Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su08

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.8 KB, 56 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

LỰA CHỌN VẤN ĐỀ DẠY VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHO HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA NỘI DUNG :
MỐI LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH
SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945

Tháng 8 - 2019

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn chuyên đề.
Môn Lịch sử trong trường phổ thông là một môn học quan trọng, không chỉ trang
bị cho các em học sinh vốn kiến thức lịch sử của dân tộc và tìm hiểu lịch sử thế giới mà
còn góp phần to lớn trong việc phát triển các năng lực, xây dựng niềm tin, lòng tự tôn dân
tộc, giáo dục truyền thống dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, hình thành nhân cách và bản lĩnh
con người Việt Nam để xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế.
Cũng như các môn học khác, mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử là
mục tiêu kép, tức là vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện của học sinh THPT,
vừa phải phát triển năng khiếu về môn học, để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành
những tài năng thực sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử.
Sứ mệnh phát hiện, bồi dưỡng các tài năng khoa học lịch sử thuộc về trường
THPT chuyên và các trường trọng điểm chất lượng cao của mỗi địa phương trong cả
nước. Đặc điểm của học sinh chuyên là những học sinh được tuyển chọn nghiêm túc qua
kì thi tuyển sinh vào các trường Trung học phổ thông chuyên, có sẵn tố chất và niềm đam
mê với môn học. Do vậy, phương pháp dạy học ở trường Trung học phổ thông chuyên
phải tiên tiến nhất, phù hợp với đối tượng học sinh này. Trong quá trình dạy học, đặc biệt
là trong nhiệm vụ bồi dưỡng các đội tuyển Học sinh giỏi quốc gia, vai trò của người giáo
viên lịch sử ở trường chuyên là phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều khiển học sinh
phát triển tư duy lịch sử, nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, tiến dần lên quá trình tự học, tự


nghiên cứu độc lập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên phần lớn là những vấn
đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng. Vì vậy, học sinh chuyên cần nắm vững, thông hiểu một
khối lượng lớn tri thức và biết vận dụng kiến thức để giải quyết được các vấn đề đặt ra
của môn học, thể hiện được tầm cao trí tuệ và bản lĩnh của bản thân, nỗ lực phấn đấu đạt
thành tích cao nhất trong kì thi chọn Học sinh giỏi quốc gia do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức hàng năm.
Muốn đạt được những yêu cầu trên, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà
còn phải là sự chuyên sâu về kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ
thầy, cô giáo lịch sử dạy chuyên.
Nội dung “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn 19191945” là một nội dung lịch sử quan trọng trong nội dung thi học sinh giỏi các cấp. Trong
những năm 1919-1945, lịch sử Việt Nam có nhiều biến cố quan trọng chịu ảnh hưởng sâu

2


sắc từ tình hình thế giới: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam 1919-1930; Phong trào
cách mạng 1930-1931; Phong trào dân chủ 1936-1939; Phong trào giải phóng dân tộc
1939-1945; Cách mạng tháng Tám 1945. Đây là nội dung lịch sử thú vị, nhưng dạy lịch
sử nội dung này cũng gặp nhiều khó khăn do sách giáo khoa mới chỉ cung cấp kiến thức
lịch sử cơ bản; những nội dung liên hệ, nâng cao rất hạn chế. Điều đó, đòi hỏi người giáo
viên phải nghiên cứu, chọn lọc, cung cấp và hướng dẫn học sinh học đúng, hiểu đúng bản
chất lịch sử. Trên cơ sở đó, mỗi học sinh sẽ rút ra được những bài học, kinh nghiệm cho
bản thân và xác định được động lực phấn đấu.
Từ thực tiễn giảng dạy, nhóm giáo viên Lịch sử trường THPT chuyên Lê Hồng
Phong, tỉnh Nam Định đã tập hợp tài liệu, tiến hành nghiên cứu chuyên đề “Lựa chọn
vấn đề dạy và phương pháp dạy và học cho học sinh giỏi quốc gia nội dung: Mối liên
hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1945”. Chúng tôi hi vọng
rằng, chuyên đề sẽ là một tài liệu hữu ích để các đồng nghiệp, học sinh có thể tham khảo,
học tập. Trong quá trình biên soạn chuyên đề, dù rất cố gắng nhưng vẫn không thể tránh
khỏi khiếm khuyết, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung để chuyên đề hoàn

chỉnh hơn.
2. Cấu trúc chuyên đề.
Chuyên đề “Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp dạy và học cho học sinh
giỏi quốc gia nội dung: Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1919-1945” gồm 3 chương:
Chương I : Tóm tắt kiến thức cơ bản Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 – 1945
Chương II : Mối liên hệ Lịch sử thế giới và Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945
Chương III : Phương pháp dạy – học chuyên đề.

3


PHẦN NỘI DUNG
Chương I : Tóm tắt kiến thức cơ bản Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 – 1945.
1.1. Lịch sử thế giới giai đoạn 1919 - 1945
Phần lịch sử thế giới từ 1919 - 1945 trong sách lịch sử lớp 11 (chương trình nâng
cao) được chia thành 4 chương, tương ứng với các nội dung chính sau:
* Chương VII: Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921 – 1941).
Đầu năm 1917, Nga được coi là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền Chủ nghĩa đế
quốc, là nơi chứa đựng các mâu thuẫn của thời đại. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đẩy
nhân dân Nga vào cảnh bần cùng, giọt nước cuối cùng làm tràn ly. Năm 1917, ở nước
Nga đã diễn ra hai cuộc cách mạng : Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai lật đổ chế độ
quân chủ chuyên chế Nga Hoàng; Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười đánh đổ
chính phủ tư sản, thành lập nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Trải qua những chặng
đường khó khăn, gian khổ với biết bao tổn thất, hi sinh. Nhà nước Xô viết đã được bảo vệ
và từng bước đi lên. Chỉ trong thời gian ngắn, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Liên Xô
đã vươn lên trở thành một cường quốc công nghiệp trên thế giới, có nền văn hóa, khoa

học-kĩ thuật tiên tiến và vị thế quan trọng trên trường quốc tế.
* Chương VIII: Các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Đây là thời kì đánh dấu chủ nghĩa tư bản có nhiều biến động. Chiến tranh thế giới
thứ nhất kết thúc, các nước tư bản đã tổ chức Hội nghị hòa bình ở Véc-xai và Oa-sinh-tơn
để kí kết hòa ước và các hiệp ước phân chia quyền lợi. Một trật tự thế giới mới được thiết
lập, thường được gọi là hệ thống Véc-xai – Oa-sinh-tơn. Chủ nghĩa tư bản không còn là
hệ thống duy nhất trên thế giới và trải qua những bước thăng trầm đầy biến động. Nếu
như trong hơn 10 năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918-1929), từ 1918 – 1923
phần lớn các nước tư bản trừ Mĩ đều lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, biểu
hiện ở sự suy sụp về kinh tế và cao trào cách mạng bùng lên mạnh mẽ ở châu Âu cũng
như nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Trong những năm 1924 -1929,các nước tư bản
từng bước ổn định và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế, thì trong 10 năm sau (19291939) đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng chưa từng có. Để thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng, các nước tư bản Anh, Pháp và điển hình là Mĩ đã thực hiện những cải
cách kinh tế-xã hội để duy trì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong khi đó, các nước

