Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN ở CHI bộ TRƯỜNG PTDT bán TRÚ THCS CHIÊU lưu KỲ sơn TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.72 KB, 41 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu hi sinh cho mục đích lý
tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp lên trên lợi ích cá nhân.
Chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà
nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục tùng tổ chức kỉ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Mỗi Đảng viên phải là một tấm gương sáng cho quần chúng nhân
dân noi theo. Đảng viên của Đảng phải là những người vừa được giác ngộ cao về
lý luận chính trị, vừa là người có ý thức tổ chức, kỷ luật cao, tự giác phục tùng
những quan hệ về tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ . Chính nhờ có hai
điều kiện đó đảm bảo cho đảng viên là người đại biểu cho tính tự giác của giai cấp
công nhân, có đủ khả năng tập hợp, giáo dục và lãnh đạo quần chúng.

Tuy nhiên, hiện nay, trước thực trạng “ Bên cạnh kết quả đạt được, công
tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém
khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng
tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với
vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp
bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ
vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa
vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa
được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực
hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt,
chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán
bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan,
không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến


1


uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước” như
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI của Đảng đã nhận định, thì vấn đề
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay đang trở thành một vấn đề cấp
bách, nóng bỏng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và niềm tin của nhân dân vào
vai trò lãnh đạo của Đảng.

Là một đảng viên hiện đang sinh hoạt tại chi bộ trường PTDT Bán Trú
THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn và là học viên của lớp Trung cấp Chính trị - Hành

chính Kỳ Sơn 8 được trang bị về lý luận chính trị, đặc biệt là về công tác xây
dựng Đảng, tôi tự nhận thấy vai trò, trách nhiệm của bản thân đối với vấn đề
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng để đáp ứng yêu cầu của cách
mạng nước ta lúc này nên tôi chọn đề tài : “ Thực trạng và giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng đảng viên ở chi bộ trường PTDT Bán Trú THCS
Chiêu Lưu - Kỳ Sơn trong giai đoạn hiện nay ” để làm bài tiểu luận tốt
nghiệp. Với đề tài này, tôi mong muốn được góp phần nâng cao chất lượng
Đảng viên ở Chi bộ trường PTDT Bán Trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn nói riêng
và Đảng bộ xã Chiêu Lưu nói chung. Nhằm xây dựng Chi bộ, Đảng bộ ngày
càng trong sạch vững mạnh.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, Tiểu luận gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng đảng viên của tổ chức cơ sở
đảng.
Chương 2: Thực trạng chất lượng đảng viên ở chi bộ trường PTDT Bán Trú

THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn trong những năm qua
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên ở chi bộ trường


PTDT Bán Trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn.

Chương 1

2


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA
VỀ ĐẢNG VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Trong cuộc đấu tranh để xây dựng Đảng cộng sản, đội tiên phong chính trị
của giai cấp công nhân, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặc biệt
quan tâm đến tư cách người đảng viên cộng sản, coi đó là những chuẩn mực để
phân biệt giữa những người đảng viên cộng sản với công nhân và quần chúng cách
mạng. Vì vậy trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, khi nói về những người cộng sản,
Mác - Ăngghen khẳng định người đảng viên cộng sản có hai điểm nổi bật và là tiêu
chí để phân biệt với người thường không phải đảng viên cộng sản. Đó là :
Về mặt thực tiễn: Là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở
tất cả các nước. Là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác
Về lý luận: Họ hơn bộ phận còn lại của GCVS ở chỗ họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.
Tiếp tục tư tưởng của Mác - Ăngghen, khi đưa ra các nguyên lý về xây dựng
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Lênin chỉ rõ: “Đảng kết nạp những người
ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những
người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng”
Để ngày càng phát triển làm tròn nhiệm vụ của mình thì một mặt, Đảng phải

tích cực kết nạp những người ưu tú vào Đảng, mặt khác, Đảng cũng không thể để ở
trong Đảng những người thoái hoá, biến chất, những phần tử cơ hội.
V.I.Lênin cho rằng “chúng ta cần có những đảng viên mới không phải để
quảng cáo mà để làm việc thật sự. Những người đó, chúng ta mở rộng của đảng
đón những người lao động” (V.I.Lênin: Toàn tập, Tiến bộ,M,197, t.39, tr.256).
Đồng thời Người nhấn mạnh “cần phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian giảo,
những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhược”
(V.I.Lênin: Toàn tập, Tiến bộ,M,1978, t.44, tr.154)
3


Như vậy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin hết sức coi trọng và
đề cao vấn đề chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của Đảng.
2. Tư tưởng Hồ Chí minh và quan điểm của Đảng ta về đảng viên và
chất lượng đảng viên
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “ Đảng viên phải trở thành người con hiếu
thảo của Tổ quốc, của giai cấp” (HCM, TT, T7-NXB-ST-H, 1987,Tr 293)
Điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam Khóa XI xác định:
“Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, suốt
đời phấn đấu cho mục đích lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối
sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức kỷ luật của
Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”. Điều lệ cũng xác định để có thể
trở thành đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam thì cần phải đáp ứng đầy đủ các tiêu
chuẩn : “ Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên,

hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú,
được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Ðảng”.
Như vậy, theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
thì đảng viên của đảng cộng sản việt nam phải là những người ưu tú, những nhân tố
tích cực điển hình nổi lên trong phong trào cách mạng của quần chúng, trở thành
tấm gương sáng về mọi mặt cho quần chúng noi theo. Đó chính là chất lượng của
đội ngũ đảng viên của Đảng và Đảng phải bằng mọi cách tốt nhất, có hiệu quả nhất
để giáo dục, rèn luyện họ thành những chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc việt Nam. Chỉ đạt được chất
lượng cao thì đảng viên mới thực sự trở thành người đi trước dẫn đường, tổ chức và
lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng để quần chúng thực hiện thắng lợi
4


các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để thực sự
đem lại lợi ích cho quần chúng nhân nhân, qua đó khẳng định vai trò tiên phong của
lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Đảng viên đi
trước, làng nước theo sau”. Chất lượng đảng viên gắn liền và quyết định chất lượng
tổ chức đảng, chất lượng đảng viên càng nâng cao thì chất lượng tổ chức Đảng càng
vững mạnh và ngược lại. Đảng viên chính là người đầu tiên gương mẫu và hướng
dẫn triển khai đường lối, chính sách của Đảng đến với nhân dân. Mặt khác, chất
lượng đội ngũ đảng viên cao chính là tiền đề, cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ có
chất lượng cao, bởi lẽ trong mọi thời kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đảng viên
được phân công đảm nhiệm các vị trí công việc khác nhau và đảm bảo hoàn thành
tốt, có chất lượng cao đều phụ thuộc vào chất lượng đảng viên. Cho nên chất lượng
đảng viên có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động lãnh đạo của Đảng mà
cả trong hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị khi trở thành Đảng cầm quyền.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng đảng viên
Tiêu chí đánh giá chất lượng đảng viên là những chuẩn mực cơ bản về
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực của người đảng viên, nhờ đó phân biệt

