Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su06

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.42 KB, 30 trang )

HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI – ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ


HỘI THẢO KHOA HỌC LẦN THỨ XII
MÔN: LỊCH SỬ

Chuyên đề:
XÁC ĐỊNH MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC SỰ KIỆN LỚN CỦA LỊCH SỬ
THẾ GIỚI CÓ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 - 1945


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................
2. Mục đích của đề tài.................................................................................................
NỘI DUNG.................................................................................................................
1. Một số vấn đề chung về bồi dưỡng HSG Lịch sử ở trường THPT chuyên...........
1.1. Chức năng, đặc điểm bộ môn Lịch sử..............................................................
1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh chuyên và yêu cầu của việc học tập Lịch sử ở
trường THPT chuyên............................................................................................
1.3. Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT
chuyên.................................................................................................................
2. Xác định mối liên hệ giữa các sự kiện lớn của lịch sử thế giới có tác động đến
lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945.............................................................................
3. Chuyên đề chuyên sâu: Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám
năm 1945 và việc vận dụng bài học thời cơ trong kháng chiến chống Mỹ và trong
thời kì đổi mới đất nước...............................................................................................
KẾT LUẬN................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................


DANH MỤC VIẾT TẮT
GD&ĐT

: Giáo dục và Đào tạo

HS

: Học sinh

HSG

: Học sinh giỏi

THPT

: Trung học phổ thông

Trang
1
1
2
3
3
3
3
5
13
20

26

27


CTTG II

:Chiến tranh thế giới 2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ quan trọng ở các trường THPT nói chung, đặc
biệt đối với trường THPT chuyên thì đây là nhiệm vụ then chốt. Mục tiêu của trường
chuyên là phát hiện những học sinh (HS) có tư chất thông minh, đạt kết quả xuất sắc trong
học tập và phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục
phổ thông toàn diện; giáo dục các em thành người có lòng yêu nước, tinh thần vượt khó, tự
hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên cứu khoa học và sáng tạo; có sức khỏe tốt để
tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Là giáo viên của trường THPT Chuyên, chúng tôi luôn băn khoăn, trăn trở với việc
nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử, nhất là chất lượng bồi dưỡng học sinh
giỏi (HSG). Để đạt được hiệu quả cao nhất thì vấn đề lựa chọn nội dung giảng dạy và
phương pháp ôn tập cho học sinh theo từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể là hết sức quan
trọng. Nếu giáo viên không xác định được những nội dung cốt yếu thì quá trình giảng dạy
dễ sa đà, khiến học sinh cảm thấy mệt mỏi và không rút ra được bản chất của các sự kiện,
hiệu quả sẽ không cao.
Những năm gần đây, hoạt động Hội thảo chuyên đề của Hội các trường chuyên khu vực
Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ thật sự trở thành diễn đàn bổ ích, mang tính hiệu quả cao
nhằm trao đổi kinh nghiệm công tác bồi dưỡng HSG; đồng thời, cung cấp nhiều tài liệu
phục vụ bồi dưỡng HSG Quốc gia. Thực tiễn dạy học trong những năm qua ở trường THPT
chuyên, chúng tôi nhận thấy việc lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho HS khi
giảng dạy theo chuyên đề đã được thực hiện một cách thường xuyên và đem lại tính hiệu

quả khá cao. Tuy nhiên, do đặc điểm, điều kiện của một trường non trẻ vừa mới thành lập
nên công tác bồi dưỡng HSG Quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Vấn đề xác định mối liên hệ giữa các sự kiện lớn của lịch sử thế giới có tác động đến
lịch sử Việt Nam trong cùng thời điểm nói chung và trong giai đoạn từ sau thế chiến thứ
nhất đến hết thế chiến thứ hai (1919 - 1945) nói riêng là một nội dung quan trọng, là vấn đề
khá khó và thường xuyên được đề cập trong các đề thi chọn HSG Quốc gia, thi tốt nghiệp
THPT, đại học...
Trên tinh thần đó, chúng tôi biên soạn chuyên đề: Xác định mối liên hệ giữa các sự kiện
lớn của lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 và đề xuất một
số biện pháp giảng dạy chuyên đề này nhằm trao đổi, chia sẻ với đồng nghiệp trong Hội
thảo lần này.
1


2. Mục đích của đề tài
Chuyên đề nhằm tập trung làm rõ những nội dung cơ bản và phương pháp ôn tập cho
HSG, đồng thời cung cấp thêm một số chuyên đề chuyên sâu về vấn đề Xác định mối liên
hệ giữa các sự kiện lớn của lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử Việt Nam từ 1919 đến
1945 nhằm làm tài liệu tham khảo cho học sinh và trao đổi với các đồng nghiệp để góp phần
nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng HSG môn Lịch sử.
Chuyên đề được cấu trúc gồm 3 nội dung:
1. Một số vấn đề chung về bồi dưỡng HSG Lịch sử ở trường THPT chuyên.
2. Xác định mối liên hệ giữa các sự kiện lớn của lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử
Việt Nam từ 1919 đến 1945.
3. Chuyên đề chuyên sâu: Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm
1945 và việc vận dụng bài học thời cơ trong Kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong
thời kì đổi mới đất nước.

2



NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về bồi dưỡng HSG Lịch sử ở trường THPT chuyên
1.1. Chức năng, đặc điểm bộ môn Lịch sử
Môn lịch sử không chỉ có chức năng nhận thức khoa học mà còn có chức năng giáo dục
tư tưởng rất lớn. Thông qua việc dạy và học lịch sử phải làm rõ những vấn đề mang tính quy
luật về lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại, góp phần quan trọng giáo dục chính trị, bồi
dưỡng tư tưởng, đạo đức cách mạng, hình thành nhân cách, giáo dục ý thức và đặc biệt là
giáo dục lý tưởng cách mạng và tinh thần phấn đấu cho lý tưởng cách mạng. Đối với học
sinh giỏi, học sinh chuyên điều này càng có ý nghĩa quan trọng, bởi đó không chỉ là nguồn
đào tạo nhân lực chất lượng cao mà còn có khả năng phát triển thành nhân tài cho đất nước.
Một trong những đặc điểm của môn lịch sử là nếu chỉ học thuộc lòng một cách máy
móc nội dung của từng sự kiện thì rất dễ quên. Cùng với thời gian không ai có đủ khả năng
để nhớ tất cả và nhớ mãi chi tiết của từng sự kiện lịch sử đã học. Thực tế ấy đã và đang diễn
ra với tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Cần có sự đổi mới tư duy nhận thức, tư duy dạy
và học Sử, nhằm khắc phục những quan niệm sai lầm khi cho rằng môn Lịch sử chỉ là “môn
học thuộc lòng”, “không cần tư duy”. Thực tế cho thấy, nếu “không có tư duy” thì rất khó để
“thuộc lòng” và chỉ yêu cầu học sinh học thuộc lòng thì cũng rất vất vả, dẫn đến tâm lí chán
nản, sợ môn học và tất nhiên hiệu quả thấp, kết quả sẽ không như mong muốn.
1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh chuyên và yêu cầu của việc học tập Lịch sử ở
trường THPT chuyên
Môn lịch sử là môn học có nhiều cơ hội nhất và có khả năng lớn nhất trong nhiệm vụ
“giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”, giáo dục và rèn luyện đạo đức con người
Việt Nam. Do đó, vấn đề bồi dưỡng kiến thức môn lịch sử là nhiệm vụ quan trọng của các
trường Trung học phổ thông chuyên hiện nay nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức thi đại
học, cao đẳng và các kì thi chọn học sinh giỏi.
Cũng như các môn học khác, mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi của môn Lịch sử là mục
tiêu kép, tức là vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện của học sinh THPT, vừa
phải phát triển năng khiếu về môn học để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài
năng thực sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử.