4


Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản đã tiến hành việc phát xít hóa bộ máy nhà nước và gây chiến
tranh xâm lược, dẫn tới sự bùng nổ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
* Chương IX: Các nước châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Phong trào cách mạng thế giới bước sang một thời kì phát triển mới từ sau thắng
lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ở
các nước tư bản châu Âu, một cao trào cách mạng đã bùng nổ trong những năm 19181923. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lan rộng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Ở
nhiều nước, các đảng cộng sản ra đời và nắm vai trò lãnh đạo cách mạng. Nhằm thống
nhất hành động và tập hợp lực lượng cách mạng, Quốc tế cộng sản thành lập và hoạt
động trong những năm 1919-1943. Phong trào cách mạng thế giới trải qua những bước
phát triển chính sau đây:
- Cao trào cách mạng trong những năm 1918-1923; Quốc tế Cộng sản ra đời.
- Phong trào cách mạng những năm khủng hoảng kinh tế (1929-1933).

- Phong trào Mặt trận Nhân dân chống phát xít, chống chiến tranh (1936-1939).
- Cuộc chiến đấu chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
* Chương X: Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, những mâu thuẫn không những không được giải
quyết mà còn làm nảy sinh thêm những mâu thuẫn mới. Sự phát triển không đồng đều,
mâu thuẫn về vấn đề thuộc địa, về ý thức hệ được coi là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
chiến tranh thế giới thứ hai. Sau một thời gian phát triển ổn định, từ năm 1929 -1933, thế
giới diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế. Để thoát khỏi khủng hoảng một số nước như Đức
– Ý – Nhật đã phát xít hóa bộ máy nhà nước, âm mưu gây chiến tranh chia lại thế giới.
Trước nguy cơ đó, Liên Xô chủ trương liên kết với các nước Anh, Pháp, Mĩ để chống
phát xít. Nhưng các nước Anh, Pháp, Mĩ lại thực hiện chính sách trung lập, dung dưỡng
chủ nghĩa phát xít phát triển nhằm đẩy chiến tranh về phía Liên Xô, muốn “mượn dao
giết người” lợi dụng chủ nghĩa phát xít để tiêu diệt Liên Xô. Do không có sự thống nhất
giữa các nước lớn nên Chiến tranh thế giới thứ hai đã bùng nổ. Chiến tranh thế giới thứ
hai (1939-1945) là cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất và tàn phá nặng nề nhất trong
lịch sử nhân loại. Đứng trước thảm họa của chiến tranh, các quốc gia với chế độ chính trị
khác nhau đã cùng phối hợp trong khối Đồng minh chống phát xít. Nhân dân thế giới đã
kiên trì chiến đấu chống trả bọn phát xít xâm lược. Trong đó, cuộc chiến tranh giữ nước
vĩ đại của nhân dân Liên Xô đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tiêu diệt chủ

5


nghĩa phát xít. Chiến tranh kết thúc đã mở ra một thời kí phát triển mới của lịch sử thế
giới.
1.2. Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945
Phần lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1945 trong sách lịch sử lớp 12 (chương trình nâng
cao) được chia thành 2 chương, tương ứng với hai giai đoạn:
* Chương I: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô lớn đã tác động mạnh mẽ đến

kinh tế - xã hội Việt Nam. Sự phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc, trong đó có sự ra đời
của giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản, sự phát triển cả về lượng và chất của giai cấp
công nhân. Sự khác nhau về địa vị và quyền lợi dẫn đến mỗi giai cấp có thái độ chính trị
và khả năng cách mạng khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp.
Trong lúc đó, ảnh hưởng của làn sóng cách mạng mới trên thế giới nhất là ảnh hưởng của
cách mạng tháng Mười Nga dội vào mạnh mẽ, thúc đẩy cách mạng bước sang thời kì
mới.
Những điều kiện kinh tế, xã hội, tư tưởng đã làm nảy sinh hai khuynh hướng chính
trị trong cuộc vận động giải phóng dân tộc ở nước ta những năm 1919 - 1930:
-

Khuynh hướng tư sản: diễn ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản và tầng lớp trí thức

tiểu tư sản: đỉnh cao là sự ra đời tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng năm 1927. Sự thất bại
của khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 đã nói lên sự non yếu của khuynh hướng chính trị tư
sản, đây cũng là mốc đánh dấu sự thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản ở nước ta.
-

Khuynh hướng vô sản: là quá trình phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân.

Đặc biệt là từ khi Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước và tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lê nin về trong nước thông qua hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, phong trào công nhân đã chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Phong trào yêu
nước cũng ngả dần theo khuynh hướng vô sản.
Năm 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời ở Việt Nam chứng tỏ khuynh hướng vô sản
chiếm ưu thế. Những điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi. Với tư cách là phái viên của
Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đứng ra triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức
cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc). Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là sản
phẩm tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và

phong trào yêu nước, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt

6


tình trạng khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo, mở ra khả năng thắng lợi cho cách
mạng về sau.
* Chương II: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) cùng với sự gia
tăng áp bức, bóc lột và “khủng bố trắng” của thực dân Pháp sau khởi nghĩa Yên Bái đã
làm bùng nổ phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
những năm 1930 - 1931, với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh. Mặc dù phong trào này bị kẻ
thù dìm trong máu lửa nhưng nó có ý nghĩa như một cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho
thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong những năm 1932 - 1935, Đảng ta nhờ đường lối đúng đắn, nhờ bắt rễ sâu
vào quần chúng nhân dân nên đã vượt qua cơn khủng bố trắng của kẻ thù để trưởng thành
về chính trị, phát triển về tổ chức để trở thành một lực lượng to lớn của cách mạng Việt
Nam.
Trong bối cảnh những năm 1936 - 1939, khi chủ nghĩa phát xít xuất hiện, đe dọa
hòa bình thế giới, ở nước ta dấy lên phong trào đấu tranh công khai rộng lớn đòi tự do,
dân sinh, dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua phong trào, Đảng ta đã động viên,
giáo dục, xây dựng một đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người gồm cả ở
thành thị và nông thôn. Đồng thời đã bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ cách mạng, xây
dựng được cơ sở Đảng sâu rộng trong quần chúng. Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939
có ý nghĩa như cuộc diễn tập lần thứ hai cho cách mạng tháng Tám.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9/1939), phát xít Nhật vào Đông
Dương (tháng 9/1940), nhân dân Đông Dương sống dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật,
mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt. Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp
lãnh đạo cách mạng. Hội nghị trung ương 8 (tháng 5/1941) đã hoàn chỉnh chủ trương
chuyển hướng chỉ đạo cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,

thành lập mặt trận Việt minh và toàn dân bước vào thời kì chuẩn bị trực tiếp cho khởi
nghĩa vũ trang.
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, Đảng kịp thời phát động cao trào kháng Nhật
cứu nước. Sự phát triển của cao trào này đã tạo ra tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Tháng 8/1945 Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, chính phủ Nhật ở Đông
Dương và tay sai của chúng mất chỗ dựa, hoang mang rệu rã, Đảng kịp thời chớp thời cơ,
phát động nhân dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong toàn quốc. Tổng khởi nghĩa