được ranh giới giữa người đảng viên và quần chúng tích cực ngoài Đảng. Xác định
đúng tiêu chuẩn đảng viên bảo đảm cho Đảng luôn giữ được bản chất giai cấp công
nhân và tính tiên phong, giúp Đảng có căn cứ để xây dựng đội ngũ đảng viên trong
sạch, vững mạnh đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Nhận thức được điều đó, thời gian qua các cấp uỷ đảng đã quán triệt và tổ
chức cho đảng viên thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn được quy định tại Điều 1,
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định sáu vấn đề về quan điểm có tính
nguyên tắc được nêu trong Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII), tích cực cụ
thể hoá tiêu chuẩn đảng viên cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương
và đơn vị. Tuy nhiên, việc cụ thể hoá mới chỉ dừng lại ở một vài tiêu chí như trình
độ văn hoá, thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, không thuộc diện
hộ nghèo… chưa xây dựng được một hệ thống các tiêu chuẩn cho đảng viên trên
từng lĩnh vực công tác khác nhau. Hạn chế đó làm cho các cấp uỷ đảng gặp không

5


ít khó khăn trong đánh giá, đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên.
Tình hình và nhiệm vụ cách mạng luôn vận động, phát triển, đòi hỏi tiêu chí
đảng viên được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, để
khắc phục những hạn chế, trên cơ sở những tiêu chuẩn chung, các cấp uỷ đảng cần
xây dựng đội ngũ đảng viên theo những tiêu chuẩn sau:
- Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng
và sự nghiệp cách mạng của Đảng, không hoang mang dao động trước mọi khó khăn
thách thức, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ
chính trị được giao; có ý thức giữ vững, nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng, truyền
thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tình thương yêu đồng chí đồng nghiệp; dù
bất kỳ cương vị nào, hoàn cảnh nào đảng viên cũng phải thể hiện sự hơn hẳn của
mình đối với quần chúng ở tính tiên phong gương mẫu, đức hy sinh; phải là ngọn cờ

dẫn đường, định hướng chính trị, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.
- Hai là, trình độ và năng lực không ngừng được nâng lên. Trong đó, phải có
trình độ lý luận và sự giác ngộ chính trị nhất định, được trang bị những kiến thức
cơ bản về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; có trình độ học vấn ở hàng đầu hoặc cao
hơn mặt bằng chung của quần chúng nơi đảng viên công tác và sinh hoạt; có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức về kinh tế, văn hoá, xã hội đủ sức hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao; có năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực vận động và lãnh
đạo quần chúng; chống bảo thủ và trì trệ, biểu hiện ở sự tự thoả mãn với những gì
đã có mà không thấy hết đòi hỏi ngày một cao của công cuộc đổi mới.
- Ba là, có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu đi đầu trong công tác, đặt
lợi ích của Đảng và Tổ quốc lên trên; liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; có lối sống trong sạch, lành mạnh, chấp
hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội; gia đình gương mẫu, con cái tiến bộ.

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam đã suốt đời chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng đất nước.
Nhân dân ta coi đạo đức của Người là tấm gương sáng tuyệt vời để học tập và noi
theo. Trong di chúc của mình, Người nhấn mạnh “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
Chính từ những bài học đạo đức cách mạng đó, mỗi đảng viên phải luôn trau
dồi đạo đức, tác phong để trở thành một đảng viên tốt, bởi đảng viên tốt là nhân tố
để hình thành tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng là sự liên kết giữa những
con người cùng chung lý tưởng. Đội ngũ đảng viên tốt thì Đảng sẽ mạnh, ngược lại

Đảng mạnh sẽ tạo điều kiện để đảng viên phấn đấu tốt. Cho nên việc quan tâm đến
chất lượng đội ngũ đảng viên cũng chính là quan tâm đến sức chiến đấu và năng
lực lãnh đạo của Đảng.
3. Vị trí , vai trò của đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo
Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản không
chỉ là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, mà còn là đội tiên phong
chính trị của toàn xã hội, là lực lượng lãnh đạo toàn bộ quá trình xây dựng và bảo
vệ đất nước. Đây là sự đổi thay căn bản vị trí, vai trò của Đảng cộng sản đối với xã
hội trong điều kiện có chính quyền.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã
hội hợp thành hệ thống chính trị xã hội. Đảng là một bộ phận trong hệ thống đó,
đồng thời là lực lượng lãnh đạo, là hạt nhân chính trị, chịu trách nhiệm trước giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc thực hiện sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ
hệ thống chính trị ấy. Vị trí, vai trò, trách nhiệm đó xuất phát từ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Từ sự thống nhất cơ bản về lợi ích giữa giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Khi chính quyền đã là của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và đất nước phát triển lên chủ nghĩa xã hội thì vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội là một tất yếu khách quan,
không phải do ý kiến chủ quan, áp đặt của người cộng sản. Mỗi một xã hội đều gắn
7


liền bản chất của một giai cấp nhất định, bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Xã
hội Tư bản chủ nghĩa không tách rời với bản chất của giai cấp tư sản, còn xã hội xã
hội chủ nghĩa gắn liền với bản chất của giai cấp công nhân. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa - với bản chất giai cấp của nó - tất yêu chỉ duy nhất có Đảng cộng sản lãnh
đạo. Không thể có “đa nguyên”, “đa đảng” lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của các chi