Đặc điểm của học sinh chuyên là những học sinh giỏi, xuất sắc ở các trường trung học
cơ sở của địa phương, nhiều em đã dự thi và đạt giải cao trong các kì thi học sinh giỏi các
cấp. Về cơ bản, học sinh giỏi lớp 11, 12 là những học sinh có tư chất thông minh, năng
động, sáng tạo có khả năng tự quyết định chứ không phụ thuộc vào người khác. Các em là
3


những người có chính kiến, quan điểm riêng không dễ dàng tiếp nhận một cách máy móc
những thông tin được truyền thụ một chiều; hơn nữa còn có nhu cầu kiểm tra tính đúng đắn
của các thông tin bằng cách so sánh với những gì đã biết hoặc đối chiếu với những kinh
nghiệm và tài liệu khai thác được.
Học sinh giỏi có khả năng cung cấp thông tin cho nhau và giúp đỡ nhau về nội dung và
chương trình học tập, luôn kì vọng vào những kiến thức mà mình tiếp thu được sẽ giúp ích
cho mình trong tương lai gần. Quan trọng hơn là các em có ý thức cầu tiến, nhiệt tình học
tập và luôn muốn vươn lên học tốt. Do đó, phương pháp dạy, phương pháp học ở trường
THPT chuyên phải thay đổi cho phù hợp với đối tượng học sinh.
Dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là quá trình truyền thụ của giáo viên và
tiếp thu kiến thức của học sinh. Cho nên, vai trò của người giáo viên lịch sử ở trường
chuyên phải là người hướng dẫn và tổ chức điều khiển học sinh phát triển tư duy lịch sử,
nhất là tư duy độc lập, sáng tạo; phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành quá
trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra
cho học sinh chuyên phần lớn là những vấn đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng. Vì vậy, học sinh
chuyên cần có một khối lượng lớn tri thức đã được thông hiểu và nắm vững, biết vận dụng
kiến thức đã học để hiểu biết kiến thức mới và giải quyết được các dạng bài tập lịch sử. Nếu
không có sự đam mê, ham muốn hiểu biết, ham muốn học hỏi, tự học, tự tìm tòi và phải biết
suy nghĩ, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu kiến thức mới thì học sinh không thể nào
giải quyết đựơc các vấn đề được đặt ra trong các bài tập lịch sử. Sự nỗ lực t của các em bao
gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lí, ý thức, thái độ tình cảm. Nhưng khi đã giải quyết
được vấn đề đặt ra học sinh sẽ cảm thấy phấn khởi, hứng thú, say mê hơn với bộ môn; đồng
thời có niềm tin vào bản thân và khẳng định ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Mục tiêu đào tạo của trường THPT chuyên là mục tiêu kép, nhiệm vụ trường chuyên
vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện để hoàn thiện cho học sinh nền học vấn phổ
thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp vừa phải thực hiện sự
tác động đúng hướng để phát triển năng khiếu của học sinh về một môn học.
Riêng về năng khiếu một môn học, khi mới tuyển vào học trường chuyên thì học sinh
mới chỉ là những em có kết quả học tập xuất sắc ở THCS, có khả năng tiềm ẩn một năng
khiếu (chứ chưa chắc đã có năng khiếu). Trong quá trình học ở trường chuyên, nhà trường
phải tiếp tục phát triển để đi tới khẳng định năng khiếu. Trên cơ sở đó mà phát triển năng
khiếu của học sinh, giúp các em khi tốt nghiệp trường chuyên phải là những học sinh có
năng khiếu phát triển. Mục tiêu lâu dài của trường chuyên là học sinh phải tự đào tạo thành
những tài năng ở bậc đại học và sau đại học.
4


Học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng là sự tiếp thu tri thức. Tri thức lại hết sức
phong phú và đang tăng lên với tốc độ vô cùng nhanh chóng mà trường chuyên cũng không
sao truyền thụ hết được. Trong khi đó, khả năng hiểu biết và sự mong muốn của con người
trong cả cuộc đời là vô tận. Cho nên, dạy học ở trường chuyên phải phù hợp với đặc điểm
tâm lí và khả năng nhận thức của học sinh năng khiếu, cần thiết phải làm cho quá trình học
tập của học sinh trở thành quá trình tự chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên
cứu độc lập. Muốn đạt được điều này, vai trò của người thầy là rất lớn, yêu cầu phải hướng
dẫn và tổ chức điều khiển học sinh phát triển tư duy lịch sử nhất là tư duy độc lập, sáng tạo.
Tóm lại, yêu cầu học tập các bộ môn nói chung ở trường chuyên là rất cao trong đó có
bộ môn Lịch sử nhằm đào tạo những nhân tài tương lai cho đất nước. Nắm bắt đựơc yêu cầu
này, người giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường chuyên phải căn cứ vào mục tiêu đào tạo,
đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh chuyên để vạch kế hoạch sư phạm thích hợp,
trong đó phải lựa chọn phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học tối ưu nhất góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường chuyên và đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo
dục- đào tạo.
Muốn vậy, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà còn phải là sự chuyên sâu về

kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ thầy, cô giáo lịch sử dạy chuyên.
1.3. Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT
chuyên
Trong quá trình giảng dạy ở trường THPT và nhất là trường THPT chuyên, chúng tôi đã
tiếp cận nhiều phương pháp dạy học và ôn tập khác nhau. Các phương pháp đó đều có thể
áp dụng nhưng tất nhiên, tùy vào điều kiện và khả năng của chính mỗi giáo viên, đối tượng
học sinh và điều kiện của tường trường mà chúng ta phải tự sàng lọc và lựa chọn cho mình
một phương pháp phù hợp để áp dụng.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những phương pháp dạy và ôn tập của đồng nghiệp đi
trước, chúng tôi xác định một số yêu cầu và đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả công tác bồi dưỡng HSG môn Lịch sử ở trường THPT chuyên như sau:
1.3.1. Tự học, tự nghiên cứu - nhân tố quyết định kết quả học tập
Trước hết, phải xác định động cơ, hứng thú học tập lịch sử cho học sinh. Đây là khâu
đầu tiên có tác dụng đột phá trong việc giúp học sinh có sự lựa chọn môn học ngay từ đầu
năm học. Chính vì vậy, nên trong bài mở đầu của của chương trình năm học, người thầy nêu
ra một số vấn đề trong nội dung học tập, những quyền lợi được hưởng của học sinh tạo ra
hứng thú học tập, khao khát muốn được biết, kích thích tính tích cực của học sinh, làm cho
học sinh tham gia tích cực vào môn học.
5


Tiếp đó, giáo viên cần nhấn mạnh và giúp học sinh hiểu rõ kết quả các bài thi chủ yếu
là do quá trình tự ôn tập, tự nghiên cứu của các em quyết định, giáo viên chỉ là người định
hướng, giúp đỡ. Do đó, học sinh cần phải có thái độ và hành vi học tập tích cực, chủ động
tự học, tự nghiên cứu để lĩnh hội kiến thức, phát huy tính sáng tạo trong việc học tập ngay
từ đầu. Có như vậy, các em mới biến được các kiến thức trong sách giáo khoa, sách tham
khảo và các kiến thức do thầy cô hướng dẫn thành kiến thức của mình; đồng thời, có khả
năng xử lý thông minh các dạng câu hỏi khác nhau, các yêu cầu khác nhau trong đề thi.
Cần thiết, sớm hình thành ở học sinh năng lực tự học và làm bài thi môn Lịch sử. Việc
rèn kĩ năng tự học cho học sinh ở các lớp chuyên sử là điều rất cần thiết để thực hiện mục