7


giành thắng lợi trong 15 ngày ( từ 14 đến 28/8). Ngày 2/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Thắng lợi này là kết quả của quá trình chuẩn bị và tập dượt trong 15 năm kể từ
khi Đảng ra đời năm 1930. Nhân dân Việt Nam bước vào một kỉ nguyên mới: độc lập, tự
do, tiến lên CNXH.
Chương II: Mối liên hệ Lịch sử thế giới và Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945
2.1. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô ( 1921 – 1941 ) với Lịch sử Việt Nam
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến việc
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mĩ , giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân
dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới
Nguyễn Ái Quốc - người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc gia
để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Bị thu
hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Luận
cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi còn ở Pháp. Chính từ
trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu
nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường

Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi
theo con đường Cách mạng Tháng Mười - con đường duy nhất đúng đắn - cách mạng
Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Đến với Cách mạng Tháng Mười và
chủ nghĩa xã hội, những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX “tựa như người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Từ “cảm tình” đến niềm tin
khoa học, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đi và chính Người đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi theo con đường của Cách
mạng Tháng Mười. Ngay từ khi Đảng còn hoạt động bí mật, mỗi dịp kỉ niệm Cách mạng
Tháng Mười là một dịp sinh hoạt chính trị sâu rộng trong xã hội, là dịp mở rộng ảnh
hưởng của Đảng trong nhân dân thông qua công tác tuyên truyền sâu rộng, là dịp đấu
tranh chính trị của các chiến sĩ trong nhà tù dưới hình thức tổ chức kỉ niệm… làm cho kẻ
thù rất lo sợ, đối phó.

8


Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng đã khẳng định đường
lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng tháng
Mười Nga, với đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỉ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng
chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng
mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; thắng lợi trong cuộc chiến
đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc
tế cao cả; tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Cách mạng tháng Mười Nga khởi đầu sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và toàn
diện của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam

Cách mạng tháng Mười Nga đã cổ vũ nhân dân ta đứng lên đấu tranh giải phóng
dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam). Cũng từ đó, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Liên Xô
không ngừng củng cố và phát triển. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn, hiệu
quả về nhiều mặt, nhất là trong lĩnh vực củng cố quốc phòng - an ninh của Đảng, Chính
phủ và nhân dân Liên Xô, đó là một nhân tố quốc tế không thể thiếu trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nước.
Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác Lênin, những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu
tranh giành và giữ chính quyền,… được Đảng ta mà trước hết là Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách
mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có
thể khái quát ở một số nét lớn sau:
- Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành công
trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân

9


tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp
công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận
dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì
mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến thành công”. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ
mục tiêu, vai trò và nhiệm vụ của một đảng cách mạng: “Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong

đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực dân.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó,
sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp quay trở
lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ,
cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Đảng ta luôn khẳng định đoàn
kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, cần vận động tập hợp rộng rãi các
tầng lớp nhân dân đứng lên chống thực dân đế quốc, giải phóng dân tộc. Do đó, Người đã
chủ trương “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, “Thành công, thành công, đại thành
công”, với nhiều tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc
tế. Đảng phải chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó tập hợp rộng rãi
các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo,… để huy động sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức
mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng an toàn khu, chiến
khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức và phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính

10


trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần,
tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8/1945. Sức mạnh của quần
chúng có được nhờ phát huy dân chủ rộng rãi, đặc biệt trong điều kiện đã giành được

chính quyền, thông qua cả hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, nhằm tạo cơ
sở xã hội vững chắc cho bảo vệ chính quyền non trẻ.
- Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân
Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân đồng
minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương đã tạo thời cơ để nhân
dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập. Đó là một cuộc cách
mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc Việt Nam; kết quả của nghệ
thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Cách mạng Tháng Tám
thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một
chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười. “Đi theo con đường do
Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã
giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân
dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với
nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”. Những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành
được trong cuộc đấu tranh giành độc lập là nguồn động viên to lớn, mang lại niềm tin
thắng lợi, tác động mạnh mẽ đến nhiều dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên giành độc
lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Những thành quả, đóng góp trong nhiều mặt, đặc biệt là trong việc bảo đảm công
bằng, an sinh xã hội, những giá trị nhân văn, nhân đạo,… mà Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đạt được theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là thực tế không thể phủ
nhận. Nhân dân thế giới thực sự đang được thừa hưởng những giá trị và di sản mà lý
tưởng của Cách mạng Tháng Mười mang lại.
Những bài học kinh nghiệm chủ yếu của Cách mạng tháng Mười Nga về vai trò
lãnh đạo của giai cấp vô sản; về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; về thiết
lập và củng cố khối liên minh công nông; về phương pháp bạo lực cách mạng; về xây
dựng Nhà nước chuyên chính vô sản…đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa lại
những thành công lớn trong quá trình bảo vệ, xây dựng đất nước.