bộ, đảng bộ cơ sở: các chi bộ, đảng bộ cơ sở là tổ chức cơ bản của Đảng; là “nền
tảng”, “nền móng” của Đảng; là hạt nhân chính trị ở cơ sở; là “dây chuyền” để
Đảng liên hệ với nhân dân. Điều 21, Điều lệ Đảng KXI xác định: “ Tổ chức cơ sở
đảng( chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng,là hạt nhân chính trị ở cơ
sở”. Điều đó cho thấy tổ chức cơ sở đảng có vai trò, vị trí hết sức quan trọng, quyết
định đối với sự tồn tại và phát triển của hệ thống tổ chức của Đảng và đối với vai
trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chất lượng của chi bộ, đảng bộ cơ sở là một trong
những yếu tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ sở . Chủ tịch Hồ Chí minh viết: “ Để lãnh đạo
cách mạng thì Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt”; “muốn làm nhà cho
tốt thì phải xây dựng nền cho vững, muốn thực hiện kế hoạch tốt thì phải chăm lo
củng cố chi bộ”.
II. TÍNH TẤT YẾU PHẢI KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên là một nhiệm vụ quan
trọng và phức tạp, phải giải quyết nhiều mối quan hệ nhằm đạt được mục tiêu là
tạo ra được đội ngũ đảng viên trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp,
của dân tộc, có đủ phẩm chất và uy tín lãnh đạo quần chúng tiến hành sự nghiệp
cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh Quốc tế hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội và nhiều Đảng Cộng
sản đang lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc và trước thực trạng đội ngũ đảng
viên của Đảng ta thì nhiệm vụ nâng cao chất lượng Đảng viên càng trở nên cấp
bách. Công tác xây dựng Đảng nói chung, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ
8


đảng viên nói riêng cần chuyển biến kịp thời, vừa phải tổng kết kinh nghiệm xây
dựng và nâng cao chất lượng chất lượng của đội ngũ đảng viên của Đảng ta, vừa
phải tìm ra những vấn đề có tính quy luật đặc thù nhằm xây dựng thành công đội
ngũ đảng viên của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ Đảng viên là phải khẳng định được bản chất chính trị của Đảng, coi đó là căn
cứ, phương hướng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên.
Để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng, cần nâng
cao chất lượng hoạt động của đội ngũ đảng viên, đồng thời phải thường xuyên tiến
hành sàng lọc đội ngũ đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi
Đảng. Thông qua rèn luyện và hoạt động thực tiễn, trong đội ngũ đảng viên xuất
hiện các mức độ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ khác nhau, vì thế vấn đề sàng lọc
cần được tiến hành thường xuyên. Để việc phân tích chất lượng đảng viên đúng và
quá trình sàng lọc chính xác, Đảng ta đã chỉ rõ tiêu chuẩn của người đảng viên
trong giai đoạn hiện nay là “đảng viên phải là người có giác ngộ chính trị, trung
thành với mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa, đặt lợi ích của Tổ Quốc và lợi ích của
nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, có đạo đức, có lối sống lành mạnh, gắn bó với
quần chúng, gương mẫu và phấn đấu trở thành người lao động và quản lí giỏi, hoàn
thành nhiệm vụ được giao, chấp hành điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước,
thường xuyên học tập nâng cao trình độ học thức và công tác, có ý thức tổ chức kỉ
luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Nhận thức rõ tình hình và những yêu cầu đổi mới của Đất nước đang đặt ra
là công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, hoàn thành chương trình mục tiêu
Quốc gia vê xây dựng nông thôn mới. Đảng ta xác định “Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Điều đó đã đặt ra cho
mỗi đảng viên phải nâng cao trình độ về mọi mặt như: bản lĩnh chính trị; phẩm
chất đạo đức; năng lực trí tuệ; ý thức tổ chức kỉ luật … coi trọng nhiệm vụ tự bảo
vệ mình, nêu cao cảnh giác cách mạng, giữ vững chính trị nội bộ. Vì thế mọi đảng
viên đều phải tham gia sinh hoạt trong một tổ chức nhất định mà cụ thể, trực tiếp là
9


chi bộ. Kinh nghiệm chung cho thấy ở chi bộ nào giáo dục, tổ chức và quản lí tốt

mọi hoạt động của đảng viên cũng như giữ đúng chế độ sinh hoạt, giữ nghiêm kỉ
luật Đảng, nội dung sinh hoạt phong phú, phương thức lãnh đạo cụ thể và thiết
thực thì ở đó chất lượng đảng viên tốt.
Do nhiệm vụ cách mạng luôn vận động và phát triển, yêu cầu đội ngũ đảng
viên phải thường xuyên nâng cao về chất lượng là yếu tố khách quan. Vì vậy các
cấp ủy Đảng phải thường xuyên chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện toàn diện
cho đội ngũ đảng viên.
III. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN PHẢI NGHIÊM TÚC THỰC HIỆN ĐỂ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
1. Nghiêm chỉnh thực hiện tốt các nguyên tắc trong xây dựng tổ chức và hoạt
động của Đảng.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh người đã chỉ ra 5 nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm:
 Nguyên tắc tập trung dân chủ.
 Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
 Nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
 Nguyên tắc kỉ luật nghiêm minh và tự giác.
 Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Trong năm nguyên tắc này thì nguyên tắc "Tập trung dân chủ" là nguyên tắc
cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng Sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ,
vừa phát huy sức mạnh của mỗi người lại vừa phát huy sức mạnh của cả tổ chức
Đảng. Trong nguyên tắc này, "dân chủ" và "tập trung" là hai mặt có quan hệ gắn bó
và thống nhất với nhau. Dân chủ để đi đến tập trung , là cơ sở của tập trung, chứ
không phải là dân chủ tùy tiện, phân tán, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ
sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
Trong đó:
+ Về tập trung: Người nhấn mạnh phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành
động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, mọi
10



đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng, từ đó làm cho "Đảng
ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người".
+ Về dân chủ: như Người đã phân tích "Của quí báu nhất của nhân dân" là thành
quả của cách mạng. Người đã viết "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do, tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến
của mình, góp phần tìm ra chân lý, đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ
của mọi người, khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý". Đồng thời, người luôn
nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện và phát huy dân chủ trong nội bộ đảng và
trong nội bộ các tổ chức chính trị xã hội.
Đúng vậy, đây là nguyên tắc cơ bản nhất: Vì nó là nguyên tắc làm nên tổ
chức có tính kỳ luật chặt chẽ, nó loại trừ được sự chia rẽ bè phái , đảm bảo được
tập trung thống nhất tạo nên sức mạnh của Đảng. Nếu nguyên tắc này không được
đảm bảo thì đảng không trở thành tổ chức đoàn kết thống nhất, rất dễ dẫn đến tình
trạng lỏng lẻo, vô tổ chức hoặc tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Có thể thấy,
thực tế này đã xảy ra ở Trung Quốc, dưới thời Chủ tịch Mao Trạch Đông, trong
quán trình xây dựng đất nước Trung Quốc phải trả giá đắt bằng tính mạng của gần
60 triệu người dân Trung Quốc bắt nguồn từ sai làm chia rẽ trong nội bộ đảng và
đường lối lãnh đạo. Đồng thời nguyên tác này thể hiện tinh thần chuyên chính của
Đảng, phản ánh đúng bản chất của giai cấp công nhân. Kết hợp đồng bộ với các
nguyên tắc khác, nguyên tắc tập trung dân chủ giúp cho Đảng ngày một hoàn thiện
và giữ vững vị trí lãnh đạo đất nước trong quá trình xậy dựng và bảo vệ tổ quốc.
Các nguyên tác này có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một hệ thống nhất
định, ví dụ:
Khi liên hệ giữa vấn đề dân chủ tập trung với tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, Người có một sự giải thích rất mới mẻ:"Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân
phụ trách là tập trung, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung"
hoặc để nhấn mạnh vai trò của nguyên tắc tự phê bình và phê bình, Người đã nhấn
mạnh "Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng

dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình". Như vậy, nguyên tắc phê bình
11


và tự phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của đảng, nó là cơ sở để thực hiện các
nguyên tắc khắc như : Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, kỷ luật nghiêm
minh và tự giác...
2. Làm tốt việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên và tăng cường kiểm tra,
giám sát thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
a) Phân công nhiệm vụ cho đảng viên:
Chi bộ đặc biệt coi trọng việc phân công công việc cho Đảng viên. Thực
hiện phương châm mọi Đảng viên phải được phân công công việc và giám sát theo
dõi mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công.
+ Phân loại Đảng viên:
Phân loại Đảng viên là công vệc được tiến hành thường xuyên trong sinh hoạt
thường kỳ của chi bộ, qua phân loại Đảng viên tạo điều kiện giúp Đảng viên hoàn
thành nhiệm vô. Phân loại Đảng viên phải đảm bảo công bằng chính xác công khai
dân chủ, từ phân loại Đảng viên, suy tôn những Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ
xuất sắc, nhắc nhở những Đảng viên còn hạn chế để vươn lên trong mọi lĩnh vực.
+ Quản lý Đảng viên:
Quản lý Đảng viên, về thực chất là quản lý con người trên các mặt: quản lý hoạt
động của Đảng viên, quản lý hồ sơ, quản lý việc phát và sử dụng thẻ Đảng.
Quản lý Chính trị và tư tưởng của Đảng viên là hướng cho Đảng viên suy
nghĩ và hành động phù hợp với quan điểm đường lối của Đảng, phù hợp với thực
tế khách quan, đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua sinh hoạt Đảng,
sinh hoạt tư tưởng mà định hướng chính trị tư tưởng cho Đảng viên. Năng lực
công tác của Đảng viên được biểu hiện thông qua nhiệm vô mà người Đảng viên
được giao, những chức vô công tác mà họ đảm nhận. Mục đích của công tác quản
lý trình độ, năng lực của Đảng viên là làm cho Đảng viên say sưa học tập, rèn
luyện để có thực học, thực tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Quản lý các

mối quan hệ xã hội của Đảng viên, quản lý đạo đức lối sống. Chi bộ cần làm cho
mọi cán bộ Đảng viên của Đảng nhận thức đầy đủ vai trò ý nghĩa của việc tăng
cường quản Đảng viên trong tình hình hiện nay, từ đó tự giác chấp hành các quy
định của Trung ương Đảng.
12


Quản lý Đảng viên thông qua việc giao nhiệm vụ, phân công công tác cho
Đảng viên. Quản lý Đảng viên còn thông qua sự duy trỡ nền nếp sinh hoạt Đảng.
kết hợp quản lý Đảng viên nơi làm việc và nơi cư trú, giữ mối liên hệ của Đảng
viên với Đảng bộ nơi Đảng viên cư trú theo quyết định 76 của Trung ương .
b) Công tác kiểm tra giám sát:
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, của ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở
và của chi bộ có tác dụng trực tiếp và có ý nghĩa sâu sắc trong việc nâng cao vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; góp phần tích cực vào củng
cố, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh và thúc đẩy việc hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát; Chi
bộ chỉ đạo quán triệt nghiêm túc Quyết định số 46-QĐ/TW, về “Hướng dẫn thực
hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong chương
VII, Chương VIII - Điều lệ Đảng khóa XI” và Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-112011 của Ban Chấp hành Trung ương, về “Những điều đảng viên không được
làm”; Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 của BCH Trung ương, về “Xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm”. Thông qua việc quán triệt các quyết định, quy định,
hướng dẫn của Trung ương, nhận thức của đảng viên trong Chi bộ đã nâng lên, đây
là yếu tố quan trọng để tạo ý thức tự giác của mỗi đảng viên trong việc chấp hành
các quy định của Đảng.
Xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát trong Chi bộ hàng tháng, hàng quí và
hàng năm.
Thông qua kiểm tra, giám sát giúp các đảng viên tiếp tục phát huy ưu điểm,
đồng thời chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; với phương

châm lấy giáo dục, phòng ngừa là chính.
Việc xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên sai phạm đảm bảo nghiêm túc, khách
quan, đúng người, đúng lỗi phạm. Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá
trình thực hiện công tác kiểm tra, giám sát ở Chi bộ còn bộc lộ những mặt hạn chế
đó là: Nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát của chi ủy viên chưa đầy đủ, còn
coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của UBKT các cấp; hoặc chỉ khi nào tổ chức
đảng, đảng viên có vấn đề mới tiến hành kiểm tra. Việc xây dựng kế hoạch công
tác kiểm tra, giám sát chưa phù hợp, chưa coi trọng kiểm tra tổ chức đảng và đảng
viên có dấu hiệu vi phạm; công tác giám sát còn lúng túng; chất lượng, hiệu quả
13