tiêu bộ môn. Đó là con đường mà người giáo viên đưa học sinh của mình đến với chân lý
khoa học bằng chính hoạt động của họ. Nó giúp học sinh đào sâu, củng cố kiến thức và phát
triển toàn diện cho các em. Kĩ năng tự học là công cụ để các em học suốt đời. Đó là: kĩ năng
tự làm việc với sách giáo khoa; kĩ năng tự làm việc với tài liệu tham khảo dưới sự hướng
dẫn của giáo viên; kĩ năng nghe giảng kết hợp với tự ghi chép; kĩ năng phát hiện vấn đề và
giải quyết vấn đề; kĩ năng tự kiểm tra đánh giá... Vì vậy, khi ôn tập cho học sinh giỏi, chúng
tôi rất coi trọng việc hướng dẫn học sinh tự học.
Ví như để rèn cho học sinh kĩ năng tự làm việc với tài liệu tham khảo. Giáo viên cần
xác định: việc đọc tài liệu tham khảo là yêu cầu bắt buộc vì nội dung ôn tập thường là
những vấn đề mang tính chất tổng hợp xuyên suốt nhiều bài, thậm chí nhiều chương với
lượng kiến thức vừa rộng vừa sâu hơn so với sách giáo khoa. Để có thể giải quyết được các
nhiệm vụ học tập ở trên lớp đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu tìm hiểu trước tài liệu tham
khảo. Đó là khâu chuẩn bị để học sinh có thể tiến hành trao đổi, thảo luận hay trình bày báo
cáo trước lớp. Để cho việc đọc sách của học sinh không tản mạn, chệch hướng, giáo viên
cần hướng dẫn các em chọn sách và phương pháp đọc. Đọc sách không đơn thuần là một
công việc giải trí đơn giản mà là một hoạt động học tập, nghiên cứu phức tạp. Tùy theo mục
đích, yêu cầu cụ thể của từng người mà kế hoạch và phương pháp đọc sách khác nhau. Đối
với học sinh, việc nghiên cứu các chương, mục trong sách tham khảo là để hiểu sâu sắc, mở
rộng, nâng cao kiến thức đã được học trong sách giáo khoa nhằm giải quyết những bài tập
mà thầy, cô giao cho.
Ví dụ khi dạy chuyên đề “Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945”, có thể hướng dẫn các em đọc những tài liệu sau:
1. Trần Bá Đệ, (2001), Lịch sử Việt Nam từ 1885 đến nay, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.

6


2. Trịnh Đình Tùng (Chủ biên) (2012), Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử trung học
phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam.

3. Phan Ngọc Liên (2008), Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, NXB Chính trị
Quốc gia.
Để việc đọc sách có hiệu quả, giáo viên cần nêu rõ yêu cầu và hướng dẫn học sinh cách
đọc cũng như cách ghi chép khi đọc sách: tên tác giả, tên sách, thời gian đọc, nội dung chủ
yếu của sách, những vấn đề rút ra sau khi đọc sách (những vấn đề liên quan đến bài học, vấn
đề thích nhất, những thắc mắc cần giải quyết...).
Ngoài ra, việc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng khác như kĩ năng nghe giảng kết hợp
với ghi chép trên lớp, kĩ năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, kĩ năng tự kiểm tra
đánh giá... cũng góp phần nâng cao hiệu quả ôn tập cho học sinh giỏi.
Năng lực tự học là năng lực tự mình chiếm lĩnh kiến thức lịch sử một cách hiệu quả
dưới sự điều khiển hướng dẫn của thầy. Muốn như vậy học sinh phải được trang bị những
cơ sở mang tính định hướng. Bài thi lịch sử thường đặt dưới dạng câu hỏi, phần lớn đề thi là
câu hỏi lý thuyết. Khi biên soạn hệ thống câu hỏi, giáo viên cần chú ý đến nội dung và cách
trình bày câu hỏi. Thông thường câu hỏi lý thuyết được kết thúc bằng những từ để hỏi: "như
thế nào?”, “ra sao”?, “là gì”?); hoặc bắt đầu bằng những từ yêu cầu, sai khiến: “Nêu”,
“Trình bày”, “Tóm tắt”, “Khái quát”, “So sánh”, “Tại sao”?, “Vì sao”?, “Giải thích”,
“Phân tích”, “Nhận xét”... đôi khi có thêm chữ “Hãy” trước những từ đó. Câu hỏi thực
hành thường bắt đầu bằng những từ (Hãy) kẻ bảng..., điền vào bảng..., lập biểu đồ..., vẽ sơ
đồ/đồ thị...
Những từ dùng để hỏi quy định mức độ kiến thức, kỹ năng, tức là quy định độ khó của
câu hỏi. Có thể phân chia thành ba mức, tương ứng ba bậc mục tiêu nhận thức, ba cấp độ
khó khác nhau:
Nhận biết, thể hiện khả năng nhớ, thuộc kiến thức, thường được hỏi bằng các từ: Nêu...,
Trình bày..., Hãy kể...
Thông hiểu, thể hiện khả năng phân biệt, so sánh, giải thích, chứng minh, thường được
hỏi bằng các từ: Hãy chứng minh rằng..., Vì sao...? Tại sao...? (có khi thay bằng: Hãy trình
bày/giải thích nguyên nhân/ lý do...), Hãy so sánh... (có khi thay bằng: Hãy nêu những điểm
giống nhau, khác nhau...).
Vận dụng (vận dụng thấp và vận dụng cao), thể hiện khả năng tư duy cao hơn, khả năng
đánh giá, phán xét, phân tích tổng hợp có thể vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề.

Loại câu hỏi này thường dùng các từ Phân tích... Nhận xét..., Đánh giá... Phát biểu ý kiến...
Sau cùng, giáo viên lưu ý học sinh rằng: Phân tích đề, phát hiện và giải quyết vấn đề,
7


xác định đúng yêu cầu của từng câu hỏi là việc làm tối quan trọng, quyết định phương
hướng làm bài đúng, tránh tình trạng lạc đề.
1.3.2. Nắm vững chương trình, đi từ khái quát đến cụ thể và từ cụ thể đến khái
quát, đặt ra các yêu cầu cần đạt về kiến thức của từng giai đoạn cụ thể.
Đây là việc làm quan trọng vì khái quát hóa sẽ giúp học sinh hình dung được toàn bộ
chương trình, nắm được kiến thức một cách hệ thống, toàn diện và có khả năng làm các câu
hỏi tổng hợp một cách nhanh nhất, linh hoạt nhất.
Ví dụ 1: Khi dạy phần lịch sử Việt Nam 1919-1930, trước hết giáo viên giúp học sinh
hiểu được: mốc năm 1919 là tính từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn mốc năm 1930 là
sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong giai đoạn này, yêu cầu đặt ra là các em phải
nắm được những nội dung chính sau:
Thứ nhất, những tác động của tình hình thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến
cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp: Hoàn cảnh, nội
dung, tác động kinh tế - xã hội; và những chính sách thống trị về chính trị, văn hóa, giáo dục
của thực dân Pháp.
Thứ ba, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 đến 1925:
+ Hoạt động của tư sản, tiểu tư sản và công nhân từ 1919 đến 1925.
+ Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1925.
+ Hoạt động của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh từ 1919 đến 1925.
Thứ tư, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1925 đến 1930
+ Phong trào công nhân 1926 - 1929.
+ Sự xuất hiện của ba tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Việt
Nam Quốc dân đảng, Tân Việt cách mạng đảng.
+ Sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản...

+ Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa của Hội
nghị thành lập Đảng, ý nghĩa sự ra đời của Đảng; nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
Thứ năm, vai trò của Nguyễn Ái Quốc với cách mạng Việt Nam từ năm 1919 đến
năm 1930.