11



2.2. Các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới với Lịch sử Việt Nam.
* Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933
Từ cuối 1929, CNTB thế giới lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có
trong lịch sử của nó. Bắt đầu từ nước Mĩ, cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan ra các
nước tư bản châu Âu rồi bao trùm cả hệ thống thuộc địa. Đây không phải là khủng hoảng
chu kì mà là đại khủng hoảng có thể dẫn đến nguy cơ diệt vong vì nó là cuộc khủng
hoảng cơ cấu của CNTB với sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu do cung vượt
quá xa cầu (khủng hoảng thừa). Vì CNTB chạy đua theo lợi nhuận mà không tuân thủ
quy luật cung - cầu. Nó bắt đầu từ nơi phát triển nhất của CNTB là Mĩ. Sự bần cùng hoá
người lao động dẫn đến sức mua của người dân giảm. Cuộc khủng hoảng lan ra tất cả các
ngành kinh tế và đẩy sức sản xuất của CNTB lùi lại sau khoảng 30 năm.
Từ khủng hoảng kinh tế dẫn đến những hậu quả nặng nề về xã hội và những chấn
động dữ dội về chính trị ở hầu khắp các nước tư bản và thuộc địa. Lạm phát trầm trọng,
hàng chục triệu công nhân thất nghiệp và nông dân phá sản, đời sống của các tầng lớp lao
động điêu đứng, phong trào đấu tranh của nông dân, đình công của công nhân diễn ra
mạnh mẽ. Chỉ trong 15 nước tư bản lớn nhất từ năm 1929 - 1933 đã nổ ra hơn 18000
cuộc bãi công với 8,5 triệu người tham gia.
Cuộc khủng hoảng ở Pháp diễn ra chậm hơn (giữa 1930) nhưng rất trầm trọng: sản
lượng công nghiệp giảm 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5, thu nhập
quốc dân giảm 1/3. Để bù đắp thiệt hại, các nước tư bản đã tìm cách trút gánh nặng lên
vai những nước thuộc địa. Việt Nam là thuộc địa của Pháp vì vậy phải gánh chịu hậu quả
cuộc khủng hoảng kinh tế của Pháp. Chính quyền thực dân Đông Dương đã thi hành một
loạt các biện pháp kinh tế - tài chính: rút vốn đầu tư về các ngân hàng của Pháp, dùng
tiền ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ phá sản,
tăng các thứ thuế cũ, đặt thêm nhiều thuế mới...
Kinh tế Việt Nam vốn hoàn toàn phụ thuộc vào đế quốc Pháp càng phải chịu
những hậu quả nặng nề của khủng hoảng. Trước hết là trong nông nghiệp, giá lúa hạ, diện
tích đất canh tác bỏ hoang nhiều, giá nông phẩm chỉ bằng 2/10 đến 3/10 trước kia. Sản

lượng các ngành công nghiệp đều suy giảm, nhập khẩu đình đốn, hàng hoá khan hiếm,
giá cả đắt đỏ. Đời sống của các tầng lớp giai cấp trong xã hội hầu hết đều bị tác động của
cuộc khủng hoảng. Công nhân thất nghiệp, đồng lương ít ỏi; nông dân mất đất, sưu cao
thuế nặng, bị bần cùng hoá cao độ; các tầng lớp giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân
tộc đời sống gặp nhiều khó khăn. Điều đó đã làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn trong xã
12


hội, nhất là hai mâu thuẫn cơ bản (dân tộc và giai cấp). Đây là nguyên nhân dẫn đến
phong trào cách mạng 1930 - 1931. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân
đặc biệt là công nhân và nông dân đã hăng hái đứng lên đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến. Phong trào phát triển đến đỉnh cao ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại đây,
chính quyền địch ở cấp thôn, xã bị tan rã từng mảng, chính quyền cách mạng được thành
lập dưới hình thức Xô viết. Phong trào được coi như cuộc tập dượt đầu tiên cho cách
mạng tháng Tám.
* Sự ra đời chủ nghĩa phát xít và Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (tháng 7/1935)
Trước cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, các nước tư bản đã lựa chọn những
con đường khác nhau để giải quyết khủng hoảng. Từ đó đã dẫn đến sự phân hóa trong nội
bộ CNTB thành hai khối nước:
- Khối các nước phát xít (Đức, Italia, Nhật): đi theo con đường chủ nghĩa phát xít.
Vì các nước này không có hoặc có rất ít thuộc địa, thiếu vốn, thiếu thị trường, lại hưởng
ít quyền lợi từ trật tự Vecxai - Oasinhton nên bất mãn, lại có truyền thống quân phiệt hiếu
chiến nên chủ trương thoát khỏi khủng hoảng bằng cách phát xít hoá chính quyền, đàn áp
phong trào cách mạng, tiến hành chiến tranh phân chia lại thế giới.
- Khối các nước dân chủ (Mĩ, Anh, Pháp): chọn con đường cải cách kinh tế chính
trị ôn hoà duy trì chế độ cũ. Vì các nước này có nhiều thuộc địa, lại có tiềm lực vốn đủ
khả năng tiến hành cải cách kinh tế xã hội để ổn định tình hình đất nước. Hơn nữa, đây là
những nước thắng trận được hưởng nhiều quyền lợi từ trật tự Vecxai- Oasinhton nên
muốn duy trì trật tự cũ có lợi cho mình.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít là một nguy cơ lớn đối với nhân loại. Lực

lượng phát xít lên cầm quyền đã thiết lập một chế độ độc tài, tàn bạo nhất, sô vanh nhất
đế quốc chủ nghĩa nhất của bọn tư bản tài chính. Phát xít Đức, Italia, Nhật đã ký hiệp ước
liên minh khối "Trục" - tuyên bố chống quốc tế cộng sản, đồng thời ráo riết chạy đua vũ
trang, biến đất nước chúng thành những trại lính và những kho vũ khí khổng lồ, chuẩn bị
phát động một cuộc chiến tranh thế giới mới. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh
thế giới đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh quốc tế. Đó là một nguy cơ đối với toàn
thể loài người.
Tháng 7/1935, đại hội VII của quốc tế cộng sản tại Matxcơva thông qua đường lối đấu
tranh mới. Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân không phải là chủ
nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Đại hội chủ trương thành lập mặt trận

13


nhân dân thế giới nhằm đoàn kết rộng rãi tất cả các lực lượng dân chủ và tiến bộ nhằm
đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, ngăn ngừa nguy cơ "chiến tranh", bảo vệ hòa bình.
Hưởng ứng chủ trương mới của Quốc tế cộng sản, phong trào mặt trận nhân dân
phát triển ở nhiều nước Pháp, Tây Ban Nha, các thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi. Ở Pháp
các thế lực phản động trong tổ chức "thập tự lửa" gồm khoảng 20 ngàn tên có vũ trang,
âm mưu lật đổ nền dân chủ tư sản Pháp hiện có, thiết lập ách độc tài phát xít. Trước tình
hình đó Đảng cộng sản Pháp liên minh với các lực lượng dân chủ tiến bộ thành lập mặt
trận nhân dân Pháp và đấu tranh thắng lợi trong một cuộc tổng tuyển cử vang dội ở Pháp
đầu năm 1936. Chính phủ của mặt trận nhân dân Pháp (do ông Lê Blum đứng đầu) đã
ban hành nhiều chính sách tự do dân chủ. Với các nước thuộc địa, chính phủ Pháp đã có 3
quyết định rất quan trọng: trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, thành lập ủy ban điều tra
tình hình các thuộc địa, và thi hành một số cải cách xã hội.
Do tác động của tình hình nước Pháp, chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam
có một số thay đổi (nới rộng một số quyền tự do dân chủ, thả nhiều tù chính trị, lập uỷ
ban điều tra tình hình thuộc địa, thi hành một số cải cách...) Điều này đã tạo thuận lợi cho
cách mạng, mở ra khả năng đấu tranh công khai đòi tự do, dân chủ. Một số tù chính trị

