Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư từ các nguồn vốn khác nhau, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.15 KB, 7 trang )

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ TỪ CÁC 
NGUỒN VỐN KHÁC NHAU, HIỆU QUẢ KINH TẾ 
VÀ HIỆU QUẢ XàHỘI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.1. Dự án đầu tư 
Khái niệm dự án đầu tư: Theo giáo trình Hiệu quả và Quản lý dự án Nhà nước, dự án đầu tư 
(về  nội dung) là tổng thể  các hoạt động được dự  kiến với nguồn lực và chi phí cần thiết,  
được sắp xếp theo một kế hoạch chặt chẽ có thời gian và địa điểm xác định để tạo mới, mở 
rộng hay cải tạo những đối tượng nhất định nhằm mục đích thực hiện những mục tiêu về 
kinh

 

tế

 



 

hội

 

nhất

 

định.



Dự án đầu tư được thể hiện dưới hình thức là một tập hồ sơ tài liệu trình bày rất chi tiết, rõ 
ràng và hệ  thống các hoạt động được thực hiện với các nguồn lực, chi phí, sẽ  được bố  trí 
theo một kế hoạch chặt chẽ để đạt được những kết quả cụ thể nhằm thực hiện những mục  
tiêu về kinh tế xã hội nhất định.
Các yếu tố của dự án đầu tư: Một dự án đầu tư cần có các yếu tố cơ bản nhất định như sau:
Các mục tiêu của dự án: Được đề cập đến với hai góc độ chính là góc độ của nhà đầu  
tư và góc độ của xã hội. Với các nhà đầu tư và doanh nghiệp thì mục tiêu chính là lợi  
nhuận. Với xã hội thì có rất nhiều mục tiêu như: tạo thêm việc làm, tăng cường các 
sản phẩm và dịch vụ  xã hội, bảo vệ môi trường,… Hay có thể  nói, đó là kết quả  và  
lợi ích mà dự án đem lại cho nhà đầu tư và xã hội;
Các hoạt động, giải pháp đồng bộ  về tổ chức, kinh tế và kỹ  thuật để  thực hiện mục 
tiêu của dự án;
Nguồn lực cần thiết để thực hiện các hoạt động và chi phí về  các nguồn lực đó gồm 
vật lực, tài lực, nhân lực, công nghệ và thông tin;
Nguồn vốn đầu tư để tạo nên vốn đầu tư của dự án;


Các sản phẩm và dịch vụ được tạo ra của dự án;
Thời gian và địa điểm thực hiện các hoạt động của dự  án: Dự  án đầu tư  có giới hạn 
về thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc cũng như không gian thực hiện dự án.
Ngoài ra, một dự án đầu tư  rất cần đảm bảo tính khả  thi và cần đáp ứng thêm một số  yêu  
cầu cơ bản khác như: Tính khoa học, tính thực tiễn, tính pháp lý và tính đồng nhất.
Phân loại dự  án đầu tư: Có nhiều dạng dự  án và tùy theo tiêu chí khác nhau mà có các cách 
phân loại khác nhau về dự án đầu tư. Trong đó, các tiêu chí thường thấy như sau:
Căn cứ vào chủ thể khởi xướng: Dự án cá nhân, tập thể, quốc gia và liên quốc gia hay 
quốc tế.
Căn cứ vào thời gian: Dự án ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Căn cứ  vào tính chất hoạt động của dự  án: Dự  án sản xuất, dự  án dịch vụ, thương 
mại, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, dự án dịch vụ xã hội.

Căn cứ vào quy mô: Dự án lớn và dự án nhỏ.
Căn cứ vào mức độ chi tiết của nội dung dự án gồm 2 loại: Dự án tiền khả thi và dự 
án khả thi.
Căn cứ vào sự phân cấp quản lý dự án: Trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, chia 
các dự án đầu tư (không kể các dự  án đầu tư  trực tiếp của nước ngoài) thành: Dự  án  
nhóm A, B, C.
1.1.2. Dự án CDM
Khái niệm CDM: (Clean Development Mechanism) Cơ chế phát triển sạch là một cơ chế hợp  
tác quốc tế  theo Nghị  định thư  Kyoto đã được Việt Nam ký ngày 03/12/1998 và phê chuẩn  
ngày 25/12/2002.
Nghị định thư Kyoto đưa ra 3 cơ chế hợp tác nhằm giúp các nước công nghiệp hóa (Các Bên 
thuộc Phụ lục I của UNFCCC ­ Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đối khí hậu)  
[ Gồm các nước có nền công nghiệp hóa phát triển. Danh sách các Bên thuộc Phụ  lục I của 
UNFCCC     gi ảm   thi ểu  
chi phí trong việc đáp  ứng chỉ  tiêu giảm phát thải của mình bằng việc đạt được giảm phát 
thải với chi phí thấp nhất tại các nước khác, hơn là thực hiện giảm phát thải trong nước.  