các cuộc kiểm tra còn hạn chế; quy trình kiểm tra, lập và lưu trữ hồ sơ các cuộc
kiểm tra, giám sát chưa đầy đủ.
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát; đáp ứng kịp thời yêu
cầu của cách mạng trong tình hình mới; Chi bộ cần tập trung làm tốt các nội dung
sau:
1- Chi bộ phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng; phải coi đó là nhiệm vụ thường xuyên trong công tác chỉ
đạo của chi bộ; phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của công tác xây
dựng Đảng làm mục tiêu, phương hướng và nội dung chỉ đạo công tác kiểm tra,
giám sát.
2- Phải đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên; về nhận thức về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và
năng lực công tác. Động viên cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần tự giác, phát huy
tính tiền phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan,
đơn vị vững mạnh.
3- Chú trọng kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy UBKT và
chất lượng hoạt động của ủy viên phụ trách công tác kiểm tra, giám sát. Kịp thời

triển khai nghiên cứu, quán triệt và thực hiện các quy định, hướng dẫn của cấp ủy,
UBKT cấp trên về công tác kiểm tra, giám sát.
4- Công tác kiểm tra, giám sát phải tiến hành chủ động, thường xuyên và gắn chặt
với công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ công tác khác của chi bộ.
Chú trọng xây dựng và thực hiện nghiêm túc kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát
hàng tháng, hàng quí và hàng năm. Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị
của cơ quan, đơn vị và tình hình thực tế để lựa chọn hình thức kiểm tra, giám sát
thích hợp.
5- Tăng cường tình đoàn kết, thống nhất trong đơn vị; phát huy tinh thần tự giác,
đề cao dân chủ, tinh thần phê bình và tự phê bình của đảng viên trong Chi bộ; trách
nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng, của các đoàn thể chính trị-xã hội và các
ban, ngành có liên quan. Phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với công tác thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của
các đoàn thể chính trị-xã hội.
6- Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, nói và làm trái với Cương
lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà
14


nước. Quá trình kiểm tra, giám sát phải bảo vệ cái đúng, kịp thời ngăn chặn những
cái sai và kiên quyết xử lý những vi phạm; bảo đảm tính “Công minh, chính xác,
kịp thời”. Những đảng viên bị xử lý kỷ luật về Đảng, phải kiến nghị xử lý kỷ luật
về chính quyền, đoàn thể; phải xem xét, bố trí phù hợp về mặt tổ chức, đảm bảo
tính hiệu quả sau kiểm tra.
7- Phải coi trọng việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong chỉ đạo và tổ chức
thực hiện. Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, chế độ báo cáo và lưu trữ hồ sơ
kiểm tra, giám sát theo quy định.
3. Làm tốt công tác đảng viên.
Công tác tuyên truyền giáo dục Đảng viên đóng vai trò quan
trọng đặc biệt, bởi Đảng viên có nhận thức đúng thì hành động

đúng. Nhận thức của Đảng viên lệch lạc thì hành động sẽ sai lầm.
Chi uỷ chi bộ đó thường xuyên tuyên truyền giáo dục Đảng viên
nhận thức đúng về: Chủ trương đường lối, Chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, vì vậy nhìn chung Đảng viên trong chi bộ
luôn thực hiện tốt những quy định trong điều lệ Đảng và nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ...vấn đề quản lý Đảng viên có nhiều
thuận lợi. Đảng viên thường tập trung tại cơ quan để công tác nên
việc theo dõi Đảng viên thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ
của người Đảng viên tương đối thuận lợi. Ngoài ra chi bộ còn
thường xuyên phối hợp với chi bộ, khối xóm nơi Đảng viên cư trú
để lấy ý kiến đóng góp của quần chúng với Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ, đảng viên cần phải có đạo
đức cách mạng, vì cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng. Đảng viên là tế bào của Đảng. Sức mạnh của Đảng là do sức mạnh
của đội ngũ đảng viên tạo nên. Bác Hồ khẳng định: "Để lãnh đạo cách mạng,
Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt".
Do đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải đặc biệt chú trọng việc giáo dục, rèn
luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong bản Di chúc để
lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, trước hết Người nói về Đảng và vấn
15


đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn mạnh: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho việc tu
dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Một là, lời nói phải đi đôi với việc làm, phải nêu gương về đạo đức cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên, việc gì có lợi cho dân, ta

phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Người thường phê
phán loại cán bộ, đảng viên nhút nhát, kém cỏi, nói không dám nói, làm không
dám làm; cái gì cũng chờ cấp trên bảo sao làm vậy. Loại cán bộ ấy là thụ động,
thiếu sáng tạo và trở nên vô dụng. Và tốt nhất là miệng nói tay làm, làm gương
cho người khác bắt chước... Nếu miệng thì tuyên tuyền bảo người ta siêng năng
mà mình thì tự ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà mình thì xa xỉ, lung
tung thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô dụng. Theo Bác Hồ, đối với người
phương Đông, nhất là đối với người Việt Nam giàu tình cảm, một tấm gương
sống còn có giá hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Vì vậy, cần phải nêu
những tấm gương sáng về đạo đức cho mọi người học tập noi theo.
Hai là, xây phải đi đôi với chống. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người cách mạng". Tuy nhiên, xây dựng phải luôn đi đôi với chống, chống lại
cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức; theo quan điểm của Người là chống cũng nhằm
mục đích xây. Đây là một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp không phải là
ngày một, ngày hai có thể làm được. Biện pháp để xây dựng và chống có hiệu
quả, theo Bác Hồ là thực hiện tự phê bình và phê bình ở chi bộ một cách thành
khẩn, trung thực, thẳng thắn và dũng cảm. Người cho rằng muốn thành người cán
bộ, đảng viên tốt phải có tinh thần tự phê bình và phê bình cao. Người đời không
phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ khuyết
điểm, nhưng chỉ sợ không kiên quyết sửa nó đi. "Một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của
mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính".
Ba là, phải rèn luyện, tu dưỡng và nâng cao đạo đức cách mạng suốt đời
mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mỗi người cán bộ, đảng viên, phải thường
xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hằng ngày; đây là công việc
16



phải làm kiên trì, bền bỉ suốt đời. Theo Người: Đạo đức cách mạng không phải
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Việc
rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải
được thông qua hoạt động thực tiễn sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu. Khi
cách mạng thuận lợi, cũng như lúc cách mạng gặp khó khăn thử thách, cán bộ,
đảng viên đều phải rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng. Thực tế cuộc sống
đã cho thấy khi mới vào Đảng, khi mới được bầu, mới được đề bạt vào các chức
danh nọ, chức danh kia, hầu như ai cũng là người tốt; nhưng có một số
ít người do không rèn luyện thường xuyên đã bị danh lợi uy quyền, tiền tài, sắc
đẹp... làm cho gục ngã, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống. Cho nên việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải được thực hiện
trong suốt cả cuộc đời.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để cho mọi đảng viên đều có phẩm chất, đạo
đức tốt; chi bộ luôn luôn trong sạch vững mạnh thì phải thường xuyên làm
tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điều đó xuất phát từ vai trò của Đảng,
bởi "Đảng ta là một Đảng cầm quyền". Nghĩa là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính
quyền, lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt khẳng
định sức mạnh, quyền lực to lớn của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới
đối với các lĩnh vực đời sống xã hội. Mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các
biểu hiện thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên không chịu tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng nên đã vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền,
lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi. Chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
không ngoài mục đích nào khác là nhằm cho Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Chương 2