Việt Nam được thả đã nhanh chóng tìm cách hoạt động trở lại.
Dựa trên tinh thần nghị quyết Đại hội VII của quốc tế III và căn cứ vào tình hình
cụ thế ở Việt Nam, tháng 7/1936, Hội nghị ban chấp hành Trung ương họp tại Thượng
Hải (Trung Quốc) đã đề ra đường lối, phương pháp đấu tranh trong thời kì mới. Hội nghị
xác định mục tiêu trực tiếp trước mắt là chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát
xít, chiến tranh đòi tự do, dân sinh dân chủ cơm áo hoà bình. Phương pháp đấu tranh là
kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Hội nghị chủ
trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
Từ năm 1936 - 1939, Đảng đã phát động phong trào đấu tranh dân chủ công khai.
Đây là một thời kỳ hiếm có ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta, Đảng đã
tận dụng được những điều kiện thuận lợi để phát động 1 phong trào quần chúng rộng lớn
chưa từng thấy, trên quy mô cả nước, ở cả thành thị và nông thôn. Phong trào đã lôi cuốn
đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia, từ quần chúng cơ bản (công nhân & nông dân)
đến các tầng lớp trên (tư sản, tiểu tư sản, địa chủ); từ những lực lượng dân tộc đến cả
những người Pháp có xu hướng chống phát xít ở Đông Dương. Phong trào diễn ra với
những hình thức tổ chức và đấu tranh vô cùng phong phú bao gồm tất cả các loại hình :

14


công khai, bán công khai, hợp pháp, bán hợp pháp kết hợp bí mật, bất hợp pháp. Đặc biệt
hình thức tổ chức vô cùng mềm dẻo, linh hoạt, tạo điều kiện tập hợp rộng rãi quần chúng
nhằm đấu tranh đòi những quyền lợi dân chủ. Phong trào dân chủ 1936 - 1939 đã làm cho
trận địa cách mạng được mở rộng, lực lượng cách mạng được tăng cường. Đó là cuộc
tổng diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám về sau.
2.3. Các nước châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới với Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 -1945.
2.3.1. Những nhân tố chủ quan và khách quan tác động đến phong trào cách mạng ở các
nước châu Á.
Cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và thắng lợi không chỉ có

ý nghĩa trong việc lật đổ chủ nghĩa tư bản ở Nga, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội,
mà còn có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức. Chính vì thế,
nhiều dân tộc đã lựa chọn con đường cách mạng tháng Mười hoặc tiếp nhận ảnh hưởng
của cuộc cách mạng này trong con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù tiếp nhân ảnh
hưởng của Cách mạng tháng Mười trong các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc không giống
nhau nhưng cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ, đã cổ vũ to lớn, ảnh hưởng sâu
sắc tới cuộc đấu tranh của các dân tộc. Cách mạng tháng Mười Nga đa tạo nên bước
ngoặt, đã mở ra một con đường mới cho các dân tộc đi tới độc lập. Từ đây, trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân châu Á, bên cạnh con đường do giai cấp tư sản
dân tộc lãnh đạo sẽ có thêm một con đường mới dẫn các dân tộc thuộc địa đi tới cuộc đấu
tranh giành độc lập triệt để và sâu sắc hơn – con đường cách mạng vô sản.
Hơn nữa, từ năm 1919, cuộc đấu tranh của các dân tộc chống chủ nghĩa thực dân
còn được sự vạch đường, chỉ lối của tổ chức Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ ba). Hệ thống
lí luận về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cũng như sự chỉ đạo thực tiễn của Quốc tế
cộng sản đã có tác động không nhỏ tới sự phát triển thắng lợi của cuộc đấu tranh giành
quyền sống và độc lập dân tộc của các dân tộc châu Á.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc nhưng nó đã để lại hậu quả năng nề cho
nhân dân các dân tộc châu Á. Trong những năm chiến tranh, họ phải cung cấp sức người,
sức của cho bọn thực dân châu Âu. Sau chiến tranh, để bù lại sự tổn thất và thiếu hụt
trong chiến tranh, chúng tăng cường khai thác thuộc địa. Một mặt, nhân dân các nước
thuộc địa vì bị bóc lột nặng nề, không còn con đường sống, đã quyết tâm đứng lên đấu
tranh đòi độc lập dân tộc; mặt khác, chính sách hai thác bóc lột thuộc địa của thực dân, đế

15


quốc đã dẫn tới sự phân hóa giai cấp trong xã hội thuộc địa ngày càng sâu sắc. mở ra một
xu hướng, một con đường mới cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, góp mặt tạo nên
tính đa dạng, phong phú của phong trào giải phóng dân tộc.
Phong trào giải phóng dân tộc sau Cách mạng tháng Mười Nga với những nhân tố

khách quan và chủ quan tác động, thúc đẩy nên có những bước phát triển nhanh chóng.
Tuy nhiên, tùy theo hoàn ảnh, điều kiện khác nhau mà các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc
tiếp thu, vận dụng mô hình con đường thích hợp vào đất nước mình. Chẳng hạn, nhân
dân Việt Nam, Trung Quốc lựa chon con đường, mô hình của cách mạng Nga; Thái Lan
lại lựa chon theo mô hình bảo vệ và xây dựng đất nước của Nhật Bản kết hợp với mô
hình phương Tây. Trong khi đó, các nước Singapore, Philippin và nhiều nước khác lại lựa
chọn mô hình cách mạng của các nước châu Âu, Mĩ. Sự lựa chon con đường và mô hình
đấu tranh khác nhau tùy thuộc phần lớn vào sự trưởng thành của các lực lượng xã hội
trong những thập niên đầu thế kỉ XX.
2.3.2. Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
với Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945
Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, ở châu Á đã diễn ra những
chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị- xã hội. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc,
thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã mở ra một thời kì phát triển mới của
phong trào giải phóng dân tộc châu Á. Ở Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước lớn nhất ở châu
Á, phong trào giải phóng dân tộc bước sang một thời kì phát triển mới.
Ở Trung Quốc, phong trào Ngũ Tứ (4-5-1919) đã mở đầu cho cuộc cách mạng dân
chủ tư sản kiểu mới, tiếp diễn trong suốt 30 năm và kết thúc vào năm 1949. Phong trào
Ngũ tứ đã thúc đẩy phong trào công nhân phát triển, tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác –
Lênin được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc và các nhóm cộng sản xuất hiện. Trên cơ sở
các nhóm này, Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập tháng 7-1921, đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trong phong trào công nhân và công cuộc giải phóng dân tộc của nhân
dân Trung Quốc. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như sự phát triển của
phong trào cách mạng Trung Quốc, đã tạo điều kiện cho những người yêu nước Việt
Nam có thể đứng chân, gây dựng, chỉ đạo phong trào trong nước và chuẩn bị mọi mặt cho
sự thành lập Đảng vô sản để lãnh đạo cách mạng. Những năm tiếp theo, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, nhân dân Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng
nhằm đánh đổ các tập đoàn quân phiệt Bắc Dương (1926 – 1927). Sau chiến tranh Bắc