Theo Nghị định thư, 3 cơ chế đó là: Mua bán quyền phát thải Quốc tế (IET); Đồng thực hiện 
(JI) và Cơ chế phát triển sạch (CDM).
Theo nội dung của Nghị định thư  Kyoto: “Cơ  chế  phát triển sạch cho phép các dự  án giảm 
phát thải hỗ  trợ  phát triển bền vững  ở  các nước đang phát triển; thu được “các giảm phát  
thải được chứng nhận” (CERs) cho chủ dự án đầu tư”.
CDM được quy định tại điều 12 của Nghị định thư Kyoto: “Chính phủ hoặc tổ chức, cá nhân 
ở các nước công nghiệp được cho phép thực hiện dự án giảm phát thải ở các nước đang phát  
triển để nhận được CERs, đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải của quốc gia đó. CDM sẽ 
thúc đẩy phát triển bền vững  ở  các nước đang phát triển và cho phép các nước phát triển  
đóng góp vào mục tiêu giảm mật độ tập trung khí nhà kính trong khí quyển”.
Mục đích thực hiện CDM: CDM được thực hiện nhằm làm giảm sự  phát thải khí nhà kính 
[Sáu loại khí nhà kính được nêu trong Nghị  định thư  Kyoto gồm: CO2 Carbon dioxide; CH4  

Methane; N2O Nitrous oxide; HFCs Hydrofluorocarbon; PFCs Per­fluorocarbon; SF6 Sulphur 
Hexafluoride.] (nguyên nhân chính gây ra sự   ấm lên của Trái đất và biến đổi khí hậu hiện 
nay) trên phạm vi toàn cầu. Thông qua cơ chế đầu tư giữa các nước công nghiệp phát triển  
với các nước đang phát triển, tăng cường khuyến khích các cơ  quan, tổ  chức, doanh nghiệp 
của các nước phát triển thực hiện các dự  án giảm phát thải khí nhà kính dưới dạng “Các  
giảm phát thải được chứng nhận (CERs)”.
Khái niệm dự  án CDM: Dự  án CDM thuộc loại dự  án đầu tư, chủ  yếu là đầu tư  từ  nước  
ngoài; do vậy, các dự án CDM tại Việt Nam chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy phạm  
pháp luật của Việt Nam (trong đó có Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và Nghị định số 108/2006/NĐ­CP ngày 
22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của 
Luật Đầu tư) Đánh giá hiệu quả  của dự  án đầu tư  từ  các nguồn vốn khác nhau, hiệu quả 
kinh tế và hiệu quả xã hội.
Lĩnh vực xây dựng và thực hiện dự án CDM: Theo quy định chung của quốc tế, dự án CDM  
được xây dựng trong 15 lĩnh vực cơ bản sau:
Sản xuất năng lượng;


Chuyển tải năng lượng;
Tiêu thụ năng lượng;
Nông nghiệp;
Xử lý, loại bỏ rác thải;
Trồng rừng và tái trồng rừng;
Công nghiệp hóa chất;
Công nghiệp chế tạo;
Xây dựng;
Giao thông;
Khai mỏ hoặc khai khoáng;
Sản xuất kim loại;
Phát thải từ nhiên liệu (nhiên liệu rắn, dầu và khí);

Phát thải từ sản xuất và tiêu thụ Halocarbons và Sulphur hexafluoride;
Sử dụng dung môi.
Các dự án CDM được khuyến khích đầu tư  trước hết sẽ là dự  án  ứng dụng công nghệ, kỹ 
thuật tiên tiến, thân thiện với môi trường; giảm bớt phát thải khí nhà kính, giảm ô nhiễm, 
góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ khí hậu, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội bền vững. 
Khuyến khích đầu tư tập trung vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ  cao,  
khu kinh tế, khu vực có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.
Tính đến nay, Việt Nam đã có 22 dự án được Ban điều hành CDM quốc tế xác nhận là dự án 
CDM. Tổng lượng giảm phát thải của các dự  án này trong thời kỳ  tín dụng là 13.143.901 
tCO2e.
Ở Việt Nam, các lĩnh vực có tiềm năng để xây dựng và thực hiện dự án CDM gồm:
Khai thác và ứng dụng, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo;
Nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm năng lượng;
Chuyển đổi sử dụng nhiên liệu hóa thạch để giảm phát thải khí nhà kính;


