thường
thấy mệt mỏi, chán ăn, ngủ kém, các hoạt động khó khăn. Họ thường lo lắng thái
quá cho sức khỏe bản thân và của đứa con, có thể họ cảm thấy mình kém cỏi vì
không có khả năng chăm sóc con được tốt, đôi khi khóc lóc vô cớ cho rằng mình bị
bỏ rơi.

- Trầm cảm ở mức độ vừa: Người mẹ thường cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức, rối
loạn giấc ngủ, dễ bị kích động hay cáu giận vô cớ, biểu hiện có cơn chảy nước mắt.
Có cảm giác bất lực, buồn phiền, chán nản không muốn tiếp xúc với mọi người, quá
lo lắng về cách cho con ăn, cách giữ vệ sinh, cách chăm sóc dạy dỗ con, hoặc có thể
cho con ăn hết sức cầu kỳ tỉ mỉ.
- Trầm cảm ở mức độ nặng: Thường tiếp theo giai đoạn “buồn sau sinh” với
các triệu chứng trầm cảm rõ nét. Biểu hiện như luôn cho mình và con mắc bệnh
hiểm nghèo, là người mẹ không biết cách chăm sóc con, vô dụng, xấu xa không
xứng đáng … Người bệnh thường lo âu sợ hãi, buồn rầu, hay khóc lóc vô cớ, mất
định hướng không gian, thời gian, không làm chủ được bản thân, thậm chí những
lời nói hay hành vi thô bạo mất kiểm soát xúc phạm đến những người xung quanh.
Khả năng chăm sóc con ngày càng kém, có khi không quan tâm đến con mình, bỏ
mặc hoặc hành hạ con thậm chí giết hại con rồi tự sát. Tuy nhiên, tự sát và giết trẻ
sơ sinh có nhiều khả năng xảy ra với loạn thần sau sinh hơn là trầm cảm sau sinh.
1.2.3.Một số nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng dẫn đến rối loạn trầm cảm
ở phụ nữ sau sinh
Cũng như tỷ lệ TCSS, việc nhận định những nguyên nhân, các yếu tố ảnh
hưởng dẫn đến TCSS ở PNSS được nói đến rất nhiều. Tuy nhiên, theo quan niệm

17


×