16



phạt là thời kì nội chiến Quốc – Cộng, kéo dài 10 năm cho đến khi phát xít Nhật mở rộng
xâm lược ra toàn lãnh thổ Trung Quốc.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống thức dân Anh dâng
cao mạnh mẽ ở Ấn Độ. Sự xuất hiện của M.Gan-đi cùng đường lối đấu tranh bất bạo
động, bất hợp tác của ông đã tạo ra bước ngoặt vô cùng quan trong cho cách mạng Ấn
Độ. Phong trào lên cao sôi nổi, trải qua các chiến dịch bất hợp tác với thực dân Anh do
Đảng Quốc Đại và M.Gan-đi khởi xướng. Trong các phong trào nói trên, M.Gan-đi đã áp
dụng biện pháp biểu tình hòa bình, bãi công ở các nhà máy công sở, tẩy chay hàng hóa
Anh, chống việc độc quyền muối, không nộp thuế... Phong trào đã lôi cuốn đông đảo các
tầng lớp nhân dân tham gia và trên thực tế đã liên kết được tất cả các lực lượng chính trị
thành một mặt trận thống nhất. Sự phát triển của phong trào công nhân Ấn Độ đã dẫn tới
sự thành lập Đảng Cộng sản tháng 12 – 1925. Sự kiện này góp phần thúc đẩy làn sóng
đấu tranh chống thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ. Tuy vậy, Đảng Cộng sản Ấn Độ
chưa đủ điều kiện và sức mạnh để nắm quyền lãnh đạo phong trào cách mạng. Trong
những điều kiện lịch sử, hoàn cảnh xã hội, văn hóa, tôn giáo của Ấn Độ, chủ nghĩa M.
Gan-đi và con đường đấu tranh bất bạo động của ông đã tập hợp được đông đảo quần
chúng và đưa cách mạng Ấn Độ đi đến thắng lợi. Từ sự phát triển của phong trào dân tộc
ở Ấn Độ (1918 – 1939) đã tác động và để lại cho cách mạng Việt Nam bài học vô cùng
quý giá là phải kiên trì con đường đấu tranh đã chọn.
2.3.3. Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới với Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1919 – 1945.
Đây là thời kì diễn ra những chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị - xã hội ở
các nước Đông Nam Á. Trong thời gian này, các nước Đông Nam Á, trừ Xiêm (Thái Lan)
đều trở thành thuộc địa, nửa thuộc địa của các nước thực dân phương Tây (Anh, Pháp,
Mĩ, Thái Lan). Về danh nghĩa, Xiêm là nước độc lập, nhưng trên thực tế vẫn phải chịu sự
khống chế kép của Anh và Pháp thông qua các hiệp ước bất bình đẳng kí với hai nước
này. Về kinh tế, Đông Nam Á cũng bị “nhập hội” một cách cưỡng bức vào hệ thống kinh
tế TBCN thế giới với tư cách là thị trường tiêu thụ hàng hóa và nơi cung cấp nguyên liệu

thô cho CNTB. Bên cạnh đó là những chuyển biến cơ bản về tình hình chính trị, cơ cấu
giai cấp và xã hội. Cùng với những chuyển biến trong nước, thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga và cao trào cách mạng thế giới đã tác động mạnh mẽ đến phong trào độc
lập dân tộc ở Đông Nam Á.

17


Những điểm mới của phong trào giải phóng dân tộc trong thời kì giữa hai cuộc
chiến tranh thế giới (1918 – 1939) của các nước Đông Nam Á là sự phát triển của phong
trào dân tộc tư sản với những bước tiến mới về tổ chức và mục tiêu đấu tranh với sự lớn
mạnh của giai cấp tư sản dân tộc, sự xuất hiện một xu hướng mới – xu hướng vô sản với
sự ra đời của hàng loạt các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Cùng với
sự thức tỉnh của các dân tộc bị áp bức dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười, trong
thập kỉ 20 của thế kỉ XX, bằng nhiều con đường khác nhau, chủ nghĩa Mác – Lênin đã
đến với nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. Trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, hàng lợt các Đảng Cộng sản đã
thành lập. Ở châu Á, Đảng Cộng sản Inđônêxia ra đời sớm nhất (5-1920) được xem là sự
kiện tiêu biểu , đánh dấu xu hướng vô sản xuất hiện sớm nhất ở khu vực các nước thuộc
địa. Tiếp sau là sự ra đời nối tiếp của Đảng Cộng sản Trung Quốc (7-1921), Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930), Đảng cộng sản Mã Lai (1930), Đảng cộng sản Xiêm (1930)…Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phong trào độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi, quyết liệt, nổi
bật là cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Inđônêxia (1926 – 1927) và phong trào cách mạng 1930
– 1931 ở Việt Nam, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh ở Việt Nam, từ tháng 2 – 1930
quyền lãnh đạo cách mạng thuộc về chính đảng của giai cấp vô sản. Với sự ra đời của các
Đảng Cộng sản, giai cấp vô sản đã khẳng định được vai trò của mình như một lực lượng
chính trị độc lập. Thông qua các chính đảng của mình, giai cấp vô sản đã tích cực tham
gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và ở một số nước họ đã đóng vai trò là người
lãnh đạo phong trào như đảng Cộng sản Inđônêxia trong thập niên 20 của thế kỉ XX… Từ
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc đã xuất hiện những nhà nước Xô viết Những

chính quyền xô viết được thành lập: ở Quảng Châu (Trung Quốc), ở Giava và Xumatra
(Inđônêxia) và ở Nghệ - Tĩnh (Việt Nam), mặc dù sau đó thất bại nhưng đó chỉ là sự thất
bại mang tính tạm thời. Đây được xem là những cuộc tập dược cho quần chúng cách
mạng để đưa họ vài cuộc đấu tranh ở giai đoạn sau cao hơn, giành thắng lợi lớn hơn.
Một trong những nét nổi bật giữa các nước Đông Nam Á với Việt Nam là liên
minh chiến đấu chống thực dân Pháp của nhân dân ba nước Đông Dương. Sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc địa, nhất là ở các nước
Dông Dương vốn được coi là quan trọng và giàu có nhất trong hệ thống thuộc địa của
Pháp. Chính sách khai thác tàn bạo, chế độ thuế khóa, lao dịch nặng nề đã làm bùng nổ
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở Đông Dương.

