Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nhạc Bình Ca Trong Phụng Vụ Kitô Giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.96 KB, 17 trang )

2

MỤC LỤC
====
A. DẪN NHẬP
1. Nhập đề tổng quát--------------------------------------------------------------------------------------4
2. Lí do chọn đề tài----------------------------------------------------------------------------------------4
3. Mục đích khi triển khai đề tài này -------------------------------------------------------------------4
4. Phạm vi nghiên cứu------------------------------------------------------------------------------------4
5. Phương pháp nghiên cứu------------------------------------------------------------------------------4
B. PHẦN NỘI DUNG

1.1.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.

CHƯƠNG 1
NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ ÂM NHẠC
Sơ lược về nguồn gốc của âm nhạc---------------------------------------------------------5
Vị trí và vai trò của âm nhạc----------------------------------------------------------------6
Vị trí của âm nhạc-------------------------------------------------------------------------------6
Vai trò của âm nhạc-----------------------------------------------------------------------------7

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.



CHƯƠNG 2
NHẠC BÌNH CA TRONG PHỤNG VỤ KI-TÔ GIÁO
Nhạc bình ca Gregorio (Gregorio Chant)-------------------------------------------------8
Danh xưng “Bình Ca”--------------------------------------------------------------------------8
Đặc tính của nhạc bình ca (Characteristics of Gregorian Chant)------------------------8
Sân khấu của nhạc bình ca---------------------------------------------------------------------9
Bình ca trong phụng vụ Ki-tô giáo -------------------------------------------------------10
Trước Công Đồng Vaticano II---------------------------------------------------------------10
Sau Công Đồng Vaticano II------------------------------------------------------------------12

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.

CHƯƠNG 3
NHẠC BÌNH CA TẠI GIÁO HỘI VIỆT NAM
Quá trình du nhập và sự phát triển------------------------------------------------------15
Trước Công Đồng Vaticano II---------------------------------------------------------------15
Sau Công Đồng Vaticano II------------------------------------------------------------------15
Những hạn chế khi sử dụng nhạc bình ca tại Việt Nam------------------------------16

C. KẾT LUẬN
1.
Những nhận định cá nhân------------------------------------------------------------------18
2.
Đề xuất hướng phát triển-------------------------------------------------------------------18
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO-----------------------------------------------------------------19



3
A.
1.

DẪN NHẬP
Nhập đề tổng quát
Nói đến “bình ca”, chúng ta liên tưởng ngay đến những bài ca bất hủ như: Pie
Pellicane, Pange lingua hoặc Tantum ergo, thường được hát trong giờ Chầu Thánh Thể thập
niên 1960 về trước. Nhạc bình ca cũng thường được hát trong các Thánh lễ an táng. Ngoài ra,
bình ca còn là chủ đạo trong các bộ lễ Latinh chẳng hạn bộ lễ De Angelis du dương, êm đềm,
trang nghiêm và sâu lắng mà chúng ta vẫn hát lên trong thánh lễ ngày thứ bẩy đầu của mỗi
tháng.
Tuy nhiên, từ cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II (1962-1965), cụ thể là với Hiến
chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium cho phép cử hành phụng vụ bằng tiếng bản
xứ1, tiếng Latinh không còn được giảng dạy chủ yếu trong các chủng viện, dòng tu nữa; bên
cạnh đó với sự lấn lướt của dòng nhạc “thương mại” và gần như chiếm địa vị độc tôn trong
phụng vụ, nhạc bình ca dường như chỉ còn là một kỷ niệm, mà mỗi khi nghe đến (chứ chưa nói
là dùng đến) gợi lên bao hoài niệm và ấn tượng xưa cổ. Theo dòng thời gian, các thế hệ cha anh
cao niên qua đi, thế hệ trẻ ngày nay không có ý niệm gì về nhạc bình ca nữa, nhạc bình ca dần bị
lãng quên, gia sản quý giá của Giáo hội đang có nguy cơ mai một.
Đứng trước thực trạng đó, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã soạn thảo và cho
công bố Tự sắc Summorum Pontificum (7/7/2007) : khôi phục lại nghi thức Thánh lễ Triđentinô
và Sách lễ Roma (năm 1962) 2. Hơn bốn mươi năm sau Công đồng Vaticano II, nhạc bình ca lại
tái xuất hiện để thích ứng với phụng vụ sử dụng tiếng Latinh.
Vậy để hiểu rõ hơn về nhạc bình ca trong phụng vụ Ki-tô giáo và để có một hướng đi tích
cực cho nền phụng tự tại Giáo hội Việt Nam, con xin được làm rõ trong nội dung bài viết.
2.
Lí do chọn đề tài
Lý do thứ nhất: Con muốn qua việc tìm hiểu, xây dựng đề tài mà có thêm sự hiểu biết về âm

nhạc, đặc biệt là nhạc bình ca;
Lý do thứ hai: Âm nhạc gần gũi và cần thiết với đời sống con người;
Lý do thứ ba: Nhạc bình ca có vai trò quan trọng trong đời sống Giáo hội và đời sống Đan tu.
Từ những lý do trên, con quyết định chọn đề tài: “NHẠC BÌNH CA TRONG PHỤNG VỤ
KI-TÔ GIÁO” với các mục đích sau:
3.
Mục đích khi triển khai đề tài này
- Không có tham vọng trình bày một giáo trình đầy đủ bàn về nhạc bình ca, con chỉ xin đưa ra
chút ít những hiểu biết cá nhân đã thủ đắc được trong quá trình học tập và tra cứu tài liệu.
- Con muốn khơi lên ý thức về tầm quan trọng của nhạc Bình ca – gia sản quý báu của riêng
giáo hội Công giáo.
4.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được xác định rõ “nhạc bình ca trong phụng vụ Ki-tô giáo” nên con chỉ tập trung
trình bày về nhạc bình ca và một số vấn đề liên quan đến bình ca trong phụng vụ.
5.
Phương pháp cho bài viết
- Kết hợp các phương pháp như: phân tích, giải thích, tổng hợp và so sánh.
- Trong quá trình làm bài, con có tham khảo những bài viết của một số tác giả đã nghiên cứu
về âm nhạc, cập nhật những thông tin mới có liên quan đến đề tài để làm rõ vấn đề hơn.

1
2

Cf. THÁNH CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, chương VI, số 117.
Cf. ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI, Tự sắc Summorum Pontificum , ban hành 7/7/2007.


4
B.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ ÂM NHẠC

Sơ lược về nguồn gốc của âm nhạc
Trước hết, xin được tách riêng hai từ “Âm” và “Nhạc”, có thể nói rằng: “Âm” là âm thanh
có trong thiên nhiên; còn “Nhạc” là loại âm mang tính nhạc bởi có tần số rung mà vật lý học đã
xác định. Tần số rung của âm càng nhanh thì mức độ âm thanh mang tính nhạc càng cao và
ngược lại. Điều đó dẫn tới sự khác biệt giữa âm thanh mang tính nhạc và tiếng động.
“Âm nhạc học” là một trong những bộ môn nghệ thuật lâu đời nhất. Cơ sở của nó được bắt
nguồn từ phương Đông cổ đại. Các vấn đề lý luận và thẩm mỹ âm nhạc được nghiên cứu trong
mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn toán học, vật lý, thiên văn học và triết học... So với các bộ
môn nghệ thuật khác, việc tìm ra nguồn gốc của âm nhạc gặp nhiều khó khăn nhất. Khoa học
cũng chỉ có thể căn cứ vào các di tích khảo cổ để chứng minh cho một nền văn minh hay một
trung tâm văn hóa nào đó. Thí dụ, nhiều nhà nghiên cứu về mỹ thuật đã tìm những bức tranh
được khắc trong hang đá để tìm hiểu về các thế hệ tiền bối của mình, những nét chữ trên các bia
đá cho ta biết được tư tưởng của người xưa; cũng như nhờ vào chữ viết mà người đời nay được
thưởng thức những kiệt tác thi ca và nhiều tác phẩm bất hủ của các nhà thơ, nhà văn của hàng
ngàn năm về trước. Còn lối viết nhạc thì chỉ mới xuất hiện cách đây gần một ngàn năm, sau bao
lần cải tiến. Lối viết nhạc của người xưa mới có thể giúp ta biết được những ký hiệu về độ cao và
độ dài của âm thanh. Chính vì lối viết nhạc cổ xưa đã xuất hiện và được phổ biến khoảng một
nghìn năm trở lại đây, còn phương tiện “máy ghi âm” thì chỉ mới xuất hiện cách nay vài chục
năm mà chúng ta có quá ít tư liệu để có thể tìm hiểu sâu về sinh hoạt âm nhạc của tổ tiên.
Tuy nhiên, cũng nhờ vào những di vật khảo cổ về điêu khắc, hội họa... ta có thể biết được
hình dáng của các nhạc cụ thô sơ thời xa xưa và từ đó, có thể phỏng đoán ra cách diễn tấu của
chúng: qua các tác phẩm thơ văn cổ, ta có thể biết lời các bài ca, lề lối sinh hoạt và vai trò của
âm nhạc trong xã hội thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những phương pháp tìm hiểu về nguồn
gốc của nghệ thuật âm nhạc mà nhiều nhà nghiên cứu đã và đang thực hiện.
Xin đưa ra những nhận định sơ lược về nguồn gốc của âm nhạc như sau:

 Từ thời xa xưa, người cổ sơ hay tụ tập với nhau để nghe những câu chuyện về đời sống,
kinh nghiệm lao động... Ai có nhiều câu chuyện và biết cách kể chuyện hấp dẫn thì sẽ thu
hút được nhiều người nghe. Người kể chuyện phải nói to, nói vang và biết dùng âm điệu
trầm bổng để câu chuyện hấp dẫn, đây cũng là yếu tố tạo nên mối liên quan giữa âm điệu
của tiếng nói và âm hưởng dân ca của một địa phương về sau này.
 Cùng với âm điệu của tiếng nói, âm nhạc còn bắt nguồn từ nhịp sống lao động của con
người, mà chủ yếu là lao động tập thể. Ban đầu chỉ là những tiếng “hò dô” để thống nhất
động tác làm việc của nhiều người; dần dần, thông qua nhịp điệu của tiếng “hò dô” ấy,
người ta hát lên những lời động viên hoặc than thở với nhau...
 Nhịp điệu sinh học của con người: hơi thở, tiếng đập của nhịp tim, động tác đi và chạy...
cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nghệ thuật âm nhạc, nhất là khi loại nhịp
sinh học đó được biểu hiện qua các động tác nhảy múa. Hiện tượng này nói lên sự liên
quan mật thiết giữa hai bộ môn nghệ thuật Âm Nhạc và Múa.
 Trong các nghi lễ tôn giáo, nhu cầu diễn tả của nhiều nghi thức cũng là những yếu tố quan
trọng cho sự hình thành nghệ thuật âm nhạc.
1.1.


5
 Ngoài ra, trong lao động sản xuất, để thể hiện âm nhạc, con người không chỉ dùng giọng
hát mà còn biết chế ra nhiều loại nhạc cụ khác nhau: ban đầu chỉ là những nhạc cụ bằng đá,
bằng những khúc xương được gõ để giữ nhịp (có thể nói đây gần như là sự khởi đầu của
các loại nhạc cụ gõ). Sau đó, người ta bắt đầu biết dùng tới những sợi dây căng ra theo độ
chùng, căng, dài và ngắn khác nhau để tạo ra những âm thanh cao thấp, từ đó dần dần hình
thành các loại nhạc cụ dây gảy và dây kéo. Sự phát hiện ra tiếng gió thổi vào thân cây rỗng
có kích thước khác nhau tạo ra những âm thanh vi vu, trầm bổng đã giúp cho người ta chế
ra các loại kèn hơi. Lúc đầu chỉ là những ống xương và ống sừng của các loại động vật, lau
sậy, sau đến tre nứa được khoét nhiều lỗ để có thể tạo ra nhiều âm thanh cao thấp theo ý
muốn.
Sự hình thành nên âm nhạc từ thời cổ sơ diễn ra với nhịp độ tiệm tiến, không liên tục, khởi

đi từ những nhu cầu cơ bản nhất của con người để sinh tồn như ăn ở, sinh hoạt cộng với điều
kiện tự nhiên đã tác động buộc con người phải thích nghi, tư duy nhiều hơn thông qua quá trình
lao động mà nghệ thuật âm nhạc đơn giản nhất đã ra đời và nó được cải tiến qua các thế hệ của
loài người.
1.2. Vị trí và vai trò của âm nhạc
1.2.1. Vị trí của âm nhạc
Âm nhạc là hiện tượng cổ xưa và phổ biến trong đời sống con người. Những vết tích của
âm nhạc đã được khoa khảo cổ học tìm thấy trong mọi thời đại, mọi dân tộc khác nhau trên thế
giới. Có thể khẳng định âm nhạc là loại hình nghệ thuật không thể thiếu trong đời sống tinh thần
của mỗi con người, là phương tiện góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhờ
những dấu ấn của âm nhạc để lại, người ta có thể biết từng thời kỳ lịch sử nhất định của xã hội,
và người ta nhận ra âm nhạc có mặt trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Hội Thánh Công giáo xác nhận rằng: Nhờ âm nhạc, “lời kinh được diễn tả cách thâm sâu
3
hơn” , “Truyền thống âm nhạc của toàn thể Giáo hội đã làm thành một kho tàng vô giá, nổi bật
giữa các phong cách nghệ thuật khác, nhất là vì cung điệu đi liền với lời thánh ca góp phần cần
thiết hoặc trọn vẹn trong những cử hành phụng vụ trọng thể” 4, để “tất cả mọi người có thể ca
tụng, cầu nguyện một Chúa duy nhất nhưng Ba Ngôi cách mạnh mẽ và hiệu nghiệm hơn”5. Đức
Pi-ô XII đã viết: “Nhờ thánh nhạc, vinh dự mà Hội Thánh kết hợp với Đức Ki-tô là vị thủ lãnh
của mình, dâng lên Thiên Chúa, sẽ lớn lao hơn; tín hữu nhờ thánh ca lôi cuốn sẽ đạt được nhiều
kết quả hơn”6. Người cũng nhắc lại tư tưởng của Augustino: “Tôi cảm thấy rằng, lời kinh được
hát lên với một giọng hát trong trẻo theo một giai điệu du dương, chính những lời thánh nung
nấu lòng đạo đức của tâm hồn chúng ta, sẽ làm tăng thêm niềm thành kính và lòng sốt sắng của
chúng ta hơn”. Vì thế, ngay từ ngày xưa, câu “Qui bene cantat, bis orat” (Ai hát hay là cầu
nguyện hai lần) đã trở thành ngạn ngữ.
Trong các cử hành phụng vụ, âm nhạc được gọi bằng danh xưng “Thánh Nhạc”, được hiểu
là âm nhạc phụng vụ hay ca hát phụng vụ, nhưng trong thánh nhạc còn có những loại khác
nhau,chẳng hạn: bình ca, đa âm hợp xướng( kiểu Palestina, Perosi, Praglia), thánh nhạc hiện
đại,nhạc soạn cho đại quản cầm,… Vì giới hạn của đề tài, con sẽ tập trung giới thiệu rõ hơn về
nhạc bình ca trong phụng vụ.


Cf. Huấn thị Thánh Nhạc trong Phụng Vụ, số 5
Cf. THÁNH CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, chương VI, số 112.
5
Cf. Thông điệp kỷ luật Thánh Nhạc, số 28
6
Cf. Thông điệp kỷ luật Thánh Nhạc, số 29
3
4


6

1.2.2. Vai trò của âm nhạc
Nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục học đã khẳng định âm nhạc có vai trò quan
trọng trong đời sống con người: Âm nhạc đồng hành với mỗi người từ khi còn trong dạ mẹ cho
tới khi giã từ cuộc sống. Một trong những vai trò đáng quan tâm nhất của âm nhạc là vai trò giáo
dục nhân cách con người (vì có liên quan trực tiếp tới đề tài). Phát triển nhân cách con người là
quá trình tác động toàn diện lên các mặt sinh lý, tâm lý và xã hội của con người bằng các phương
tiện khác nhau, trong đó âm nhạc là một phương tiện hết sức quan trọng. Trước công nguyên hơn
500 năm,ở Trung Quốc, Khổng Tử dạy rằng: Âm nhạc từ lòng người mà ra (Âm chi sở do sanh
dã kỳ bổn tại nhân tâm). Khi lòng buồn, vui, giận, kính, thương, thì tiếng nhạc tùy nơi lòng mà
thành tâm, “Tình động ư trung, cố hình ư thanh”. Theo Khổng Tử, âm nhạc cốt đem đến cái
HÒA “nhạc dĩ hòa ký thanh” ,cũng có tính chất Trung Dung nên ông mới nói tiếng nhạc tốt phải
“Ai nhi bất thương, lạc di bất dâm” (Buồn mà không làm cho quá bi lụy, vui mà không đến sỗ
sàng thất lễ)7 . Bàn về nhạc, Khổng Tử thường nhắc đến chữ HÒA, “Nhạc giả thiên địa chi hòa
dã” (Âm nhạc là sự hòa hợp giữa trời đất). “Lễ tiết nhân tâm, nhạc hòa dân tâm” (Lễ làm cho
lòng dân có trật tự. Nhạc làm cho lòng dân có hòa khí)8. Theo ngài, âm nhạc có thể thay đổi
phong tục, có ẩn nghĩa là từ cái xấu chuyển thành cái tốt: “Nhạc khả dĩ di phong dịch tục”. Nhạc
giả dã: Thánh nhân chi lạc dã, khả dĩ thiện dân (Nhạc là niềm vui của thánh nhân và có thể khiến