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN CỦA CHI BỘ TRƯỜNG
PTDT BÁN TRÚ THCS CHIÊU LƯU TRONG NHỮNG NĂM QUA
17


I. Đặc điểm tình hình của đảng bộ xã Chiêu Lưu và chi bộ trường PTDT Bán

trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn.
1. Đặc điểm tình hình đảng bộ xã Chiêu Lưu.
Chiêu Lưu là một xã nghèo của huyện Kỳ Sơn, nằm dọc theo quốc lộ 7A, địa bàn
tương đối rộng, đường sá đi lại tương đối thuận lợi đến tất cả các bản, với 3 dân tộc
anh em cùng sinh sống (Kinh, Thái, Khơ mú) … nhưng đời sống nhân dân còn nghèo
chủ yếu sống bằng nghề phát nương làm rẫy, trình độ dân trí thấp, các tệ nạn xã hội
luôn rình rập len lỏi vào trong các bản làng. Xã có một đảng bộ với tổng số 284 đảng
viên, trong đó được chia làm 17 chi bộ (Có 1 chi bộ cơ quan; 5 chi bộ trường học là
trường Mầm non 1, Mần Non 2, Tiểu học 1, Tiểu học 2, trường PTDT Bán Trú THCS
Chiêu Lưu và 11 chi bộ bản ). Diện tích tự nhiên của xã là 1235.27 ha.
Trong những năm qua, nhiệm vụ phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đã được các Cấp ủy Đảng, Chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo nên những
chuyển biến tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015.
Đánh giá chung về chất lượng đảng viên trong toàn Đảng bộ nhìn chung đội ngũ
đảng viên đều có nhận thức chính trị tốt.
Có tinh thần trách nhiệm trong công tác, có tính tổ chức và kỷ luật cao, có phẩm
chất đạo đức trong sạch, lối sống lành mạnh, thường xuyên duy trì mối quan hệ gần
gũi với quần chúng.
Tuy nhiên số đảng viên cao tuổi chiếm tỷ lệ cao, sự năng động sáng tạo trong việc
thực hiện các nhiệm vụ trình độ lý luận và nhận thức chính trị còn hạn chế, trong đấu
tranh phê bình còn nể nang, ngại va chạm và né tránh - tính chiến đấu trong đảng còn
hạn chế, chưa được nêu cao.

2. Đặc điểm tình hình trường PTDTBT THCS Chiêu Lưu và chi bộ nhà trường:
a) Về nhà trường:
Trường PTDT Bán Trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn là một trường mới được
sát nhập từ hai cơ sở lại với nhau từ năm 2009, với sự nỗ lực hết mình của tập thể
cán bộ giáo viên cũng như chi bộ nhà trường trong những năm gần đây các phong

18


trào mới có sự chuyển biến mạnh mẽ. Các tiêu chí thi đua đã có nhiều khởi sắc, bộ
mặt nhà trường có nhiều đổi mới …
b) Về các tổ chức đoàn thể :
- Tổ chức công đoàn gồm 35 đoàn viên công đoàn là cán bộ giáo viên, nhân viên,
nhiều năm liền là công đoàn vững mạnh cấp cơ sở .
- Đoàn trường và hội thanh niên: có 07 đoàn viên, Đoàn trường luôn đạt vững
mạnh do cấp trên khen thưởng.
- Về công tác Đội và phong trào thiếu nhi trường học luôn được huyện Đoàn đánh
giá cao.
c) Đặc điểm tình hình Chi bộ:
Chi bộ trường PTDT Bán Trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn trực thuộc Đảng
bộ xã Chiêu Lưu. Với đặc thù là một chi bộ trường học, nhiệm vụ chính trị của chi
bộ là tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước, các chỉ thị nghị quyết của cấp trên; lãnh đạo nhà trường tổ chức
thực hiện tốt các hoạt động giáo dục các thế hệ học sinh ở bậc THCS.
Chi bộ trường PTDT Bán Trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ Sơn có 29 đảng viên
Tình hình chất lượng đội ngũ đảng viên của chi bộ( làm lại bảng này theo
mẫu sau. Sau thống kê có nhận xét về chất lượng đội ngũ đảng viên: nêu mặt
mạnh, tồn tại, hướng khắc phục sắp tới)
TS
Nữ

ĐV
29

15

Văn hóa
TH
0

THCS THPT
0

29/29

Trình độ các mặt
Chuyên môn
ĐH và
TC

> ĐH
01
02
26

Lý luận chính trị
SC

TC

CN


27

01

0

II. Đánh giá chung về công tác đảng viên ở chi bộ trường PTDTBT THCS
Chiêu Lưu - Kỳ Sơn.
1. Những kết quả đạt được
a) Công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên
Trong thời gian qua chi bộ trường PTDT Bán Trú THCS Chiêu Lưu - Kỳ
Sơn luôn luôn giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của chi bộ đối với các hoạt
19