18


Ở Lào, trong những năm 1918-1922, cuộc khởi nghĩa của người Mèo do Chậu Pachay lãnh đạo diễn ra ở Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời (tháng 10-1930, đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương) đã mở ra thời kì
mới của phong trào cách mạng Đông Dương. Nhưng cơ sở bí mật đầu tiên của Đảng đã
được thành lập ở Lào và Campuchia. Tuy nhiên, thực dân Pháp sau khi đàn áp được
phong trào cách mạng 1930 – 1931 ở Việt Nam đã tập trung lực lượng, đàn áp dã man
những người cộng sản, phá vỡ cơ sở cách mạng ở hai nước này.
Trong những năm 1936-1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã tập
hợp đông đảo nhân dân tham gia đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và
chống chiến tranh. Trong điều kiện đó, một số cơ sở cách mạng của Đảng Cộng sản Đông
Dương đã được xây dựng và củng cố ở Viêng Chăn, Phnôm Pênh… Cuộc vận động dân
chủ đã kích thích sự phát triển của phong trào đấu tranh dân chủ ở Là và Campuchia cho
đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Như vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân châu Á nói chung, nhân dân Đông Nam Á
nói riêng trong giai đoạn này nhìn chung chưa thành công nhưng được xem là những
cuộc tập dượt, chuẩn bị cho những thắng lợi ở giai đoạn sau.
2.4. Chiến tranh thế giới thứ hai với Lịch sử Việt Nam.

2.4.1. Tác động của Chiến tranh thế giới thứ hai đến Việt Nam.
Ngay từ khi Đảng mới ra đời đã nhận thấy cách mạng Việt Nam là một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới, đồng thời thấy rõ mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa
cách mạng Việt Nam và cuộc cách mạng chung của toàn nhân loại, sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại. Vì thế, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng đã quy tụ,
đoàn kết tất cả các giai cấp, tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngày 1/ 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, kéo theo một loạt các quốc
gia vào vòng xoáy của cuộc chiến tranh, đặt giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn thể nhân loại trước yêu cầu cấp bách là giải phóng các dân tộc thoát khỏi ách nô dịch
của phát xít Đức – Italia - Nhật Bản. Ở Đông Dương, đế quốc Pháp thẳng tay đàn áp cách
mạng, tấn công Đảng và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo, tước mọi quyền tự

19


do, dân chủ mà nhân dân ta giành được trong phong trào 1936 – 1939. Lợi dụng phát xít
Đức đánh bại Pháp, Pháp đầu hàng không điều kiện ( tháng 6/1940 ) , Nhật Bản liền triển
khai kế hoạch xâm lược Đông Dương. Sau nhiều lần gây sức ép với chính quyền thuộc
địa Pháp, ngày 22/ 9/1940, quân Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp nhanh chóng đầu
hàng, Pháp - Nhật câu kết bóc lột nhân dân Việt Nam, đặt nhân dân vào cảnh “một cổ hai
tròng”.
Trước tình hình ấy , Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 họp tại Bà Điểm
( Hóc Môn – Gia Định ) đề ra chủ trương chuyển hướng quan trọng về đường lối và
phương pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh dân chủ, dân sinh sang trực tiếp đánh đổ
chính quyền đế quốc phát xít ( Pháp - Nhật ) và tay sai của chúng, tạm gác khẩu hiệu
cách mạng ruộng đất, quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương nhằm tập hợp rộng rãi đông đảo nhân dân
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù.
Sau khi Nhật tiến công Lạng Sơn, tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 đã

họp và xác định : “ Trong lúc này, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc
chủ nghĩa Pháp - Nhật”. Hội nghị quyết định đổi Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương thành Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật ở Đông
Dương và khẳng định sẽ tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Thành công của Hội nghị là đã xác định kịp thời kẻ thù chính của cách mạng lúc
này là phát xít Pháp - Nhật và dùng hình thức vũ trang khởi nghĩa để đưa cách mạng đến
thắng lợi. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 và tháng
11/1940, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới.
Từ tháng 9/1940 ngay sau khi quân Nhật đánh vào Lạng Sơn đến tháng 1/1941 đã liên
tiếp nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa như Bắc Sơn ( 9/1940 ) , Nam Kì (11/1940 ), Đô Lương
(1/1941) báo hiệu một thời kì mới của cách mạng Việt Nam : thời kì toàn dân nổi dậy
cầm vũ khí đánh đổ đế quốc phát xít và tay sai, giành độc lập, tự do. Tình hình cách
mạng đòi hỏi Đảng ta phải chỉ đạo sát sao, nhạy bén và trực tiếp hơn.
Giữa lúc tình hình trong nước đang sôi sục thì trên thế giới lúc này, Đức tấn công
Liên Xô làm cho tính chất cuộc chiến tranh thay đổi từ cuộc chiến tranh đế quốc sang
cuộc chiến tranh vệ quốc. Chiến tranh thế giới thứ hai chia làm 2 trận tuyến : một bên là
lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu và một bên là khối phát xít Đức – Italia - Nhật
Bản. Trước tình hình thế giới và trong nước chuyển biến mau lẹ ngày 28/1/1941, Nguyễn

20


Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đây là sự kiện lịch sử vĩ đại, có tầm quan
trọng đặc biệt đối với thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Người chủ
trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Pó ( Cao Bằng ) từ ngày
10 đến ngày 19/5/1941. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng
là giải phóng dân tộc, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu cao khẩu hiệu giảm
tô, giảm thuế, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương và quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ( gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ), tổ chức

lực lượng vũ trang huấn luyện quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng, chủ trương con
đường khởi nghĩa vũ trang từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, cách mạng Đông Dương nói chung và cách
mạng Việt Nam nói riêng có nhiều chuyển biến. Ngày 19/5/1941, Việt Nam độc lập đồng
minh ( gọi tắt là Việt Minh ) ra đời. Cuối năm 1941, đầu năm 1942 các hội Cứu quốc của
mặt trận Việt Minh đã được tổ chức tại nhiều địa phương trong cả nước.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa chuyển sang
xây dựng thành các đội du kích rồi thống nhất lại thành các đội Cứu quốc quân. Trong
những năm 1943 – 1944, nhiều khu căn cứ cách mạng đã được xây dựng và củng cố ở
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh,
đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập dưới sự chỉ huy của đồng chí
Võ Nguyên Giáp. Sau thắng lợi của đội tại Phay Khắt và Nà Ngần ( Cao Bằng ), các đội
vũ trang tuyên truyền và tự vệ chiến đấu phát triển mạnh, chiến tranh du kích lan rộng ra
khắp các tỉnh miền núi phía Bắc.
Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béc-lin – sào huyệt cuối
cùng của phát xít Đức - một loạt các nước châu Âu được giải phóng.
Ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân đồng minh giáng cho quân Nhật những
đòn nặng nề.
Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ
phản công quân Nhật. Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng trở nên gay gắt. Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc dự đoán sau chiến thắng của quân đồng minh, sẽ có sự giải giáp quân
Nhật, Pháp trở lại Đông Dương sau khi quân Nhật đầu hàng. Cuộc tổng khởi nghĩa phải
được nổ ra giữa thời điểm Nhật đầu hàng, thực dân Pháp chưa kịp quay lại, quân đồng