cho dân hiền lành hơn). Nhạc phải là tinh hoa của đạo đức “Đức giả tánh chi đoan dã. Nhạc giả
đức chi hoa dã”. Một công dụng nữa của âm nhạc: âm nhạc phản ảnh xã hội và là một yếu tố
quan trọng trong việc trị dân9. Xã hội có trật tự, tiếng nhạc vui vẻ, ôn hòa. Xã hội vô trật tự tiếng
nhạc phẫn nộ và oán hờn10. Khổng Tử kết luận, ai biết được bí quyết của âm nhạc tức là biết cái
bí quyết làm giao động lòng người tức là biết bí quyết dẫn dắt con người. Ai biết được bí quyết
dẫn dắt con người là biết được bí quyết cai trị con người. (Nhạc là bí quyết tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ)11. Thấu đạt tính chất và công dụng của âm nhạc, nên Khổng Tử rất quan tâm
đến việc giáo dục âm nhạc. Từ cấp tiểu học cho đến trường lớn, Lễ và Nhạc là hai môn rất quan
trọng. Thế nên, để trở thành người có nhân cách hoàn toàn thì ta không thể không biết đến Lễ
Nhạc.
Một nhận định nữa cũng rất quan trọng: Âm nhạc không tồn tại một cách tách biệt khỏi các
loại hình nghệ thuật khác, nên để hiểu về âm nhạc,cũng như vai trò của nó đối với con người thì
bao giờ cũng phải đặt nó trong mối quan hệ với văn học, thơ ca, vũ đạo, hội họa, điêu khắc…
cũng như các hiện tượng phổ biến như ngôn ngữ, bản sắc dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,chế độ
chính trị, trang phục… Nên cần chân nhận âm nhạc không những hát với con người, mà còn
“vẽ” được, “múa” được, “kể chuyện” được, “hối thúc” được, “khuyên nhủ” được, “chữa bệnh”
được…và cả “đào tạo nhân cách” nữa.

🎶
Cf. Nguyễn Khuê, Khổng Tử chân dung, học thuyết và môn sinh, Nxb Phương Đông, p.422-423.
Cf. Ibid., p.424.
9
Cf. Ibid., p.427.
10
Cf. Ibid., p.429.
11
Cf. Ibid., p. 512-513.
7
8



7
CHƯƠNG 2
NHẠC BÌNH CA TRONG PHỤNG VỤ KI-TÔ GIÁO
2.1.Nhạc bình ca Gregorio (Gregorio Chant)
Nhạc bình ca Gregorio là loại âm nhạc dùng trong phụng vụ Rôma. Vì là nhạc nên nó cũng
thuộc bộ môn âm nhạc, cũng phải tuân theo những luật lệ của âm nhạc, và đáp ứng những đòi
hỏi của âm nhạc. Bởi vậy, nhạc bình ca mang trong mình tất cả những yếu tố của âm nhạc.
Ngoài ra, nhạc bình ca còn có những nét riêng biệt.
2.1.1. Danh xưng “Bình Ca”
Danh xưng này được phổ cập do chính âm hưởng mà những giai điệu của loại nhạc này
đem lại. Những thanh âm tạo thành giai điệu mang những đặc tính12:
 Trường độ: Tuy dùng những hình thức nốt nhạc khác nhau và thay đổi tên gọi (hình vuông,
hình quả chám, hình cán) tùy theo vị trí biệt lập hoặc trong hội dấu, nhưng luôn có cùng
giá trị về trường độ và được qui ước tương đương với một dấu móc trong Tân nhạc. Giá trị
đó được mệnh danh là “phách cơ bản”, nhờ đó giai điệu không chỗ nào kéo dài lê thê,
cũng không chỗ nào chạy nhanh vội vã! Do qui định này mà khi đệm đàn bài bình ca, ta
không được trải dấu hay lướt phím với những nốt nhỏ hơn nốt móc đơn... Làm như vậy sẽ
hủy diệt đặc tính của Bình Ca

(hình nốt vuông)
(hình quả chám)
(hình cán)
 Cao độ: Giai điệu bài Bình Ca luôn hình thành với những chuyển động nhỏ, chính yếu là
chuyển động liền (quãng 2 Trưởng hoặc Thứ). Đôi khi vì nhu cầu diễn ý, phải sử dụng một
quãng lớn thì sẽ tiếp tục ngay với chuyển động liền. Bình ca không sử dụng những quãng
lớn (quãng 6,7,8...), những quãng khó hát (quãng Tăng, Giảm), cũng không dùng chuyển
động nửa cung đồng (do-do#);
 Cường độ: Giai điệu luôn diễn tiến cách nhịp nhàng với chuyển động được xếp đặt tốt giữa
phách khởi và phách tới. Phách tới được ghi rõ bằng Ictus hoặc được hiểu ngầm qua các

qui định (như: nốt đen, nốt đứng đầu Hội dấu, nốt thứ ba trong Hội dấu 4 nối hoặc trong
nhóm 4 nốt mà nốt thứ nhất đã mang Ictus). Trong bình ca không bao giờ có đảo phách
hay nghịch phách. Để biểu hiện rõ điều này, khi đệm đàn bài Bình Ca, chỉ được đổi hợp
âm ở những nốt là phách tới (có mang Ictus, ghi rõ hoặc hiểu ngầm).
2.1.2. Đặc tính của nhạc bình ca
Từ khi ra đời, âm nhạc Kitô giáo là lời kinh được hát lên, điều phải được thực hiện không chỉ
thuần túy vật chất mà với lòng sùng kính, hoặc như Thánh Phaolô đã nói:“Để tỏ lòng biết ơn,
anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh
ca, do Thần Khí linh hứng”(Cl 3,16c). Bản văn chính là lí do để có Nhạc Bình ca Gregorio.
Thực sự, việc hát lên bản văn được dựa trên nguyên lí theo Thánh Augustino: “Qui bene cantat,
bis orat - người ca hát, cầu nguyện hai lần”. Nhạc Bình ca Gregorio sẽ không bao giờ hiểu
được mà không có bản văn có quyền ưu tiên trên giai điệu và chính là yếu tố cho giai điệu có ý

12

Cf .KIM LONG, Mấy cảm nghiệm về bình ca khi sáng tác thánh ca, lưu hành nội bộ (năm 2015)


8
nghĩa. Do đó, về việc diễn đạt Nhạc Gregorio, người ca phải hiểu rất rõ ý nghĩa của bản văn. Nên
người diễn đạt cần tránh phô bày các thể loại giọng ca nhạc kịch (operatic voice)13:
 Nó là thanh nhạc, có nghĩa được hát lên trong thánh đường (a capella) không kèm theo
phụ họa của các nhạc cụ khác.
 Nó được hát chung đồng giọng (unison) - mỗi lần chỉ một nốt - có nghĩa là tất cả các
người ca phấn chấn với cùng một giai điệu. Phương cách ca hát này được gọi là Độc ca
(monody). Nhiều tác giả khẳng định rằng ca hát với ca đoàn hỗn hợp không nên đưa vào
vì họ coi đó như hai giọng ca cách nhau quãng tám. Hơn nữa,nên ghi nhớ rằng cả đàn
ông đàn bà lẫn trẻ em phải có cơ hội đồng đều dự phần vào Phụng vụ và để tuân theo
nguyên lí Độc ca, bài hát cần được diễn đạt theo hình thái tuần tự.
 Nó được hát lên với tiết tấu tự do, tùy theo sự phát triển của bản văn lời ca mà không

phải bằng các kiểu thức tính toán, như có thể là một bài hành khúc, khiêu vũ, giao hưởng;
 Nó là âm nhạc theo thể (modal music) được viết theo các âm giai của các âm thanh rất cá
biệt được sử dụng để đánh thức cảm xúc đa dạng, ví như thu mình lại, hạnh phúc, buồn
rầu, tĩnh lặng.
 Giai điệu của nó là theo âm tiết (syllabic) nếu từng âm tiết của bản văn thích ứng với một
âm thanh và luyến láy (melismatic) khi nhiều âm thanh thích ứng một âm tiết. Có các
luyến láy (melisma) gồm hơn 50 nốt cho chỉ một âm tiết.
 Bản văn bằng tiếng Latinh, ngôn ngữ của Đế quốc Rôma trải rộng khắp châu Âu (ngôn
ngữ Roma đã không còn hiện hữu). Các bản văn này lấy từ các Thánh vịnh và từ các sách
Cựu Ước; một số từ các Phúc âm và số khác từ cảm hứng cá nhân. Ngoài ra, một số bài
hát phụng vụ hiện hữu bằng ngôn ngữ Hilạp: Kyrie Eleison, Agios O Theos (Phụng vụ
Thứ Sáu Tuần thánh)….
 Nhạc Bình ca Gregorio được viết trên dòng nhạc bốn đường kẻ, khác với dòng nhạc âm
nhạc đương thời. Nốt nhạc có các tên khác nhau: chấm vuông (punctum cuadratum),quả
chám (punctum inclinatum), cán (virga) nếu chúng xuất hiện lẻ, hoặc chùm (neumes) nếu
chúng gom thành nhóm; chúng có giá trị ngang nhau về trường độ ngoại trừ: các nốt có
dấu gạch ngang (horizontal epicema; épisème horizontal), nốt đi trước nốt răng cưa
(quilisma) và nốt thứ hai của nhóm Salicus (sổ đứng - vertical epicema) mà trường độ
kéo dài thêm chút ít (lightly more) với một cảm xúc diễn cảm, và các nốt có dấu chấm
kèm theo thì trường độ tăng gấp đôi.
2.1.3.