8


Ví dụ 2: Sau khi học những nội dung cụ thể của phần lịch sử Việt Nam 1919-1930, giáo
viên cần yêu cầu học sinh rút ra nội dung lớn nhất của giai đoạn lịch sử này và giải thích tại
sao có lại có đặc điểm đó?
1.3.3. Ôn tập theo từng chuyên đề cụ thể và chuyên sâu
Đây là việc làm rất cần thiết, bởi học sinh giỏi là những học sinh đã vượt qua các vòng
thi ở các cấp nên về cơ bản các em đã có kiến thức nền tương đối vững. Vì vậy, giáo viên
không nên dạy lại theo tiến trình lịch sử hoặc các bài trong sách giáo khoa dễ gây nhàm
chán cho học sinh mà nên giúp các em ôn tập dưới dạng các chuyên đề. Yêu cầu của các
chuyên đề đưa ra phải đảm bảo là sau khi giải quyết xong các chuyên đề đó, học sinh vừa
nhớ lại những kiến thức cơ bản nhất, lại vừa có khả năng tổng hợp, khái quát cao hơn và có
thể làm tốt các dạng câu hỏi từ khái quát đến cụ thể của cả giai đoạn.
Ví dụ: Khi giúp học sinh ôn tập giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1930, giáo viên
có thể đưa ra các chuyên đề sau:
Chuyên đề 1: Những chuyển biến về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất.
Chuyên đề 2. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam (1919-1930).
Chuyên đề 3. Các tổ chức yêu nước và cách mạng Việt Nam từ 1919 đến trước 1930.
Chuyên đề 4. Nguyễn Ái Quốc và quá trình hoạt động thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (1911- 1930)
Chuyên đề 5. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Với việc phân ra thành các chuyên đề như vậy, sẽ đặt học sinh trước những tình huống

“có vấn đề” ở mức độ nhất định và buộc học sinh phải tư duy, phải huy động kiến thức đã
học để tổng hợp, định hướng, phân loại xem trong chuyên đề đó bao gồm những nội dung
cụ thể nào, diện mạo của nó ra sao....
Tiếp theo, với mỗi chuyên đề, giáo viên đưa ra một hệ thống các câu hỏi cần phải giải
quyết xoay quanh chuyên đề đó, yêu cầu học sinh tự lập dàn ý cho từng câu (với những câu
hỏi đơn giản có thể cho học sinh trình bày miệng để kiểm tra mức độ kiến thức của học
sinh). Dựa vào dàn ý học sinh đã lập, giáo viên sẽ biết được những nội dung nào học sinh đã
nắm vững, những nội dung nào cần phải bổ sung, chỉnh sửa để giúp học sinh ôn tập. Đối với
những câu hỏi học sinh đã nắm vững thì cho về nhà tự ôn tập lại; còn đối với những câu hỏi
học sinh còn thiếu sót về kiến thức hoặc yếu về kỹ năng thì giáo viên có thể cho học sinh
thảo luận nhóm, trao đổi với nhau để tự thấy những ưu điểm, hạn chế trong bài làm của
mình, của bạn và rút kinh nghiệm. Cuối cùng, giáo viên nhận xét chung và chốt lại một dàn
9


ý chính xác, tương đối đầy đủ và hướng dẫn học sinh phương pháp làm cụ thể đối với câu
hỏi đó. Mỗi học sinh khác nhau sẽ về viết hoàn chỉnh lại các câu hỏi khác nhau (các câu
phải viết lại là những câu các em làm chưa tốt ở trên lớp), buổi sau nộp cho giáo viên. Khi
nhận được bài làm ở nhà của học sinh, giáo viên cần chấm, chữa tỉ mỉ từ cách mở bài, cách
kết bài, cách giải quyết vấn đề, từ lời văn đến lỗi chính tả, dung lượng các kiến thức được
đưa vào…Có như vậy, học sinh mới nhận thấy rõ điểm nào mình cần phát huy, điểm nào
mình cần khắc phục để làm tốt hơn các dạng bài tập tương tự và rút kinh nghiệm cho việc
làm các bài tập khác.
1.3.4. Tổ chức dạy học theo nhóm, phát huy tối đa tính chủ động, năng lực sáng tạo
của học sinh
Với phương pháp này, giúp học sinh có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo trong học tập, đồng thời tăng cường khả năng diễn đạt, tăng kỹ năng hoạt động nhóm…
nhằm phát hiện kiến thức mới hoặc phân tích đánh giá sâu hơn về một vấn đề nào đó, hướng
đến một nhận thức chung nhất. Để phương pháp này đạt hiệu quả cao nhất, người thầy phải
chủ động đề xuất hệ thống các câu hỏi, bài tập, các vấn đề để học sinh dựa vào đó thảo luận,

phát hiện kiến thức mới hoặc tranh luận để hướng đến những đánh giá, nhận thức vấn đề
hoàn chỉnh nhất.
1.3.5. Đưa ra nhiều dạng câu hỏi, ở những mức độ khác nhau cho cùng một vấn đề.
Trong quá trình ôn tập, cùng một vấn đề nhưng giáo viên cần đưa ra nhiều dạng câu hỏi
khác nhau, với những mức độ yêu cầu khác nhau để rèn cho học sinh có khả năng xử lý linh
hoạt các yêu cầu của đề đưa ra. Để đạt hiệu quả cao nhất, giáo viên nên đưa ra nhiều dạng
bài tập với đủ 4 mức độ từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp đến vận dụng cao cùng
xoay quanh một vấn đề.
Ví dụ 1: Cùng xoay quanh vấn đề ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đầu năm 1930 có thể có đưa ra 3 dạng bài tập (cách hỏi) khác nhau như sau:
Dạng 1: Hỏi trực tiếp:
- Nêu ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 có ý nghĩa như thế nào.
Dạng 2: Hỏi gián tiếp:
- Sự kiện nào đánh dấu phong trào công nhân Việt Nam đã hoàn thành quá trình đấu
tranh từ tự phát sang tự giác ? Hãy nêu ý nghĩa của sự kiện lịch sử đó.
- Sự kiện nào đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của khuynh hướng cách mạng vô sản
trước khuynh hướng cách mạng tư sản ở Việt Nam ? Hãy nêu ý nghĩa của sự kiện đó.
10


- Sự kiện nào đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX? Hãy trình bày ý nghĩa của sự kiện đó.
Dạng 3: Hỏi sâu:
- Phân tích ý nghĩa sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930.
- Tại sao nói sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (đầu năm 1930) là một bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam?
* Dạng 1: Đây là dạng bài tập yêu cầu nhận biết ở mức độ thấp, học sinh chỉ cần dẫn
dắt vào sự kiện Đảng ra đời và đi thẳng vào các ý nghĩa, không cần phân tích.
* Dạng 2: Đây là dạng bài tập yêu cầu ở mức độ nhận biết và thông hiểu cao, đòi hỏi

học sinh phải nắm vững kiến thức, hiểu thật kỹ (ý nghĩa sự ra đời của Đảng). Ngoài phần ý
nghĩa sách giáo khoa trình bày còn có những ý nghĩa “chìm” học sinh phải ngầm hiểu: Sự
kiện Đảng ra đời đã đánh dấu phong trào công nhân Việt Nam đã hoàn toàn chuyển sang tự
giác; đó cũng là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX đã được giải quyết và từ đây, giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo trọn
vẹn. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (đầu năm 1930) cũng là mốc đánh dấu sự
thắng lợi hoàn toàn của khuynh hướng vô sản trước khuynh hướng tư sản, của giai cấp vô
sản trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước giai cấp tư sản.
Đó cũng là những dấu hiệu để nhận biết sự kiện lịch sử- Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Khi đã tìm ra câu trả lời cho ý đầu tiên thì yêu cầu còn lại (nêu ý nghĩa của sự kiện đó) trở
nên đơn giản như cách 1 đã giải quyết.
Tuy nhiên, với những câu hỏi dạng này nếu học sinh đi vào trả lời luôn ý nghĩa sự ra
đời của Đảng thì chắc chắn sẽ bị mất điểm. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với dạng bài tập này
là giáo viên cần hướng dẫn học sinh giải quyết theo hai bước với hai ý rõ ràng để không bị
mất điểm một cách đáng tiếc:
Bước 1: Xác định chính xác sự kiện đó (Ví dụ: Sự kiện đánh dấu phong trào công nhân
Việt Nam đã hoàn toàn chuyển từ tự phát sang tự giác là sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời (đầu năm 1930) – ý này thường được 0,5 điểm trong bài thi.
Bước 2. Nêu ý nghĩa sự ra đời sự kiện đó (ý nghĩa sự ra đời của Đảng).
* Dạng 3: Đây là dạng bài tập yêu cầu phân tích ý nghĩa sự ra đời của Đảng nên không
chỉ nêu ra mà còn phải phân tích, lập luận làm sáng tỏ các ý nghĩa. Hoặc đặc biệt là với
dạng bài tập “Tại sao nói sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam?”, giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái
niệm “bước ngoặt” và yêu cầu các em phải giải thích rõ từng ý nghĩa bằng cách lấy dẫn
11


chứng, lập luận trước khi Đảng ra đời và sau khi Đảng ra đời để thấy rõ hai bức tranh khác
nhau và đi đến kết luận: Đảng ra đời chính là một bước ngoặt vĩ đại.
Ví dụ 2:

- Nêu: Đảng ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
- Chứng minh
+ Trước khi Đảng ra đời, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng kiến sự bước lên vũ
đài chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng của nhiều bộ phận khác nhau như phong kiến
(các văn thân sĩ phu trong phong trào Cần Vương), nông dân (Hoàng Hoa Thám), sĩ phu tư
sản hóa (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh), tư sản (Việt Nam Quốc dân Đảng)…, nhưng tất
cả đều không đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
- Từ khi Đảng ra đời đã xác định rõ giai cấp công nhân Việt Nam với chính đảng của
mình là lực lượng lãnh đạo duy nhất có thể đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn. Từ đây,
Đảng Cộng sản trở thành chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Nêu: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị có tính tất yếu đầu tiên cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này.
- Chứng minh
+ Trước khi Đảng ra đời, các phong trào đấu tranh yêu nước đều thất bại: phong trào
Cần Vương, phong trào nông dân Yên Thế, phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, khởi
nghĩa Yên Bái.
+ Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
Cách mạng tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống Pháp năm 1954, kháng chiến chống
Mỹ năm 1975, công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay.
1.3.6. Kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh.
Thực tiển dạy học lịch sử ở trường THPT nói chung và trường THPT chuyên nói
riêng cho thấy, trong những năm qua việc kiểm tra, đánh giá theo cách tiếp cận nội dung
(chủ yếu kiểm tra kiến thức, kĩ năng) thực chất chúng ta mới đánh giá được năng lực học
tập của học sinh. Bởi lẽ, năng lực là tổng hợp kiến thức, kĩ năng, thái độ cùng những phẩm
chất, năng lực khác. Nếu quan niệm năng lực là một dải, thì kiến thức là giai đoạn đầu của
dải năng lực, kĩ năng là dải tiếp theo, do đó trong học tập và kiểm tra, đánh giá lịch sử việc
học sinh ghi nhớ kiến thức, trình bày một cuộc kháng chiến, chiến dịch, hay lập bảng niên
biểu....mà chúng ta chưa nhấn mạnh vấn đề năng lực vận dụng trong thực tiễn kiểm tra,
đánh giá môn Lịch sử.

12


Mặt khác, theo đề án đổi mới cách thức ra đề, cách kiểm tra, đánh giá của Bộ GD&ĐT
trong đợt thi tốt nghiệp và thi Đại học vừa qua (năm 2014), tỉ lệ những câu hỏi ở mức vận
dụng – đã thể hiện rõ nhất năng lực, phẩm chất của học sinh. Điều này, được Bộ GD&ĐT
cân đối đúng mực và chiếm tỉ lệ phù hợp, cân đối với những câu hỏi ở mức độ hiểu biết nôi
dung lịch sử. Gần đây, trong cấu trúc đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông Quốc gia do Bộ
Giáo dục công bố, tỉ lệ các câu hỏi ở mức độ vận dụng chiếm khoảng hơn 40%. Điều này
cho thấy, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực là xu hướng chủ đạo hiện nay trong giáo
dục.
2. Xác định mối liên hệ giữa các sự kiện lớn của lịch sử thế giới có tác động đến
lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945
2.1. Từ 1917 đến 1927
* Nội dung sự kiện
- Cách mạng tháng 10 Nga 1917 thành công tác động tư tưởng lớn không chỉ với
nước Nga mà cả thế giới:
+ Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới có 1 cuộc cách mạng vô sản nổ ra thành công đã
giải quyết đồng thời 4 nhiệm vụ cơ bản trong xã hội (toàn thể dân tộc Nga mâu thuẫn với
chế độ phong kiến Nga hoàng; nông dân >< Nga hoàng; Tư sản >< vô sản; đế quốc Nga ><
các đế quốc khác)
+ Cuộc cách mạng đã thiết lập 1 chế độ mới không có người bóc lột người, chỉ có
người lao động làm chủ thông qua chính quyền công – nông – binh.
+ Cuộc cách mạng như 1 động lực, như mặt trời chiếu rọi cho các nước phương
Đông con đường giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tác động đến những người yêu nước
Việt Nam trên con đường tìm chân lý cứu nước, mà trước hết là đối với Nguyễn Ái Quốc.
Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ
nghĩa Mác Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn- con đường cách mạng vô sản.
Dưới tác động của Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc đấu tranh của cách mạng Pháp và

phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa của Pháp (trong đó có Việt Nam) có
mối liên hệ mật thiết với nhau vì cùng chống kẻ thù chung là đế quốc Pháp. Năm 1921,
Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của các nước trong khối thuộc địa Pháp
thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa” ở Pari nhằm tập hợp những người dân thuộc địa sống
trên đất Pháp, nghiên cứu tình hình chính trị của thuộc địa để truyền bá chủ nghĩa Mác
Lênin, truyền bá con đường cách mạng vô sản, để soi sáng cho cuộc đấu tranh vì quyền lợi
của nhân dân các nước thuộc địa.
- Cao trào cách mạng 1918 – 1923 ở các nước tư bản Âu-Mỹ do tác động của Cách
mạng tháng Mười Nga và hậu quả của CTTG 1 làm cho chính phủ tư sản lung lay khủng
13


hoảng, nhiều Đảng vô sản ra đời: Đảng Cộng sản Đức 1918, Đảng Cộng sản Pháp 1920,
Đảng Cộng sản Mĩ 1921…. Khuynh hướng cách mạng vô sản đã vượt ra khỏi nước Nga, lan
nhanh tới các nước tư bản, mặc dù bị chính phủ tư sản ngăn cản kiểm soát.
- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông dưới tác động của
cách mạng tháng Mười Nga, hậu quả CTTG 1 làm cho chính phủ thuộc địa khủng hoảng
gặp nhiều khó khăn. Điển hình là phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc (1919), phong trào
chống thực dân Hà Lan ở Indonexia, phong trào chống thực dân Anh của Đảng Quốc đại ở
Ấn Độ. Kết quả nhiều Đảng Cộng sản ra đời: Đảng cộng sản Indonexia 1920, Trung Quốc
1921, Ấn Độ 1927. Khung hướng vô sản lan sang phương Đông và ngày càng phát triển
mạnh.
- Quốc tế cộng sản ra đời 1919 gắn liền với linh hồn của Cách mạng tháng Mười Nga
là Lê nin, vạch ra đường lối đấu tranh, bênh vực quyền lợi và bảo vệ mình. Nó trở thành
định hướng cho hoạt động của phong trào công nhân. Đại hội 2/1920 thông qua Luận cương
của Lê nin.
* Tác động
Bản luận cương này đã được Nguyễn Ái Quốc đọc và Người đã tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam – con đường cách mạng vô sản. Tháng 12/1920,
Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp ở thành phố Tua,

Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế ba, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặc trong tư tưởng chính
trị của Nguyễn Ái Quốc. Nó mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai
đoạn mới, giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế,
đưa nhân dân Việt Nam đi theo con dường cách mạng tháng Mười Nga.
=> Đây chính là điều kiện khách quan của lịch sử làm xuất hiện khuynh hướng cứu nước
mới ở Việt Nam – khuynh hướng vô sản.
Điều kiện chủ quan:
- Sự bế tắc của các con đường cứu nước (phong kiến, dân chủ tư sản từ cuối thế kỉ
XIX đến đầu thế kỉ XX) đã đặt ra cho lịch sử ta cần phải tìm con đường cứu nước mới phù
hợp với dân tộc. Con đường cứu nước đó phải giải quyết được đồng thời 2 nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
- Những tác động từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp làm cho
kinh tế, xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc: Sự xuất hiện của nhiều giai cấp, tầng ớp mới ngày
càng đông hơn, thái độ chính trị khác biệt ( phân tích cụ thể thái độ từng giai cấp), bổ sung
cho phong trào yêu nước tiến bộ như công nhân, tiểu tư sản trí thức.
- Phong trào công nhân không chỉ phát triển về số lượng mà cả chất lượng đã chuyển
sang đấu tranh tự giác.
14


- Nhãn quan chính trị sắc bén cùng những hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc
trong việc lựa chọn con đường cứu nước sau đó truyền bá vào Việt Nam. Tích cực chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
=> Trên đây là những điều kiện lịch sử (chủ quan và khách quan) làm xuất hiện khuynh
hướng cứu nước mới ở Việt – khuynh hướng vô sản.
2.2. Từ 1929 đến 1933
* Nội dung sự kiện
- Cuộc khủng hoảng 1929-1933 của các nước tư bản lan nhanh đến tất cả các nước,
làm cho thế giới lao đao. Cuộc khủng hoảng này cũng ảnh hưởng sâu sắc tới Việt Nam:

+ Công nhân thất nghiệp
+ Tư sản, thương nhân bị phá sản, đời sống khó khăn
+ Tiểu tư sản trí thức cuộc sống khó khăn vì không có nguồn thu
+ Nông dân không có ruộng đất canh tác, không được địa chủ thuê làm
* Tác động
- Cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp sau khởi nghĩa Yên Bái cũng chịu tác động
cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Xã hội nổi lên 2 mâu thuẫn sâu sắc: Mâu thuẫn dân
tộc giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân
với địa chủ phong kiến tay sai.
=>Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ cao trào
cách mạng 1930 -1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh (mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn
giai cấp là nguyên nhân sâu xa; Đảng ra đời là nguyên nhân quyết định).
- Con đường giải quyết khủng hoảng của 2 nhóm nước tư bản đã tạo nên mâu thuẫn
mới trong quan hệ quốc tế:
+ Những nước giàu tài nguyên khoáng sản, nhiều thị trường thuộc địa: Mĩ, Anh,
Pháp chọn con đường cải cách dân chủ và thành công.
+ Những nước nghèo tài nguyên, ít nhân công thị trường chọn con đường phát xít
hóa chính quyền => chủ nghĩa phát xít xuất hiện ở Đức, Italia, Nhật Bản. Sự xuất hiện chủ
nghĩa phát xít đe dọa họa bình nhân loại.
- Quốc tế cộng sản có những bất đồng trong nội bộ, xuất hiện khuynh hướng tả
khuynh, coi trọng đấu tranh giai cấp, nhẹ về đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngoại trừ Nguyễn
Ái Quốc khi viết Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê nin
vào Việt Nam. Trần Phú bị chi phối chịu ảnh hưởng của tư tưởng coi trọng đấu tranh giai
cấp, nên khi viết Luận cương đã mắc 2 hạn chế lớn là coi trọng đấu tranh giai cấp, vấn đề
ruộng đất và xác định lực lượng cách mạng còn thiếu, chỉ có công nhân và nông dân.
2.3. Từ 1936 đến 1939
15


* Nội dung sự kiện

- Chủ nghĩa phát xít xuất hiện ở Đức, Italia, Nhật Bản, hình thành 2 lò lửa chiến
tranh. Họ tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lớn đòi chia lại thị trường thế giới. Tuyên
bố công khai chống lại quốc tế cộng sản và loài người. Nguy cơ chiến tranh thế giới thứ 2
đang đến gần, đòi hỏi tất cả các nước phải cùng chung tay giải quyết ngăn chặn.
- Thái độ của các nước lớn trong việc đối phó với chủ nghĩa phát xít không thống
nhất mà càng tạo điều kiện cho các nước phát xít chuẩn bị chiến tranh. Mĩ tuyên bố trung
lập; Anh, Pháp thì “đi đêm” với Đức đã dung dưỡng kí với Đức Hiệp ước Muy-nich (1938)
cắt vùng đất Xuy-đét của Tiệp Khắc trao cho Đức, đổi lại lời hứa Đức sẽ tấn công Liên Xô.
Chiến tranh ngày càng có nguy cơ cao.
- Tháng 7/1935, Quốc tế cộng sản đã họp Đại hội VII tại Matxcơva đưa ra 2 quyết
định quan trọng:
+ Chỉ rõ kẻ thù của nhân loại là chủ nghĩa phát xít.
+ Kêu gọi các nước thành lập Mặt trận Nhân dân chống phát xít, chống chiến tranh.
Đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã đến
dự để tiếp thu tinh thần Đại hội rồi trở về nước triển khai cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
- Ở Pháp năm 1936, lực lượng tiến bộ đã trúng cử lên nắm quyền ban hành nhiều
chính sách tiến bộ có lợi cho nhân dân các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam: thả tù
chính trị, ban hành các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, cho phép các tổ chức Đảng phái
chính trị hoạt động, cho phép nhân dân được quyền ứng cử, bầu cử. Tuy nhiên bọn phản
động thuộc địa Pháp và tay sai ở Đông Dương không chịu thi hành những chính sách tiến bộ
đó, nên Đảng cần phải có chủ trương đấu tranh cho phù hợp với thời cuộc.
* Tác động
=> Đây là điều kiện lịch sử, là lí do để Đảng triệu tập Hội nghị Trung ương 7/1936
tại Thượng Hải (Trung Quốc) dẫn tới cao trào dân chủ 1936 – 1939.
2.4. Từ 1939-1945
2.4.1. Tháng 9/1939
* Nội dung sự kiện
- Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ: Đức tấn công Ba Lan sau đó Anh, Pháp tham
chiến đã làm thay đổi mối quan hệ giữa các nước đế quốc.
* Tác động

Nước Pháp thực hiện chính sách thời chiến, áp dụng chính sách kinh tế chỉ huy, ra
sức vơ vét, bóc lột của cải trong nhân dân để phục vụ chiến tranh làm cho hàng hóa khan
hiếm, đời sống nhân dân khó khăn nhất là công nhân và nông dân. Tăng cường bắt nhân dân
ta đi lính làm bia đỡ đạn cho quân Pháp trên chiến trường làm cho nhân dân ta thêm căm
16


thù. Đàn áp, khủng bố các phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân ta, nhiều chiến sĩ
cách mạng bị bắt cầm tù.
=> Lúc này kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân
Việt Nam nói riêng chính là thực dân Pháp cùng tay sai của chúng. Nhiệm vụ giải phóng
dân tộc được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, 11/1939, Đảng đã triệu tập Hội nghị Trung ương VI
tại Bà Điểm - Hóc Môn, xác định nhiệm vụ giải phóng các dân tộc Đông Dương lên hàng
đầu đưa nhân dân ta trực tiếp bước vào cuộc vận động cứu nước.
2.4.2. Tháng 9/1940
* Nội dung sự kiện
- Ở châu Âu, Đức mở rộng thôn tính nhiều nước trong đó có Pháp. Chính phủ Pháp
phải đầu hàng, chạy sang nước Anh ẩn nấu, phong trào chống phát xít ở Pháp và châu Âu
diễn ra quyết liệt.
- Ở châu Á, Nhật đã tiến vào biên giới Việt – Trung đánh chiếm Lạng Sơn nước ta,
sau đó thôn tính toàn Đông Dương. Vì quyền lợi của mình, Pháp đã chống cự nhưng thất bại
nhanh chóng. Cuối cùng Pháp đầu hàng, chấp nhận làm tay sai, cấu kết với Nhật, cùng nhau
bóc lột nhân dân Đông Dương.
* Tác động
Pháp đẩy mạnh chính sách thời chiến để vừa phục vụ nước Pháp vừa đáp ứng nhu
cầu của Nhật làm cho đời sống nhân dân cùng cực, cách mạng gặp nhiều khó khăn. Từ khi
Nhật vào nước ta, nhân dân đã phải chịu 2 tầng áp bức bóc lột nặng nề, chịu cảnh “1 cổ 2
tròng”. Chưa khi nào đời sống nhân dân lại khổ như vậy.
=> Do đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc lúc này cần phải tiếp tục giương cao. Vì vậy,
11/ 1940 Hội nghị Trung ương VII được triệu tập.