động của nhà trường và các tổ chức đoàn thể. Chi bộ luôn là đội tiên phong, là lực
lượng hạt nhân trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo mọi lĩnh vực công tác của chi bộ
và của đơn vị. Công tác tư tưởng, xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết, thống
nhất trong chi bộ, trong cơ quan, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, của chi bộ,
luôn được chi bộ xác định là nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng
của chi bộ. Vấn đề chỉnh đốn, xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 6 lần 2 khoá VIII, Nghị quyết Trung ương 6 khoá X “về nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên”, Nghị quyết trung ương 4 khóa XI “ Một số vấn đề cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay” luôn được chi bộ quan tâm lãnh đạo và nghiêm túc thực
hiện, mỗi đảng viên đã có ý thức tự hoàn thiện mình góp phần xây dựng chi bộ
ngày càng trong sạch vững mạnh.
Chi bộ thường xuyên chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục cho đảng

viên về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh và thực hiện tốt
các cuộc vận động “Hai không”, cuộc vận động : “Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương tự học¸tự sáng tạo” đặc biệt là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành giáo dục. Truyền thống của giai cấp
công nhân Việt Nam, của nhà giáo Việt Nam luôn được phát huy. Thường xuyên tổ
chức cho đảng viên học tập các chủ trương đường lối, Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và chuyên
môn nghiệp vụ cho đảng viên, đặc biệt là đảng viên mới kết nạp. Đảng viên luôn
gương mẫu đi đầu trong học tập, công tác, lôi cuốn được quần chúng tin tưởng, noi
theo.
b) Công tác phát triển đảng viên mới:
Quán triệt các nghị quyết của Trung ương¸ của tỉnh, của huyên, của xã về
một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng, chi bộ đã
thường xuyên quan tâm và làm tốt công tác phát triển đảng viên¸ hoàn thành chỉ
tiêu phát triển đảng viên hàng năm.

20


Cùng với việc kết nạp, phát triển đảng viên mới, chi bộ thường xuyên phối
hợp với các tổ chức đoàn thể đánh giá phân loại quần chúng, lựa chọn đối tượng
quần chúng ưu tú để bồi dưỡng nhận thức về đảng, tạo nguồn cho công tác phát
triển, kết nạp đảng viên hàng năm.
+ Năm 2009 chi bộ kết nạp được : 02 đảng viên
+ Năm 2010 kết nạp được:

01 đảng viên

+ Năm 2011 kết nạp:


02 đảng viên.

+ Năm 2012 kết nạp:

03 đảng viên.

+ Năm 2014 đang làm hồ sơ đề nghị kết nạp 02 quần chúng ưu tú vao Đảng.
c) Đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Chúng ta biết rằng sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình
bao gồm nhiều giai đoạn, mỗi thời kỳ, giai đoạn có những mục tiêu, nhiệm vụ cụ
thể và những yêu cầu riêng. Trước những đòi hỏi khách quan, bản thân mỗi Đảng
viên phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách, sứ mạng của
mình trước giai cấp và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng sống trong xã
hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu
ảnh hưởng, tác động nhiều mặt của môi trường, các mối quan hệ xã hội cả cái tốt
lẫn cái xấu, cả mặt tích cực, tiến bộ lẫn mặt tiêu cực, lạc hậu. Khả năng tiếp nhận
nguồn sinh lực tiềm tàng và “đề kháng” lại các tiêu cực xã hội “thẩm thấu” vào
Đảng cơ bản phụ thuộc vào hiệu quả công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng. Cho nên
đối với Đảng cộng sản việc xây dựng Đảng cần được đặc biệt quan tâm. Bên cạnh
đó, Hồ Chí Minh cho rằng: Xây dựng Đảng là cơ hội để cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện, giáo dục, tu dưỡng, bồi đắp lý tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng; phát
huy mặt tốt, mặt tích cực, hạn chế, loại bỏ những mặt xấu, tiêu cực của bản thân.
Và xây dựng chỉnh đốn Đảng còn làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ, hiểu đúng,
đầy đủ và thực hiện tốt các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
Quán triệt tư tưởng đó, đảng phải thường xuyên sàng lọc để nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên. Để phân biệt sàng lọc chất lượng đảng viên chính xác,
nhất thiết đảng phải chỉ rõ tiêu chuẩn đảng viên trong từng giai đoạn cụ thể.

21



Trên cơ sở kết quả phân loại chất lượng Đảng viên, Hội nghị lần thứ 3 của
BCH TW Đảng khoá VII đã đưa ra giải pháp đối với từng loại đảng viên như sau:
+ Bồi dưỡng và phát huy những đảng viên giữ được tư cách đảng viên, có
phẩm chất chính trị và đạo đưc tốt, có trình độ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ,
được quần chúng tín nhiệm.
+ Giúp đỡ những đồng chí hạn chế về mặt kiến thức, năng lực hoặc hoàn cảnh
khó khăn, trong những trường hợp không khắc phục được khó khăn hoặc không
còn khả năng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ thì bản thân tự xem xét hoặc chi bộ
động viên các đồng chí ấy rút ra khỏi Đảng, tổ chức có thẩm quyến giúp đỡ thường
xuyên và cấp giấy xác nhận tuổi Đảng. Những người lạc hậu về mặt chính trị
không còn thiết tha với Đảng, không còn tác dụng với quần chúng thì vận động ra
khỏi Đảng.
+ Giáo dục, xử lí hoặc định hạn phấn đấu cho Đảng viên vi phạm nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt Đảng, không hoàn thành nhiệm vụ nếu không có chuyển biên
thì đưa ra khỏi Đảng.
+ Xử lí nghiêm khắc những người cơ hội về chính trị; nói và làm trái quan
điểm, đường lối của Đảng; tham nhũng, thoái hoá, biến chất, bị quần chúng oán
ghét.
Trong quá trình sàng lọc, chỉnh đốn đội ngũ đảng viên Chi bộ phải kiên quyết,
kịp thời đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi đảng, đây là biến
pháo cần thiết khách quan để giữ cho Chi bộ đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao
uy tín của đảng trong nhân dân. Thực tiễn cho thấy đây là một việc làm khá phức
tạp liên quan đến danh dự, sinh mệnh chính trị của con người. Vì vậy, trong khi
tiến hành phải kiên quyết nhưng hết sức thậm trọng, phải kết hợp chặt chẽ phê
bình, tự phê bình trong tổ chức đảng, có ý kiến tham gia của quần chúng, kết hợp
công tác kiểm tra của tổ chức đảng với cơ quan thanh tra của nhà nước có liên
quan để kết luận đúng sai và nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm đó.
Phân tích, đánh giá chất lượng Đảng viên Chi bộ cần phải dựa trên cơ sở quản
lý phân loại đảng viên hàng tháng, hàng quí, hàng năm và tiến hành thường xuyên