Sân khấu của nhạc bình ca
Nhạc Bình ca Gregorio được sinh ra để diễn đạt bên trong Phụng vụ của Giáo hội. Do đó,
Phụng vụ chính là môi trường tự nhiên của ca khúc bình ca Gregorio:
 Thánh lễ: gồm phần cố định và uyển chuyển,
 Giờ kinh phụng vụ (Divine Office): Trong các Tu viện, các tu sĩ đã (và hiện vẫn làm thế)
ngưng các công việc của họ và tập trung lại đều đặn vào các giờ đã định sẵn trong ngày
để đọc kinh cầu nguyện14.
Các bài ca dùng cho Giờ Kinh Phụng vụ gồm có: Hát các thánh vịnh, tiền ca mời gọi

(Antiphons of invitatorio), tụng ca (Hymns), tiền ca hát trước và sau các thánh vịnh, đáp ca
(Responsories), kinh ngợi khen (Laus), kinh tạ ơn (Te Deum), ca vịnh Cựu ước và Tân ước
(Benedictus, Magnificat, Nunc Dimittis)…
13
14

Cf. , cập nhật ngày 03/02/2018.
Cf. Tu luật Cha Thánh Biển Đức, chương 50, p.108.


9
“Từ khởi thủy của Giáo hội, Kitô hữu ban đầu đã nhận lấy sách Thánh vịnh Dothái làm
của họ”15. Lối ca này được thực hiện dưới dạng ngâm nga (recite) và luân phiên (alternate) giữa
một người đơn ca và ca đoàn hoặc giữa hai ca đoàn. Cấu trúc của hát Thánh vịnh là theo vần
(syllabic): Từng vần của bản văn thích ứng với một âm của giai điệu (thể loại này được tôn trọng
tại Roma khởi từ thế kỉ thứ 5, khi toàn thành phố tham gia vào việc diễn đạt). Câu và nửa câu
(Verses and hemistiches): Các Thánh vịnh được sáng tác với câu và mỗi câu gồm hai nửa câu
(hemistiches), phân cách nhau với một dấu hoa thị (*). Nếu nửa câu đầu có độ dài đáng kể, nó
thêm vào một chỗ tạm nghỉ (flexa) chỉ ra với một dấu chữ thập (†).
 Một số bài ca khác: rước, đi kiệu, ca tiếp liên…
2.2.

Bình ca trong phụng vụ Ki-tô giáo
Trước hết và trên hết cần chân nhận đức tin là một ân ban của Thiên Chúa. Bởi đó, để có
đức tin, thêm đức tin và giữ vững đức tin, ta phải luôn dâng lời cầu nguyện lên Người. Đáp lời
Chúa dạy phải “cầu nguyện luôn” (Cf.Lc 18,1-8) và để xin Chúa “nâng đỡ lòng tin kém cỏi của
ta” (Cf.Mt 9,2), Hội Thánh luôn nêu gương và khuyến giục con cái của mình quy tụ cầu nguyện
(Cf.Cv 2,42), lên đền thờ cầu nguyện (Cf.Cv 3,1), đồng thanh nhất trí cầu nguyện (Cf.Cv 4,2426). Vì thế, châm ngôn “Lex Orandi, Lex Credendi” (luật cầu nguyện là luật của đức tin) đã trở
thành định ước.
Trong những buổi cầu nguyện chung (mà sau này trở thành việc cử hành phụng vụ), âm

nhạc luôn có một vị thế quan trọng: Chính Chúa Giê-su đã từng hát thánh vịnh (Cf.Mt 26,30),
cộng đoàn Ki-tô giáo đầu tiên vẫn duy trì việc hát thánh vịnh của Do Thái giáo trước khi cử hành
Lễ Bẻ Bánh (Cf.Cv 2,42-47). Vì giới hạn đề tài, xin được lấy điểm trụ là Công Đồng Vaticano II
(Vaticanô II, 1962-1965) làm ranh giới.
Trước Công Đồng Vaticanô II (Vaticano II, 1962-1965)
Như đã nói ở trên, ngay từ thời các thánh Tông đồ, âm nhạc luôn được sử dụng trong
những buổi cầu nguyện: Thánh Phao-lô đã cùng với Xi-la hát thánh ca cầu nguyện ngay trong
ngục (Cf.Cv 16,25); Ngài khuyên các tín hữu Ê-phê-xô: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài
thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc
tụng Chúa” (Cf.Ep 5,19) và cho các tín hữu Cô-lô-xê: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả
tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh
hứng” (Cf.Cl 3,16c).
Những bài ca được thánh Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền chắc chắn đã được hình
thành và sử dụng trong các buổi cử hành Phụng Vụ (Cf.Kh 4,11; 5,9-10.12-14; 11,17-18…), nhất
là bài ca Hôn lễ Chiên Con (Cf.Kh 19,1-3.5-8) với tiếng “Al-lê-lu-ia” được lặp lại ở đầu và ở
cuối mỗi đoạn, đó là một sáng kiến để mọi người có thể tham dự việc ca hát. Khi Hội Thánh
càng lớn mạnh, việc đưa âm nhạc vào trong các lễ nghi càng mang nhiều sắc thái khác nhau. Vì
chưa có những quy định chung nên mang tính cách tự phát và đôi khi có những sai trái. Nên
Thánh Justino đã lên tiếng nhắc nhở: “Nhạc có mục đích hoàn thiện và làm đẹp thêm những
phẩm hạnh của con người, nhưng phải loại bỏ những thứ nhạc quá phù phiếm, làm hại tâm hồn
và khơi dậy những tình cảm bi ai, dâm đãng… đem tới những khát vọng bất chính…” 16. Xác
định giá trị của âm nhạc nên giáo phụ Origène dạy các tín hữu dùng những bài ngợi ca, các ca
2.2.1.

Cf. Tu viện Đức Kitô trong Sa mạc ; cập nhật ngày
06/11/2018.
16
Cf. “Stronata”, quyển VI, chương XI.
15



10
khúc, các thánh vịnh để chống lại những kẻ thù đức tin, để có thể chiến thắng trong Đức Ki-tô17.
Thánh Augustino cho biết Thánh Ambrosio đã sáng tác những bài ngợi ca và chỉ dạy cách hát
thánh vịnh trong các lễ nghi phụng vụ, khiến dân chúng thích thú và tham dự cách tích cực18.
 Đức Grê-gô-ri-ô Cả và cuộc canh tân của người19
Sau khi lên ngôi Giáo hoàng, người thấy cần phải thống nhất nhạc phụng vụ cho toàn thể
Hội Thánh. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sự trợ giúp của các chuyên viên, người đã cho phổ biến
một cuốn “Antiphona” (đối ca) gồm những bài hát mà toàn thể Hội Thánh phải sử dụng trong
các lễ nghi phụng vụ. Đồng thời, người cũng cho thiết lập tại Rô-ma một “Schola Cantorum”
(trường dạy hát) để chỉ dạy cách hát những bài hát trên. Âm nhạc dùng trong tuyển tập nêu trên
được mệnh danh là “bình ca” (cantus planus), và sau này còn được gọi là “ca điệu Grê-gô-ri-ô”,
để tôn vinh vị khai sinh ra nó. Tuy lúc ban đầu gặp nhiều sự chống đối từ bên trong tới bên
ngoài, nhưng với lối hát tâm tình và tạo bầu khí trang nghiêm thích hợp trong Phụng Vụ đã dần
dần gây ảnh hưởng và được chấp nhận khắp nơi qua nhiều thế kỷ.
Trong Thông điệp kỷ luật thánh nhạc, Đức Pi-ô XII đã ghi nhận: “Sự thánh thiện là biểu
hiện rực rỡ nhất của thánh ca Grê-gô-ri-ô, từng được sử dụng trong Hội Thánh từ bao thế kỷ, và
người ta có thể gọi đó là sản nghiệp của Hội Thánh. Quả thật, bởi các giai điệu của loại thánh
ca này mật thiết hoà hợp với bản văn Thánh, nên chẳng những ăn khớp với các ngôn từ cách
chặt chẽ, mà còn giống như một bản dịch ý nghĩa và dẫn giải, đồng thời làm cho vẻ hấp dẫn của
ngôn từ thâm nhập tâm hồn các thính giả” 20.
 Cuộc tranh luận tại Công đồng Tren-tô (Trento, 1545-1563)
Với việc hình thành nhạc đa âm ở thế kỷ XVI, nhiều bài thánh ca đa âm được đưa vào phụng
vụ, các nghị phụ tại Công đồng – đặc biệt ở khoá XXII và XXIII – đã đặt vấn đề và tranh luận
gay gắt. Công đồng quyết định trao lại công việc cho một uỷ ban đặc biệt nghiên cứu và thẩm
xét. Uỷ ban đặc biệt này đã cùng nhiều vị Hồng y nghe một số bài thánh ca đa âm đặc biệt của
Giô-van-ni đa Pa-lét-tri-na (Giovanni da Palestrina, 1525-1594) tại nguyện đường Sixtine, đã
thấy đáp ứng được những đòi hỏi của phụng vụ, với hai điều kiện được quy định:
- Nhạc phải được khởi hứng từ thánh ca phụng vụ, nếu khởi hứng từ nhạc trần tục thì không
được dùng trong các cử hành phụng vụ;