4.2.3. Cuối 1940 - 5/1941
* Nội dung sự kiện
- Ở châu Âu: Đức đã thôn tính gần hết trừ 1 số nước trung lập ở Bắc Âu. Nước Anh
cũng bị Đức oanh tạc bằng không quân. Đức đang chuân bị lực lượng tổng lực để chuẩn bị
tấn công Liên Xô. Lúc này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Liên Xô luôn theo sát tình
hình thế giới đã dự đoán nếu Đức tấn công Liên Xô thì tính chất của chiến tranh sẽ thay đổi
(chính nghĩa thuộc về Liên Xô và các nước chống phát xít). Sớm muộn gì chủ nghĩa phát xít
cũng bị tiêu diệt, điều này sẽ đem lại cơ hội cho cách mạng nhiều nước thành công nhưng
cần phải có công tác chuẩn bị chu đáo.
- Ở châu Á: Nhật không ngừng mở rộng đánh chiếm các nước và không ngừng thôn
tính châu Á, vì thế phong trào chống Nhật nổ ra ở hầu hết các nước châu Á.
* Tác động
17


- Mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt, nếu không sớm được giải quyết thì nhân dân
ta vẫn mãi “chịu kiếp ngựa trâu".
- Mâu thuẫn Nhật – Pháp cũng xuất hiện, sớm muộn gì cũng xảy ra chiến tranh vì họ
không thể chung nhau chia sẻ quyền lợi ở Đông Dương.
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc lúc này phải đặt lê trên hết, mọi nhiệm vụ khác phải
gác lại nhưng 3 nước Đông Dương có hoàn cảnh lịch sử địa lí khác nhau cần phải giải quyết
trong phạm vi của từng nước. Vì vậy Nguyễn Ái Quốc đã quyết định trở về nước đầu năm
1941 để trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau 1 thời gian liên lạc với các cơ sở Đảng, từ 1019/5/1941, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị Trung ương VIII tại Pác Bó – Cao Bằng.
4.2.4. Cuối 1944 - 3/1945
* Nội dung sự kiện
- Ở châu Âu Hồng quân Liên Xô và liên quân Anh – Mĩ liên tiếp mở những cuộc tiến
công phát xít giành thắng lợi chuyển sang thế phản công trên khắp các mặt trận, lãnh thổ
nhiều nước châu Âu được giải phóng, phát xít Đức sắp bị tiêu diệt hoàn toàn.
- Ở châu Á: quân Nhật cũng liên tiếp bại trận bởi các cuộc tiến công của liên quân
Anh – Mĩ.

- Ở Đông Dương: Biết được sự thất bại liên tiếp của Nhật Bản, quân Pháp ở Đông
Dương tích cực chuẩn bị lực lượng để làm cuộc đảo chính giành lại sự thống trị ở Đông
Dương. Vì vậy, Nhật – Pháp rất căng thẳng, chiến tranh giữa 2 đế quốc này sớm muộn cũng
nổ ra. Đúng như dự đoán 9/3/1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp trên toàn Đông
Dương.
* Tác động
- Từ khi Nhật đảo chính, Pháp đã đem lại cho cách mạng Việt Nam 1 tình thế mới:
chúng ta đã bớt đi 1 kẻ thù nguy hiểm là Pháp, chỉ còn lại kẻ thù duy nhất là Nhật và tay sai
của chúng.
- Từ khi Nhật đảo chính Pháp, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với Nhật đã lên đến
đỉnh điểm. Bởi: Nhật dùng những thủ đoạn mị dân, lừa bịp nhân dân ta là đã giúp Việt Nam
giành được độc lập từ tay Pháp. Từ đó tuyên truyền về sức mạnh của Nhật, vai trò của Nhật,
nhưng trên thực tế chúng ráo riết thành lập chính phủ bù nhìn, tiếp tục bắt nhân dân ta nhổ
lúa trồng đay, đàn áp phong trào yêu nước cách mạng do Đảng lãnh đạo, nạn đói thêm trầm
trọng...
=> Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam lúc này là phải tập trung mũi nhọn
vào đánh đuổi Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngay khi biết tin Nhật
đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn cấp tại làng Đình Bảng –
Từ Sơn – Bắc Ninh. Đến ngày 12/3/1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn
18


nhau và hành động của chúng ta”. Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm
tiền đề cho Tổng khởi nghĩa.
4.2.5. Tháng 5/1945 – 8/1945
* Nội dung sự kiện
- 5/1945: Đức đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện, CTTG II kết thúc ở châu Âu,
số phận quân Nhật cũng sắp bị tiêu diệt.
- Từ ngày 17/7- 2/8/1945, Hội nghị Pốtxđam đã họp ở nước Đức, thống nhất cho
quân Trung Hoa Dân quốc vào phía Bắc vĩ tuyến 16 ở Đông Dương, phía Nam là quân Anh

làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật sau khi CTTG II kết thúc.
- Thực hiện lời hứa của mình tại Hội nghị Ianta, từ 8/8/1945 Liên Xô tuyên chiến với
Nhật và nhanh chóng tiêu diệt hơn 1 triệu quân tinh nhuệ của Nhật ở vùng Đông Bắc Trung
Quốc, làm cho quân Nhật hoảng loạn, không còn tinh thần chiến đấu.
- Cùng thời gian trên từ 6 - 9/8/1945, Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản,
giết hại hơn 10 vạn dân, làm cho Nhật Bản kiệt quệ, hoang tàn, đổ nát. Lúc này Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng luôn theo dõi sát tình hình chiến sự thế giới đã đưa ra nhận định:
Sớm muộn gì trong 1 vài ngày tới Nhật sẽ đầu hàng Đồng minh. Khi đó thời cơ “ngàn năm
có 1” sẽ đến với nhân dân Việt Nam nên cần phải hành động gấp.
- 15/8/1945 đúng như dự đoán Nhật hoàng đã tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô
điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với thất bại thuộc về phe phát xít.
* Tác động
- Đồng minh chưa kịp vào nước ta: Về chủ quan mọi công tác chuẩn bị của Đảng và
nhân dân ta cho việc giành chính quyền đã hoàn tất, chỉ cần đợi lệnh của Đảng, các lực
lượng trung gian đã ngả theo cách mạng.
Thời cơ này đến rất nhanh và trôi đi cũng rất nhanh chỉ kéo dài khoảng nửa tháng (từ
khi Nhật đầu hàng 15/8- những ngày đầu tháng 9) vì quân Đồng minh sẽ vào nước ta. Nếu
không giành được chính quyền trước khi quân Đồng minh vào thì sẽ hết thời cơ.
=> Nhận thấy chưa khi nào nước ta lại có đầy đủ những yếu tố thuận lợi như lúc này,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù có hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”.
- Chớp thời cơ đó:
+ 13/8 khi biết tin Nhật sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành
lập Ủy ban khởi nghĩa và ra Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn
quốc.
+ 14-15/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng diễn ra tại Tân Trào, thông qua kế hoạch
lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
19