đồng thời kết hợp với các cuộc vận động xây dựng Đảng. Kết hợp tính tích cực,
22


chủ động của Chi bộ với sự chỉ đạo thường xuyên chặt chẽ của cấp ủy cấp trên,
nhất là đối với đảng viên yếu kém, thiếu quyết tâm.
d) Về thực hiện nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng
Trên cơ sở quán triệt các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI;
Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII; Nghị quyết Đại hội Huyện Đảng
bộ lần thứ XXI; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXI, Thời gian qua chi bộ
đã luôn chú trọng công tác xây dựng đảng: Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo,
chỉ đạo cấp uỷ. Phong cách lãnh đạo của cấp uỷ chi bộ có những đổi mới tích cực
đi vào hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng phân biệt với
chức năng quản lý điều hành của Ban giám hiệu nhà trường và hoạt động của các
tổ chức đoàn thể.
Các nguyên tác tổ chức sinh hoạt đảng quy định trong điều lệ Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách được
chi bộ thực hiện một cách nghiêm túc. Công tác đảng viên, chỉnh đốn và xây dựng
chi bộ vững mạnh, phát triển đảng viên mới luôn được chi bộ triển khai thực hiện
theo nguyên tắc của đảng.
Công tác đảng viên, chỉnh đốn và xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh luôn
được chi bộ xác định là nhiệm vụ then chốt và được tiến hành thường xuyên. Chất
lượng và hiệu quả lãnh đạo của chi bộ Đảng được nâng lên. Trong chi bộ và ban
giám hiệu cũng như các tổ chức đoàn thể luôn có sự thống nhất về tư tưởng, đồng
thuận về quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo sự ổn định về tư tưởng chính trị,
giữ vững mối đoàn kết trong cấp uỷ và trong toàn chi bộ. Đảng viên và quần chúng
là cán bộ giáo viên, nhân viên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và của chi
bộ.
Chi bộ thực hiện nghiêm túc việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên. Đảm bảo
100% đảng viên trong chi bộ đều đựơc chi bộ phân công nhiệm vụ. Thường xuyên

kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của Đảng viên, lấy kết quả công tác
làm cơ sở để phân tích, đánh giá chất lượng và xếp loại của đảng viên hàng năm.
Hàng năm chi bộ đều đăng ký phấn đấu đạt tiêu chuẩn chi bộ trong sạch
vững mạnh, trong sạch vững mạnh xuất sắc, với các chỉ tiêu cụ thể. Đối với đội
23


ngũ đảng viên hàng năm đều thực hiện phân công công tác cho đảng viên, đăng ký
phấn đấu đạt đảng viên đủ tư cách, hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Đánh giá về chất lượng đảng viên của chi bộ:
Nhận thức rõ vai trò lãnh đạo của chi bộ và xác định đúng nhiệm vụ trọng
tâm của chi bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Thời gian qua Chi bộ đã luôn
chú trọng công tác xây dựng Đảng, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp uỷ về công tác đảng viên, chỉnh đốn tổ chức Đảng, xây dựng chi bộ vững
mạnh, phát triển đảng viên mới luôn được chi bộ tiến hành thường xuyên. Chất
lượng và hiệu quả lãnh đạo của chi bộ được nâng lên. Đảng viên và quần chúng
cán bộ giáo viên, nhân viên luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của chi
bộ. Chi bộ luôn xác định rõ nhiệm vụ chính trị chi bộ, nhiệm vụ của nhà trường để
tổ chức thực hiện. Hàng năm chi bộ đều đăng ký chỉ tiêu cụ thể. Đối với đội ngũ
đảng viên hàng năm đều thực hiện phân công công tác cho đảng viên, đăng ký
phấn đấu đạt đảng viên đủ tư cách, hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Với tinh thần xây dựng và chỉnh đốn đảng, trong thời gian qua Cấp uỷ và
cán bộ, đảng viên trong chi bộ đã ra sức rèn luyện, phấn đấu vượt qua mọi thử
thách, trưởng thành qua thực tiễn; kiên định lập trường giai cấp công nhân, trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của
Đảng, gương mẫu thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, 100% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt, từng bước thích

ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu nhiệm vụ của
thời kỳ mới.
2. Những khuyết điểm, tồn tại:
a. Về chi bộ:
Bên cạnh những ưu điểm và những kết quả đạt được, trong thời gian qua do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác đảng viên và chất lượng đội
ngũ đảng viên cũng còn bộc lộ một số thiếu sót, khuyết điểm sau:
24


Chất lượng sinh hoạt của Chi uỷ, Chi bộ tuy đã được quan tâm đổi mới song
chưa được đổi mới nhiều, nội dung sinh hoạt còn nặng về công tác chuyên môn,
công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên tuy đã được quan tâm
thường xuyên song chất lượng hiệu quả chưa cao, công tác vận động quần chúng
còn nhiều hạn chế. Năng lực tổ chức điều hành của một số đảng viên cấp uỷ còn
hạn chế, còn thụ động, tính năng động sáng tạo chưa cao.
Việc phân công công tác cho đảng viên tuy đã làm, nhưng chưa có sự kiểm
tra thường xuyên, chưa có nhiều biện pháp tích cực để tạo điều kiện cho đảng viên
phát huy tính tiên phong và nêu cao vai trò lãnh đạo của đảng. Việc đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ đối với đảng viên được phân công công tác ở Chi bộ chưa
thường xuyên và còn chung chung.
Công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo dục chính trị - tư tưởng cho quần
chúng chưa được thường xuyên.
Việc giới thiệu đảng viên sinh hoạt nơi cư trú còn hình thức, việc phối hợp
trong công tác quản lý đảng viên còn hạn chế, tỷ lệ đảng viên tham gia sinh hoạt
chưa cao.
b. Về đảng viên:
Bên cạnh những ưu điểm, cũng còn một số khuyết điểm, yếu kém của đội
ngũ cán bộ, đảng viên cần phải được khắc phục kịp thời đó là:
Một số đảng viên còn yếu kém về nhận thức và lý luận chính trị, năng lực

lãnh đạo còn hạn chế, giảm sút ý chí phấn đấu. Vai trò, tính tiên phong, gương mẫu
của người đảng viên chưa được nêu cao. Tính chiến đấu trong đảng chưa được thể
hiện, công tác tự phê và phê bình còn hạn chế, nhiều đảng biên còn nể nang, né
tránh, ngại va chạm.
Tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình của một số bộ phận đảng viên
trẻ còn yếu, nhiều hội nghị của chi bộ chỉ có tính chất phổ biến thông tin, tinh thần
nhiệm vụ và có ít ý kiến thảo luận bàn bạc và đấu tranh phê bình của đảng viên.
Một số ít cán bộ, đảng viên chưa tự giác chấp hành nghiêm túc, các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, của chi bộ, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện chức trách

25


×