- Nhạc đa âm muốn dùng trong phụng vụ phải giúp nghe rõ được bản văn phụng vụ.
Những năm tháng kế tiếp, do sự lạm dụng và phát triển nhạc đa âm thái quá, choán hết chỗ
đứng của bình ca trong các cử hành phụng vụ, sự náo nức chạy theo những thể loại nhạc trần
tục, sự thay đổi của thời thế… đã khiến Thánh Nhạc dần suy thoái. Nhạc Nhiều vị Giáo hoàng
như Urbano VIII, Alexandro VII, Benedicto XIV… cũng như nhiều Công Đồng ở những nơi
khác nhau phải lên tiếng cảnh tỉnh. Choron đã nhận xét: “Trong các nhà thờ, nhạc không còn giữ
được chút phẩm chất gì phù hợp với mục đích thánh thiện của nó”21. Thực vậy, nếu nghe một
bài hát nào được trình tấu ở bất cứ nhà thờ nào (nhà nguyện của một vị lãnh chúa, nhà thờ chính
toà hay ở các giáo xứ) đem so sánh với bài hát được ca diễn trong các hội quán hay nhà hát, thì
không thể nhận ra sự khác biệt nào dù rất nhỏ nhoi: cả hai cùng có chung một cơ cấu kỹ thuật,
một tác dụng, một đặc tính, một biểu hiệu của khoái cảm hay đê mê. Có thể nói, các bộ lễ, thánh
Cf. “Patrology Greque”, quyển XII.
Cf. “Tự thuật”, quyển IX, chương VII.
19
ĐỨC GIÁO HOÀNG GREGORIO Cả (03/09/590 – 12/03/604) – lên ngôi giáo hoàng năm 590.
20
Cf. ĐỨC GIÁO HOÀNG PIO XII, Thông điệp kỷ luật Thánh Nhạc, số 41.
21
ALEXANDRE-ÉTIENNE CHORON (21/10/1771 – 29/06/1834) chỉ đạo Paris Opera trong một thời gian ngắn.
Ở Pháp, Ông đóng một vai trò thiết yếu trong việc tạo ra sự phân biệt rõ ràng giữa âm nhạc thiêng liêng và thế tục,
và là một trong những người khởi xướng sự quan tâm của Pháp đối với âm nhạc học.
17
18


11
vịnh, ca khúc của chúng ta không khác các “Operas latannisés” – (ANDRÉ PONS, Luật Giáo
hội và Âm nhạc Thiêng liêng - Droit ecclésiastique et Musique sacrée, quyển I, trang18). Bởi đó,
khắp nơi trông chờ một cuộc canh tân.
 Đức Pi-ô X và Tự sắc quy luật Thánh Nhạc (Tra le Sollecitudini - 22/11/1903)22

Ngay khi lên ngôi giáo hoàng, người đã ban hành tự sắc này để canh tân nền Thánh Nhạc.
Người xác định mục đích của thánh nhạc chung với mục đích của phụng vụ là “tôn vinh Thiên
Chúa và thánh hoá tín hữu”. Đồng thời nêu ra ba đặc tính mà Thánh Nhạc phải có để đạt mục
đích trên: tính thánh thiện, tính nghệ thuật và tính phổ quát.
Với sự trợ giúp của các nhà chuyên môn, Đức Pi-ô X muốn và hướng dẫn toàn thể Hội
Thánh trở về cội nguồn đích thực: Một thứ bình ca thuần khiết, hoàn chỉnh và những bài đa âm
đáp ứng đúng những đòi hỏi của phụng vụ. Cuộc canh tân của người được khắp nơi đón nhận
nhiệt tình và được các đấng kế vị hoàn chỉnh. Đặc biệt, Đức Pi-ô XII (12/03/1939-09/10/1958)
với Thông điệp kỷ luật Thánh Nhạc (Musicae Sacrae Disciplina, ban ngày 25/12/1955), và Huấn
thị Thánh Nhạc được Thánh bộ lễ nghi ban hành ngày 03/09/1958, đã soi sáng và hướng dẫn chi
tiết để khắp nơi tuân hành và làm cho Thánh Nhạc thăng tiến, cũng nhờ đó mà bình ca lại tái
khẳng định vị trí và vai trò trong các cử hành phụng vụ.
Sau Công Đồng Vaticano II
Công đồng Vaticano II được xem là một bước ngoặt đổi mới để Giáo hội trở về nguồn và
mở ra đối với thế giới bên ngoài, về các mối liên hệ giữa Hội Thánh với trần gian, trên các địa
hạt văn hóa, khoa học, xã hội và tôn giáo.
 Hiến chế kỷ luật về Phụng vụ thánh (Sacrosanctum Concilium)
Ngày 04 tháng 12 năm 1963, Thánh Công Đồng công bố văn kiện đầu tiên là Hiến chế kỷ
luật về Phụng vụ, nhắc lại quan điểm của Đức giáo hoàng Piô X rằng vai trò của âm nhạc là phục
vụ cho việc thờ phượng và tạo nên “phần thiết yếu và hoàn chỉnh cho buổi cử hành phụng vụ
trọng thể”. Lý do cơ bản cho vai trò thiết yếu của âm nhạc trong phụng vụ là âm nhạc có khả
năng kết hợp và hỗ trợ cho bản văn phụng vụ. Hơn nữa, văn kiện này còn nhận ra thế mạnh của
âm nhạc không chỉ hỗ trợ bản văn mà còn kết hợp với hành động phụng vụ (Cf.số 112). Hiến chế
phụng vụ cho phép dùng ngôn ngữ bản xứ trong phụng vụ (Cf.số 117) và dành riêng chương VI
để nói về thánh nhạc, đã hướng thánh nhạc về một chân trời mới: Vẫn đề cao bình ca, nhưng
hướng dẫn một Hội Thánh địa phương hình thành một nền thánh nhạc cá biệt. Khắp nơi nô nức
tuân hành và Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phao-lô II 23 trao quyền cho Hội đồng thực thi Hiến
chế phụng vụ chỉ đạo qua Huấn Thị về Thánh Nhạc trong Phụng Vụ (Musicam Sacram, ban
hành 5/3/1967). Mỗi Hội Thánh địa phương với ngôn ngữ riêng, biết dần dần xây dựng một nền
thánh nhạc riêng, với những tiêu chí chung của Hội Thánh toàn cầu.

2.2.2.



Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và Tự Sắc “Summorum Pontificum”24
Sau hơn 40 năm thực thi Hiến chế kỷ luật về Phụng Vụ (Sacrosanctum Concilium) của
Công Đồng Vaticanô II, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ XVI nhận thấy cần phải định hướng lại
một số quyết định trong đó, ngài đã soạn thảo và cho công bố Tự sắc Summorum Pontificum
(nghi lễ phụng tự): khôi phục lại nghi thức Thánh lễ Triđentinô và Sách lễ Roma (năm 1962).
Bình ca Gregorio lại một lần nữa tái xuất hiện để thích ứng với phụng vụ sử dụng tiếng Latinh.
ĐỨC GIÁO HOÀNG PIO X (09/08/1903 – 20/08/1914), lên ngôi Giáo hoàng năm 1903 kế vị Đức Lê-ô XIII
ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLO II (1978-2005), được tuyên Thánh 27/4/2014.
24
ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI (tại vị từ năm 2005-2013), ban hành Tự Sắc “Summorum Pontificum”7/7/2007.
22
23


12
Ngày 8/11/2012 - Nhân kỷ niệm năm thứ năm ban hành Tự sắc “Summorum Pontificum”,
Đức hồng y Quốc vụ khanh Tarcisio Bertone, SDB (Dòng Thánh Gioan Bosco), đã nhân danh
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi một sứ điệp cho tổ chức “Coetus Internationalis Pro
Summorum Pontificum” (CISP – Hội nghị quốc tế ủng hộ Tự sắc Summorum Pontificum), ngài
khẳng định rằng “Qua Tông thư - Tự sắc này, Đức Thánh Cha muốn đáp lại mong muốn của các
tín hữu liên quan đến các hình thức phụng vụ trước Công đồng Vatican II” và “thật là tốt đẹp khi
bảo tồn sự phong phú được phát triển trong đức tin và kinh nguyện của Giáo hội và dành cho nó
một vị trí xứng đáng, đồng thời hoàn toàn thừa nhận giá trị và sự thiêng thánh của hình thức
thông thường của nghi lễ Roma” 25.
Tự sắc này không còn phải là một bước tiến, mà là bước nhảy vọt trong lịch sử. Trong một
bài diễn văn tại một hội nghị tại Đức nhân kỷ niệm 10 năm (2007-2017) tự sắc Summorum

Pontificum của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ XVI về việc sử dụng các hình thức Phụng Vụ
trước cuộc cải cách của Công Đồng Chung Vaticanô II, Đức Hồng Y Robert Sarah, Tổng trưởng
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, đã đưa ra một đánh giá thẳng thừng về “thảm hoạ, sự tàn phá
và sự phân ly mà những người đề cao một thứ phụng vụ sống động và hiện đại đang gây ra”.
Đức Hồng Y Sarah nhắc nhở cử tọa rằng khi công bố tự sắc Summorum Pontificum, mở rộng
việc tiếp cận phụng vụ truyền thống Latinh, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ XVI đã bày tỏ hy
vọng rằng hai hình thức nghi lễ Rôma này sẽ bổ túc phong phú cho nhau. Theo Đức Hồng Y,
việc làm giàu đó là điều cần thiết trước tình trạng nghèo nàn của Phụng Vụ Công Giáo ngày nay.
Đức Hồng Y Sarah bày tỏ âu lo rằng: “Ngày nay, có một số lượng đáng kể các nhà lãnh
đạo Giáo Hội đã đánh giá thấp cuộc khủng hoảng nghiêm trọng mà Giáo Hội đang trải qua: đó
là chủ nghĩa tương đối trong giáo huấn về đạo lý, luân lí và kỷ luật, những lạm dụng nghiêm
trọng, hủy hoại và giản dị Phụng Vụ Thánh” 26.
Ngài nhận định thời kỳ sau Công Đồng Vatican II là một “mùa xuân” cho Giáo Hội, nhưng
ngày nay các nhà quan sát khôn ngoan nhận ra rằng đáng buồn thay đang có một khuynh hướng
“khước từ di sản hàng thế kỷ của Giáo Hội”… Trong một nhận xét khác, Đức Hồng Y nói: “Các
nhà chính trị Châu Âu bị khiển trách vì bỏ rơi hoặc chối bỏ nguồn gốc Kitô giáo của nó. Nhưng
người đầu tiên đã bỏ rơi căn cội Kitô và quá khứ của mình chính là Giáo Hội Công Giáo sau
Công Đồng”.
 Đức giáo hoàng Phanxicô đương nhiệm thì không cùng quan điểm với Đức Thánh Cha
Bênêđíctô XVI, mặc dù không phủ định những giá trị cao quý mà nhạc bình ca mang lại
cho nền phụng tự của Giáo hội nhưng ngài khẳng định: “Công đồng Vaticanô II và Hiến
chế Sacrosanctum Concilium cần phải được cổ võ như nó vốn thế” 27. Tuy nhiên, Đức
Thánh Cha Phanxicô sẽ không công khai vấn đề này bao lâu vị tiền nhiệm của ngài là
Đức Bênêđíctô XVI còn sống, nhưng ngài sẽ bắt đầu bằng một loạt các bài giáo lí về
phụng vụ và thánh lễ vào những buổi gặp gỡ với các tín hữu tại quảng trường Rôma thứ
tư hàng tuần.
Đến đây ta có thể đưa ra nhận định rằng trong số những biểu hiện âm nhạc có khả năng
đáp ứng tốt hơn cả những đòi hỏi phải có, theo khái niệm thánh nhạc, đặc biệt nhạc phụng vụ, thì
bình ca chiếm một vị trí đặc biệt. Hay nói theo nhận định của Công Đồng Va-ti-ca-nô II: “Bình


25

Cf. ,cập nhật ngày 28/03/2018.
26
Cf. ,cập nhật ngày 01/04/2018.
27
Cf. hdgmvietnam.org/duc-thanh-cha-phanxico-dang-xem-xet-lai-tu-sac-summorum-pontificum/8948.57.7.aspx
cập nhật ngày 01/04/2018.


13
ca là loại hát riêng của phụng vụ Rô-ma. Vì thế, phải dành chỗ nhất cho bình ca, trong những
hoạt động phụng vụ có ca hát, được cử hành bằng tiếng La-tinh”. Giáo hội đã “thừa hưởng bình
ca từ các giáo phụ xưa kia” các ngài đã “nghiêm cẩn giữ gìn trải qua các thế kỷ trong các sách
phụng vụ của mình” và “luôn luôn giới thiệu với các tín hữu” như là của mình, khi coi đó “ như
“kiểu mẫu tuyệt vời của thánh nhạc”. Ngày nay cũng còn như thế, bình ca tiếp tục là sự nối kết
sống động với tổ tiên chúng ta trong đức tin, là âm nhạc truyền thống trong nghi lễ Rôma, là dấu
chỉ hiệp thông với Hội Thánh hoàn vũ, là sự liên kết hiệp nhất các nền văn hóa, là phương thế
cho các cộng đoàn khác biệt cùng nhau tham gia ca hát, và là lời mời gọi cùng tham gia suy niệm
trong Phụng Vụ.
Vậy, công việc của chúng ta là phải làm một cuộc lượng giá nghiêm chỉnh các ngôn ngữ
âm nhạc mới, để xem có thể dùng những ngôn ngữ đó mà diễn tả những sự phong phú khôn
lường của mầu nhiệm được tái giới thiệu trong phụng vụ hay không, hầu cổ võ tín hữu tích cực
tham gia các buổi cử hành phụng vụ.

🎼


14
CHƯƠNG 3

NHẠC BÌNH CA TẠI GIÁO HỘI VIỆT NAM
3.1. Quá trình du nhập và sự phát triển
Khi hạt giống Tin Mừng được truyền giảng đến Việt Nam, Hội Thánh toàn cầu đang
trong giai đoạn sử dụng bình ca trong phụng vụ, nên cách thức truyền giảng của các vị thừa sai
khi đó cũng không ra khỏi những quy định chung là cử hành phụng vụ theo những sách phụng
vụ và nghi lễ từ Công Đồng Trento (1545-1563).
3.1.1. Trước Công Đồng Vaticano II (Vaticano II, 1962-1965)
Trước Công Đồng Vaticano II tất cả phụng vụ được cử hành bằng tiếng Latinh: các thừa
tác viên là linh mục, phó tế, phụ phó tế, và các chức nhỏ như thầy giúp lễ, đọc sách, giữ cửa...
Ngoài ra còn có chức cắt tóc và các chú giúp lễ. Vai trò của ca đoàn được coi trọng và hát những
bài thánh ca trong phụng vụ bằng tiếng Latinh, đôi khi là những bài thánh ca đa âm. Lời Chúa
cũng được công bố bằng tiếng Latinh. Giáo dân không đối đáp với chủ tế. Thời đó câu nói: “
giáo dân đi “xem lễ”, và cha thì “làm lễ” trở nên khá quen thuộc; giáo dân đọc những phần kinh
được soạn theo các lời giải thích với nghĩa bóng về các nghi lễ vị linh mục làm hay đọc trên bàn
thờ. Họ được đưa vào trong mầu nhiệm cử hành qua đức tin, qua bài giảng và các bài giáo lý về
Thánh lễ và các bí tích.
Không một tài liệu nào ghi lại cho biết các ban hát ở các xứ đạo được thành lập từ bao giờ!
Việc hát tiếng Latinh khi đó chỉ được khởi đầu ở các Chủng Viện, các Dòng tu…. Và vào những
dịp đi nghỉ hè, nếu có đôi ba thầy cùng đi giúp một nơi thì sẽ quy tụ một nhóm hát một vài bài
trong lễ Chúa nhật, lễ trọng…
Các Giám mục cử hành lễ đại triều tại nhà thờ chính tòa, hay khi đi thăm mục vụ các xứ
đạo (họ đạo), với những nghi lễ thật trang trọng và có tính cách huyền nhiệm. Tất cả phụng vụ
đều được cử hành bằng tiếng Latinh.
3.1.2. Sau Công Đồng Vaticano II
Ngày 4 tháng 12 năm 1963, văn kiện đầu tiên của Công Đồng Vatican II là Hiến chế
“Sacrosanctum Concilium” (Phụng Vụ Thánh) được công bố. Với Hiến chế này, Công Đồng đã
muốn đánh giá đúng mức việc cử hành phụng vụ, vì là “chóp đỉnh” mọi sinh hoạt của Giáo Hội
và là “nguồn” mọi sức mạnh và ơn thánh cho Giáo Hội.28 Để giúp các tín hữu tham gia tích cực
hơn, hiến chế cho phép sử dụng ngôn ngữ bản xứ trong các cử hành phụng vụ. 29 Từ đây, sinh
hoạt phụng vụ trong Giáo Hội có những đổi thay.