+ 16-17/8/1945, Đại hội Quốc dân tán thành kế hoạch Tổng khởi nghĩa, thông qua 10
chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng
đầu...
- Chiều 16/8, đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận lệnh đưa 1 đoàn quân từ Tân Trào về
giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho Tổng khởi nghĩa.
=> Như vậy, trên cơ sở chủ động theo dõi, nắm bắt sự chuyển biến của tình hình thế
giới, khu vực và trong nước, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chớp lấy thời cơ khi
Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện để phát động toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân.
3. Chuyên đề chuyên sâu: Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám
năm 1945 và việc vận dụng bài học thời cơ trong kháng chiến chống Mỹ và trong thời
kì đổi mới đất nước
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là biểu hiện mẫu mực của khoa học và
nghệ thuật lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, trong đó nổi bật là khoa học, nghệ
thuật chủ động chuẩn bị lực lượng, chủ động theo dõi, dự báo, nắm bắt mau lẹ và chớp thời
cơ một cách quyết đoán hiệu quả.
3.1. Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám 1945
* Quan điểm về thời cơ
Thời cơ là yếu tố khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
một cá nhân, tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một
khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy không có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó không
thể biết trước được, không thể đoán định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, nó có mà
không có và ngược lại. Vì thế, không phải ai cũng có thể dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm
bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái đích của mình.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì thời cơ trong cách mạng hay tình thế
cách mạng có ba nhân tố chủ yếu sau:
Thứ nhất, giai cấp thống trị đã suy yếu, khủng hoảng đến mức không thể tiếp tục
thống trị bằng những phương thức cũ được nữa.
Thứ hai, các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình trạng cơ cực, bị
bần cùng không thể chịu đựng được nữa, không thể sống nổi nữa. Mâu thuẫn đã gay gắt đến

cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới hành động giải phóng.
Thứ ba, tầng lớp, bộ phận trung gian, những người tri thức yêu nước có tư tưởng dân
chủ tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản
nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngã về phía cách mạng, tương
quan lực lượng có lợi cho phía cách mạng. Đội tiên phong của cách mạng, tức Đảng lãnh
đạo đã sẵn sàng lãnh đạo cách mạng.
20


Hội đủ những điều kiện đó, về cơ bản tình thế cách mạng đã chín muồi (thời cơ cách
mạng chín muồi). Như vậy, một cuộc khởi nghĩa diễn ra thành công không phải dựa vào
một âm mưu, một đảng phái mà phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân, dựa vào
một chuyển hướng lịch sử quyết định. Hay để một cuộc khởi nghĩa nổ ra và giành thắng lợi
đòi hỏi phải hội đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài (chủ quan và khách quan) mà
chúng ta thường gọi là điều kiện chín muồi. Trong lịch sử, trước khi có Đảng, các phong
trào cách mạng, các cuộc khởi nghĩa không thành công, trước hết đều bắt nguồn từ việc
chưa hội đủ các điều kiện cần thiết. Chẳng hạn, sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của
Việt Nam Quốc dân Đảng vào đầu tháng 2-1930 là một ví dụ điển hình về việc thời cơ chưa
xuất hiện. Khi đó, những người đứng đầu Việt Nam Quốc dân Đảng đã coi khởi nghĩa như
một giải pháp tình thế - “không thành công cũng thành nhân”.
* Chủ động theo dõi, dự báo thời cơ
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một điển hình về tổng khởi nghĩa
giành chính quyền cho các dân tộc bị đế quốc, thực dân nô dịch trên thế giới noi theo. Tổng
khởi nghĩa tháng Tám đã diễn ra với khí thế như một cơn lốc cực mạnh, không đầy hai tuần
lễ đã lật nhào ách thống trị hàng trăm năm của đế quốc, đạp đổ ngai vàng phong kiến đã ngự
trị hàng ngàn năm trên đất nước ta, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Một
nhà nước tiến bộ nhất trong lịch sử nước ta và cũng là nhà nước tiến bộ nhất ở Đông Nam Á
lúc bấy giờ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là nhờ sự hội tụ của những điều kiện
khách quan và chủ quan khác nhau, một trong những vấn đề đó chính là việc Đảng ta đã biết

nhận định về thời cơ và chớp lấy thời cơ, Cách mạng Tháng Tám diễn ra đúng quy luật:
Cách mạng không tự dưng nó đến mà phải chuẩn bị cho nó và phải biết giành lấy nó.
Khi CTTGII chưa lan ra toàn thế giới, lúc Liên Xô chưa chính thức tham chiến, trong
Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (5/1941) đã dự báo một
cách chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc
chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh
lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều nước thành
công…” Như vậy, theo dự báo của Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh thời cơ sẽ đến với
nhiều nước trên thế giới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về
Liên Xô và phe dân chủ. Đó là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng
nhiều nước, trong đó có cách mạng Việt Nam. Như chúng ta đã biết, dự báo đó hoàn toàn
chính xác, đặc biệt là đối với châu Âu. Ở đó, chủ nghĩa xã hội từ một nước trở thành một hệ
thống. Việt Nam ở châu Á đang rên xiết dưới ách thống trị của phát-xít Nhật và thực dân
Pháp, chịu ảnh hưởng bởi chiến trường Thái Bình Dương, nơi mà cuộc chiến Mỹ - Nhật
đang bước vào giai đoạn chót.
21


Từ cuối năm 1941, đầu 1942, khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Nhật tràn vào
Đông Dương thì lúc này khả năng đội quân kháng Nhật của Trung Quốc sẽ tràn vào đánh
Nhật ở trên đất nước ta, lúc này, vấn đề thời cơ lại được nêu ra.
Từ đầu năm 1944, trong bài “Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành
động đánh đổ thù chung!” đăng trên Báo Cờ Giải phóng, số 3, ngày 15-2-1944, Tổng Bí
thư Trường Chinh đã dự báo về cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương. Bài báo nhận định
mâu thuẫn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù, sớm hay muộn cuộc đấu súng giữa chúng
với nhau nhất định sẽ xảy ra: “Sự xung đột giữa Nhật - Pháp ngày thêm sâu sắc. Cho nên
Nhật gấp rút”.
Tháng 10 năm 1944, cục diện chiến tranh thế giới thứ hai đã bắt đầu đi đến hồi kết,
Hồng quân Liên Xô đã đánh lùi quân Đức ra khỏi biên giới Liên Xô và đang tiến qua Trung
Âu, quân Nhật thất bại thảm hại ở chiến trường Thái Bình Dương. Trong thư gửi cán bộ và

đồng bào, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các
nước đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng”. Từ sự phân tích trên, Người
khẳng định: “cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời
gian rất gấp, ta phải làm nhanh” .Tuy nhiên, “nhanh” nhưng không nóng vội, vì vậy Người
đã chỉ thị thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” vào ngày 22 tháng 12 năm
1944.
Từ đó, trong suốt năm 1944 và những tháng đầu năm 1945, trên những tờ báo, trong
những văn kiện chính thức của Đảng ta, vấn đề “cuộc đảo chính của phát-xít Nhật” luôn
luôn được nhắc tới nhằm hướng công tác chuẩn bị của Đảng và phong trào cách mạng của
quần chúng chủ động đón nhận nó. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật nổ ra vào đêm 9-31945, Đảng ta không bị động trước thời cuộc mà trái lại, chủ động vạch ra những nhiệm vụ
chiến lược sát đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật - Pháp bắn
nhau, Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai
mạc tại chùa Đồng Kỵ, Bắc Ninh đến ngày 12-3-1945 ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta” . Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương
đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín
muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Vì
vậy, Hội Nghị quyết định phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước, khởi nghĩa từng phần
để làm tiền đề tiến tới Tổng khởi nghĩa. Chỉ thị ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra
khẩu hiệu đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân ta
vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: 1. Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh
Nhật; và 2. Nhật đầu hàng Đồng minh.
* Chớp thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa
phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi Hồng quân Liên
22


×