Thu hồi và sử dụng khí CH4 từ các bãi chôn lấp rác thải, từ các hầm khai thác than để 
tiêu hủy hoặc sử dụng cho phát điện, sinh hoạt;
Thu hồi và sử dụng khí đồng hành từ các hoạt động sản xuất dầu;
Trồng rừng mới và tái trồng rừng
Quy trình xây dựng dự án CDM: Quy trình để xây dựng dự án CDM gồm 7 bước như sơ đồ 
trang sau.
Trong đó: 
4 giai đoạn đầu được tiến hành trước khi chuẩn bị dự án;
3 giai đoạn sau được thực hiện trong suốt thời gian thực hiện dự án.
1.1.3. Hiệu quả  dự  án ­ Đánh giá hiệu quả  của dự  án đầu tư  từ  các nguồn vốn khác  
nhau, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
Hiệu quả  của dự  án nói chung thường được xem xét về  các mặt: Hiệu quả  tài chính, hiệu  
quả kinh tế xã hội. Hiện nay vấn đề môi trường của các dự án ngày càng được quan tâm và 
chú trọng hơn do những quan ngại về tác động, ảnh hưởng xấu và không mong muốn của dự 

án tới môi trường. Vậy nên, hiệu quả về môi trường cũng được xem là một chỉ tiêu khá quan  
trọng khi đánh giá hiệu quả dự án. Giáo trình Hiệu quả và Quản lý dự án Nhà nước đã đưa ra 
một số khái niệm về hiệu quả như sau:
Hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi 
phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện cụ thể, nhất định.
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả  chỉ xét riêng về khía cạnh kinh tế  của vấn đề. Nó mô tả  mối  
quan hệ  giữa lợi ích kinh tế  mà chủ  thể  nhận được và chi phí bỏ  ra để  nhận được lợi ích  
kinh tế  đó. Biểu hiện của lợi ích và chi phí kinh tế  phụ  thuộc vào chủ  thể  và mục tiêu mà 
chủ thể đặt ra.
Hiệu quả tài chính (hay còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp)  
là hiệu quả  kinh tế  chỉ xét trong phạm vi riêng một doanh nghiệp. Hiệu quả  tài chính phản 
ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp  
bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của doanh  
nghiệp và nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu chi có liên quan trực tiếp.


Hiệu quả  kinh tế xã hội (hay còn được gọi là hiệu quả  kinh tế  quốc dân) là hiệu quả  tổng 
hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể được hưởng hiệu quả này là toàn 
bộ  xã hội mà người đại diện là Nhà nước. Vì vậy, những lợi ích và chi phí được xem xét 
trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung  
cơ bản của hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh  
tế. Như vậy, hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội đều là hiệu quả kinh tế (so sánh  
giữa lợi ích đạt được và chi phí bỏ  ra để  đạt được lợi ích đó) nhưng  ở  hai phạm vi khác  
nhau. Hiệu quả  tài chính chỉ  xem xét theo quan điểm doanh nghiệp và nhà đầu tư  còn hiệu 
quả kinh tế xã hội được xem xét trên quan điểm toàn thể, của toàn xã hội. Do vậy, có những  
dự án mặc dù không đạt hiệu quả về tài chính nhưng vẫn được thực hiện do hiệu quả kinh  
tế xã hội đem lại là rất lớn.
Hiệu quả  dự  án CDM nhìn chung giống như  các dự  án đầu tư  khác cũng được xem xét về 
hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Tuy nhiên, các dự án CDM nói chung đều rất 
chú trọng, quan tâm nhất và thường hướng đến sự  phát triển bền vững về cả ba khía cạnh:  

kinh tế, xã hội và môi trường; đặc biệt là lợi ích to lớn mà các dự án CDM đem lại cho môi  
trường. Có người đã nhận xét: “Hiệu quả dự án CDM đem lại được xem như tảng băng chìm  
có phần nhìn thấy được rất nhỏ, còn phần chìm ở dưới rất nhiều mà không phải ai cũng có  
thể nhìn thấy và đánh giá hết được”.
Các dự án CDM có lợi ích vô cùng lớn phải kể đến đó là giúp các nước giảm bớt nhu cầu về 
nhiên liệu hóa thạch (như  than đá và đặc biệt là dầu mỏ); tiến tới giảm dần sự phụ  thuộc  
vào các loại nhiên liệu gây ô nhiễm này. Điều này làm nhẹ bớt áp lực cũng như tiền đầu tư 
của các nước trong cuộc tìm kiếm nguồn nhiên liệu mới, ít phát thải hơn. Các nước hiện 
đang hướng tới nguồn nhiên liệu thay thế  như  khí tự  nhiên hoặc xây dựng các nhà máy  
nguyên tử, các đập thủy điện cực lớn. Tuy vậy, theo các nhà khoa học, cả  3 biện pháp này  
đều có rủi ro rất cao và hậu quả cực kỳ thảm khốc cả về con người, kinh tế và môi trường  
khi xảy ra sự cố. Hơn nữa, nguồn nhiên liệu hóa thạch có hạn đang dần cạn kiệt từng ngày.  
Trong tương lai nếu không có nguồn nguyên nhiên liệu thay thế thích hợp, các nước dễ sẽ có 
tranh chấp về nhiên liệu và biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt hơn rất nhiều. Như vậy,  


có thể nói dự án CDM sẽ đem lại viễn cảnh tương lai tươi sáng hơn cho sự phát triển chung 
của thế giới.



×