Tại Việt Nam, luồng gió mới này cũng ảnh hưởng sâu xa vào trong đời sống đạo đức của
các tín hữu. Các cử hành phụng vụ trên khắp đất nước Việt Nam luôn dựa trên những chỉ dẫn
trong các sách phụng vụ và quy tắc của Giáo Hội. Năm 1968, Hội Đồng Giám Mục Miền Nam
Việt Nam đã nhận định như sau trong bản báo cáo gởi cho Hội đồng Thực thi Hiến chế về Phụng
Vụ Thánh: “Công cuộc canh tân phụng vụ do Công Đồng Chung Vatican II quyết định đã được
người công giáo miền Nam Việt Nam tiếp nhận với niềm vui mừng và nhiều hiệu quả. Việc áp
dụng các chỉ thị liên hệ tới việc canh tân phụng vụ không gặp phải khó khăn cản trở nào. Trái
lại, qua việc thay đổi một số nghi thức và nhất là nhờ việc đem tiếng Việt vào trong các buổi cử
hành Thánh lễ và các bí tích, các tín hữu tham dự cách tích cực và ý thức…”30.
Trong cộng đoàn các Dòng tu, Chủng viện và các nơi chuyên về đào tạo,bên cạch việc sử
dụng các bản văn tiếng Việt theo chỉ dạy của Công Đồng, các cử hành phụng vụ bằng tiếng
Latinh với phần nhạc bình ca vẫn được duy trì.
THÁNH CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (Phụng Vụ Thánh), số 7.
Cf. Ibid., số 7 và số 117.
30
Cf. Bản Tường trình của Hội Đồng GM Miền Nam Việt Nam gởi Tòa Thánh, Notitiae 4 (1968), 265-266.
28
29


15
Tại Tổng giáo phận Hà Nội, truyền thống cử hành phụng vụ tiếng Latinh theo lối hát bình
ca vẫn được sử dụng trong các thánh lễ lớn của giáo phận. Để đạt được thành công lớn lao này,
phải kể đến công lao của Đức nguyên Tổng Giám Mục Giu-se Ngô Quang Kiệt (khi đó ngài
đang làm Tổng Giám Mục), đặc biệt khoảng thời gian năm 2007-2010 hưởng ứng lời mời gọi
của Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong Tự sắc Summorum Pontificum, Đức Tổng Giu-se đã
nỗ lực hết mình để khôi phục lại phần nào nghi lễ Latinh theo lối bình ca Gregorio đã bị mai một
kể từ khi Công Đồng Vaticanô II cho phép sử dụng tiếng bản xứ. Khắp các giáo xứ trong Tổng
giáo phận, các ca đoàn đều hát thành thạo bộ lễ Latinh, các ban hát này do các cha giáo hoặc một
số người giáo dân (người này đã có kinh nghiệm về lễ nghi Latinh, sống vào giai đoạn giao thời

trước và sau Công Đồng Vaticano II) phụ trách giảng dạy. Những tín hữu thuộc lớp tuổi 60-70
rất vui mừng vì được sống lại những ngày tháng đầy ấn tượng trước Công Đồng: giờ đây họ hiểu
hết ý nghĩa các nghi thức mà thời xưa họ đã trải qua; các bạn trẻ thì ra sức học hỏi và lấy làm
vinh dự lắm khi được tiếp cận với gia sản quý báu của Giáo Hội. Truyền thống này vẫn còn tồn
tại cho tới ngày nay.
3.2. Những hạn chế khi sử dụng nhạc bình ca tại Việt Nam
Trước hết là vấn đề ngôn ngữ, bình ca Gregorio gắn bó chặt chẽ với bản văn La Tinh hay nói
đúng hơn bản văn chính là lí do để có Nhạc Bình Ca Gregorio. Thực sự, việc hát lên bản văn
được dựa trên nguyên lí theo Thánh Augustino: “Qui bene cantat, bis orat - người ca hát, cầu
nguyện hai lần”. Nhạc Bình ca Gregorio sẽ không bao giờ hiểu được mà không có bản văn có
quyền ưu tiên trên giai điệu và chính là yếu tố cho giai điệu có ý nghĩa. Tiếng Latinh chú ý nhiều
ở dấu nhấn nhằm diễn tả từ ngữ quan trọng, trong khi đó tiếng Việt lại chú ý tới cao độ và dấu
bằng trắc. Vì thế, nó đòi hỏi những người nghiên cứu phải hết sức cẩn trọng khi muốn dịch thuật
hay sáng tác bình ca; những người thể hiện ca khúc bình ca cũng phải nắm chắc điều này và kết
hợp nó với những kỹ thuật khác của âm nhạc để mang đến cho người nghe những ca khúc bình
ca đúng bản chất thánh thiêng vốn có của bình ca Gregorio. Hiện nay hầu hết các bài bình ca
tiếng Latinh đã được giới chuyên môn dịch ra ngôn ngữ Việt Nam, mặc dù chưa được hoàn
chỉnh, nhưng cũng là một thành công đáng ghi nhận cho Giáo hội Việt Nam.
Thứ hai là vấn đề thị hiếu âm nhạc. Ngày nay, trong thời đại của khoa học công nghệ và kỹ
thuật số hóa, đặc biệt là sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu (Internet), thế giới như bị thu
nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia cũng ngày càng trở nên mỏng manh hơn, không một quốc
gia nào có thể phát triển trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài. Internet đã tạo cơ hội để các dân
tộc có thể gần gũi, hiểu biết và xích lại gần nhau. Mỗi dân tộc vừa được sống với bản sắc văn
hóa của dân tộc mình, vừa được tiếp xúc, học tập và tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa của
các dân tộc khác để làm phong phú thêm cho nền văn hoá của chính dân tộc mình. Trong sự giao
lưu đó, nghệ thuật và nghệ thuật âm nhạc được coi là một trong những lĩnh vực cực kì năng
động, nó được xem là lĩnh vực tiên phong trong việc giao lưu, giới thiệu và phát triển văn hóa
dân tộc của mỗi quốc gia ra với thế giới. Tuy nhiên, sự giao lưu văn hóa toàn cầu trong thời đại
ngày nay đang đặt ra cho mỗi quốc gia rất nhiều thách thức. Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam
không tránh khỏi những tác động mạnh của nền công nghiệp kỹ thuật số và thông tin toàn cầu.

Sự tiếp cận và giao lưu văn hoá quốc tế rộng rãi tạo điều kiện cho chúng ta rất nhiều trong việc
thưởng thức cái hay, cái đẹp của các nền văn hoá trên thế giới. Tuy nhiên, tác động của khuynh
hướng thương mại hoá trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, cùng với sự phát tán nhanh chóng của
truyền thông, kĩ thuật số và internet, làm xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực cả trong lĩnh vực
thẩm mỹ nghệ thuật nói chung và thẩm mỹ âm nhạc nói riêng, cũng như lối sống của chúng ta
hiện nay. Có thể nói, chưa bao giờ không gian nước ta lại vang lên đa dạng âm thanh của biết
bao dòng nhạc trên thế giới, từ kinh điển, bác học đến đại chúng, giải trí và cũng chưa bao giờ


16
Việt Nam lại có một nền âm nhạc lộn xộn và bế tắc như trong hơn một thập kỷ qua. Không thể
phủ định âm nhạc đã đóng góp vai trò không nhỏ trong việc nâng cao đời sống tinh thần của và
làm cho cuộc sống chúng ta không ngừng được cải thiện. Nhưng bên cạnh tính tích cực thì trong
đời sống hiện nay, một số hoạt động âm nhạc mang tính giải trí, thị trường còn bộc lộ tính yếu
kém, xa rời bản sắc, thuần phong mỹ tục, làm cho cái đẹp trong âm nhạc, méo mó, biến dạng.
Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị hiếu âm nhạc của người dân đất Việt, đặc biệt là
giới trẻ.
Vấn nạn này cũng ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống tôn giáo, đặc biệt là trong các cử
hành phụng vụ. Hiện nay tại các xứ đạo, họ đạo mỗi nhà thờ hát một kiểu, mỗi nơi hát một lối
không có gì là thống nhất khiến người nghe không cảm nhận được rằng ca hát ở nhà thờ là công
việc hệ trọng, vì liên quan đến chức năng của thánh nhạc là “tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa
các tín hữu”. Ca đoàn và nhất là các ca viên lĩnh xướng hát rập khuôn theo các ban nhạc và ca sĩ
đời, âm thanh thì ầm ĩ náo động gây chia trí hơn là giúp cầu nguyện. Những người xuất thân từ
nhạc viện chơi đàn piano ở nhà thờ lợi dụng không gian phụng vụ để biểu diễn tài nghệ cá nhân.
Đau đầu hơn nữa, một số nhóm giới trẻ ngày nay thiếu hiểu biết cho rằng Hội thánh rộng rãi cho
phép các thứ nhạc “xập xình” và các thứ điệu phát xuất từ nhạc Jazz như Boléro, Twist, Rumba,
Gogo, Surf v.v… được dùng trong nhà thờ…. Vậy cần phải tái lập lại một nền phụng tự theo
đúng bản chất của Giáo hội lấy sự thánh thiện làm điểm quy chiếu; tái lập vị trí đặc thù của nhạc
Bình ca trong phụng vụ bởi dòng nhạc thế tục đã đạt đến một điểm chết. Trong một thế giới đang
lo lắng vì trầm cảm và căng thẳng thần kinh, thì Thánh Nhạc và những bài Bình ca luôn là những

ốc đảo để xoa dịu tâm hồn.
Tuy nhiên không nên đổ lỗi hoàn toàn cho thị hiếu âm nhạc lệch lạc của đối tượng cảm thụ
âm nhạc, mà phải chân nhận rằng tại Việt Nam đang thiếu những nhà chuyên môn để giảng dạy
về âm nhạc, đặc biệt là nhạc Bình ca. Phía các cơ quan quản lí văn hóa và các phương tiện thông
tin đại chúng còn thiếu tinh thần trách nhiệm, đôi khi vì chút lợi nhuận trước mắt mà nhắm mắt
làm ngơ trước những sai quấy làm ảnh hưởng xấu tới lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc.
Vậy sẽ ra sao khi âm nhạc không tự khẳng định được các chức năng nhận thức, giáo dục,
thẩm mỹ của mình? Sẽ ra sao nếu chúng ta không sớm có những biện pháp, hình thức khắc phục
những vấn nạn trên?

🕎


17
KẾT LUẬN
Những nhận định cá nhân
Khi thoạt nghe, Bình ca Gregorio dường như đơn điệu, đều đều. Vì đã quen thuộc với nền
âm nhạc hiện đại nhiều đối chọi hơn, kém sâu sắc nên thể nhạc này dễ làm bối rối các lỗ tai của
chúng ta. Tuy nhiên, trên thực tế kho tàng nhạc Gregorio là một thế giới phức hợp kết hợp nhiều
thế kỷ của lịch sử âm nhạc. Nó quả thực là một thế giới đa dạng đáng kinh ngạc gắn liền sự phấn
khởi gần như cuống cuồng cũng như các thực tại nội tâm tế nhị nhất lại với nhau. Đó là một thế
giới nghịch lí trong đó âm nhạc bừng nở giữa sự im lặng.
Xin được nhắc lại lời của Cha Karl Wallner, O.Cist (dòng Xitô), Viện trưởng Đại học Giáo
hoàng Beneđictô XVI Heiligenkreuz - Đức, nói trong một lần trao đổi với hãng tin Zenit: “Âm
nhạc có thể dẫn tới Thiên Chúa, có thể mở rộng các con tim, nâng tâm hồn lên và kết hiệp với
Thiên Chúa”. Ngài nói thêm: “Có một bản năng trong con tim bệnh tật của con người, thúc đẩy
con người đi tìm một phương thuốc. Và bình ca Grêgôriô chính là một phương thuốc cho tâm
hồn con người”31. Vì thế, bản thân con hoàn toàn không ngạc nhiên trước việc Đức Giáo hoàng
Bênêđíctô XVI khi còn tại vị đã cho phục hồi lại nhạc Bình ca và nghi lễ Latinh. Thời điểm ấy,
con mới được 15 tuổi và đang tập chơi đàn tại Giáo họ: nhạc bình ca này với con thật lạ lẫm.

Ngày nay, đặc biệt là từ khi con được nhận vào Dòng năm 19 tuổi, con thích nó vô cùng, bởi vì
nó không phải là loại âm nhạc “mì ăn liền” làm cho tâm hồn ra nặng nề lười biếng, nhưng là một
thức uống đậm đặc và bổ dưỡng tuyệt vời.
Ngày nay, chúng ta cần tiếp cận với bình ca không phải để sáng tác ca khúc bình ca, mà để
mặc lấy tinh thần bình ca cho những ca khúc thánh ca Việt Nam, bởi bình ca Grêgôriô là gia sản
riêng của Giáo Hội và tinh thần Bình ca sẽ mãi mãi tồn tại trong lòng mẹ Giáo hội như một một
món quà thánh thiện bé nhỏ mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho thế giới qua chúng ta.
2.
Đề xuất hướng phát triển
Ngoài những chỉ dẫn của Giáo hội thông qua những văn kiện, huấn thị và những hướng
dẫn của Hội đồng Giám Mục Việt Nam về Thánh Nhạc. Con xin mạo muội đề xuất một số giải
pháp để áp dụng thực hành trong nội bộ mà thôi:
- Nâng cao vai trò và trình độ Âm nhạc, đặc biệt là bình ca Grêgôriô cho từng cá nhân
trong nhà Dòng bằng cách mời các giáo sư có uy tín giảng dạy cho từng nhóm nhỏ;
- Đề xuất đưa môn Âm nhạc đại cương, đặc biệt là bình ca Grêgôriô vào trong giai đoạn đào
tạo sơ khởi ở Tập viện và kéo dài khoảng hai năm ở Học viện;
- Tăng cường hoạt động truyền thông, thông tin của Văn phòng nhà Dòng;
- Tăng cường vai trò của thư viện nhà Dòng;
- Tổ chức các buổi hội thảo, thuyết trình trong các khối và giữa các khối với nhau: các diễn
giả sẽ trình bày tham luận, nêu ý kiến, suy nghĩ của mình về những đề tài khác nhau trong
đó có âm nhạc. Đây là điều mà chúng ta chưa quan tâm đúng mức.
Với những đề xuất mang tính áp dụng nội bộ trên, con ước mong mỗi người hãy cùng nhau cố
gắng gìn giữ và làm cho phát triển hơn nữa nền Thánh Nhạc Việt Nam, đặc biệt chú trọng tới
Bình ca Grêgôriô – gia sản quý báu của Giáo hội. Khi làm được như thế là chúng ta đã và đang
góp phần xây dựng Giáo hội thêm lớn mạnh, và như một việc mà ta trả nghĩa Giáo hội vì qua
Giáo hội, Thiên Chúa đã cho ta được sáp nhập vào đoàn chiên ưu tuyển của Ngài để ta phụng sự
Ngài trong Thần Khí và sự thật.
C.
1.


31

Cf. nhật 15/4/2018.


18

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
====

A.

KINH THÁNH
1. Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước
(bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Nxb. Tôn Giáo – 2006).
B. CÁC VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI
I.
Thánh Công Đồng Vaticano II
(Bản dịch của Phân khoa thần học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X – Đà Lạt – Việt Nam)
2. Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh
II. Các Văn Kiện Khác
3. ĐỨC GIÁO HOÀNG PIO X, Tự Sắc Quy Luật Thánh Nhạc, Rôma 1903
4. ĐỨC GIÁO HOÀNG PIO XII, Thông Điệp Kỷ Luật Thánh Nhạc, Rôma 1955
5. ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Huấn Thị về Thánh Nhạc trong Phụng Vụ,
Rôma 1967
6. ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI, Tự Sắc Nghi Lễ Phụng Tự, Rôma 2007
7. Bản Tường Trình của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi Tòa Thánh, năm 1968
C.

MỘT SỐ SÁCH VÀ TÀI LIỆU KHÁC

8. VINH SƠN NGUYỄN THẾ THỦ, Tuyển Tập Những Quy Luật Căn Bản Khi Cử Hành
Phụng Vụ, Lưu hành nội bộ - 2004
9. ANRÊ ĐỖ XUÂN QUẾ, Bàn về Thánh Nhạc, Nxb Tôn Giáo – 2006
10. KIM LONG, Mấy cảm nghiệm về bình ca khi sáng tác thánh ca, lưu hành nội bộ - 2015
11. PHẠM ĐỨC HUYẾN, Nhạc Bình Ca, lưu hành nội bộ
12. NGUYỄN KHUÊ, Khổng Tử chân dung-học thuyết và môn sinh, Nxb Phương Đông 2012

D.

CÁC TRANG WEBSITE
13. />14. />15. Và một số trang Website khác...







×