21


minh chưa kịp đến. Dự báo thiên tài ấy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chủ trương sau này
của Đảng gần như khớp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngay trong đêm 9/3, Ban thường vụ trung

ương Đảng họp dưới chủ trì của Tổng bí thư Trường Chinh, chủ trương phát động một
cao trào kháng Nhật cứu nước trên toàn quốc. Ngày 12/3/1945 , ban thường vụ trung
ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị ấy là
lời hiệu triệu cùng khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói” như một luồng gió mạnh
thổi bùng ngọn lửa cách mạng, tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.
Ngày 30/4/1945, lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô tung bay trên nóc tòa
nhà Quốc hội Đức. Ngày 9/5/1945, Đức kí biên bản đầu hàng vô điều kiện. Ngày
8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, chỉ trong một tuần quân đội Xô viết đã
tiêu hơn một triệu quân Quan đông ở Đông Bắc Trung Quốc, buộc Nhật đầu hàng không
điều kiện.
Nắm thời cơ cách mạng, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào ( từ ngày 13
đến ngày 15/8/1945 ) đã kêu gọi toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước. Từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào. Đại
hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt
Minh, cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Ngay sau đó, chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến đồng bào cả nước.
Đáp ứng lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào
cả nước với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta” đã đồng loạt đứng lên giành
chính quyền trong 15 ngày ( từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945 ) . Chỉ trong vòng 13 ngày,
cách mạng tháng Tám đã thành công trong cả nước. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba
Đình, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập. Cách
mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, chấm dứt sự thống trị
gần trăm năm của thực dân và ngàn năm của phong kiến, thiết lập nền dân chủ cộng hòa.
Dân tộc Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi này còn góp phần cùng nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh chống phát xít
vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi cách mạng tháng Tám chính là sự kết hợp thành công giữa chuẩn bị nội
lực và đón bắt thời cơ. Trong đó, Đảng lãnh đạo giữ vai trò quyết định, Đảng không chỉ
có đường lối đúng, phương pháp cách mạng khoa học, biết phát động sức mạnh của toàn


22


dân mà còn chuẩn bị đầy đủ các nhân tố bảo đảm thắng lợi. Đây là thời kì động viên quần
chúng sâu rộng, sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển các lực lượng chính trị, vũ trang chuẩn bị
mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa. Phải dày công chuẩn bị lực lượng mới giành được thắng
lợi trong thời cơ chín muồi, thời cơ nhân lên lực lượng, nhân lên sức mạnh tổng hợp.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt
đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào
cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công
nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam phải kể đến công lao to
lớn của Bác và của Đảng.
Công lao đầu tiên phải kể đến đó là Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta bị áp bức, đói khổ vì vậy
độc lập tự do đã trở thành khát vọng của toàn dân tộc. Qua thực tế lao động và học tập,
Người nhận thấy ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, ở đâu những người lao động
cũng bị áp bức, bóc lột dã man.
Tháng 7/1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Bản luận cương đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định :
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu của Đảng xã hội Pháp
tại Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và
thành lập Đảng cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên
Đảng cộng sản đồng thời là một trong những người tham gia Đảng cộng sản Pháp.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc trở thành chiến sĩ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam đồng thời
cũng là người tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Kể từ đây, Nguyễn Ái
Quốc tích cực học tập, nghiên cứu lí luận cách mạng dân tộc thuộc địa theo con đường
cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lenin để truyền bá về Việt Nam.
Sau khi đã tìm thấy được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc đã nhận thức được vài trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Từ đó, Người đã tích cực

chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức để tiến tới thành lập một chính Đảng cộng sản ở
nước ta
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mac – Lênin vào nước ta thông qua các sách báo như tờ
Nhân đạo, Người cùng khổ, Đường cách mệnh.
+ Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ( 6/1925 ).

23


Với thiên tài và uy tín, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 tổ chức Cộng sản thành một
chính đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc cũng đề ra đường lối cơ
bản cho cách mạng Việt Nam, vạch ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đó chính là
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
Với việc sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, một chính đảng có hệ thống tổ chức chặt
chẽ và Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc có vai trò quyết định trong việc
chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Bên cạnh đó, với tư duy chiến lược sắc sảo, nhạy bén, Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết
thành công vấn đề giải phóng dân tộc. Với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú,
Đảng và Bác đã nắm chắc thời cơ cách mạng kịp thời đề ra chủ trương, kế hoạch tổng khởi
nghĩa, động viên sự đoàn kết, nhất trí của toàn dân tộc để giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam là một trong những
thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh
đạo sáng suốt, đúng đắn và công lao to lớn của Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.4.2. Vị trí của Việt Nam trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Chủ nghĩa phát xít đã gây cho nhân loại những đau thương chưa từng có trong lịch
sử mà điển hình là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai do phát xít Đức – Italia - Nhật Bản
phát động. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia, dân tộc khác trên thế giới chịu hậu quả
nặng nề của chính sách áp bức, bóc lột do chủ nghĩa phát xít gây ra.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống chủ
nghĩa phát xít và chiến tranh phát xít diễn ra quyết liệt. Trong thời gian diễn ra chiến

tranh thế giới thứ hai, Đảng xác định rõ : Chủ nghĩa phát xít và đứng sau nó là chủ nghĩa
đế quốc sẽ tấn công nhằm tiêu diệt Liên Xô – thành trì của chủ nghĩa xã hội. Do đó, một
trong những nhiệm vụ quan trọng của những người cộng sản và nhân dân Đông Dương là
phải ủng hộ Liên bang Xô viết trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đến giữa năm 1941, cùng với chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, Đảng chủ trương đề cao khẩu hiệu “Ủng hộ Liên
bang Xô viết” và việc ủng hộ Liên Xô càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trong
Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939, Đảng nêu rõ “Phong trào nhân dân giải phóng
ở các nước tư bản và phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa trong giờ nghiêm trọng
này cần phải cùng Liên Xô kết thành một mặt trận chống đế quốc chiến tranh, chống đế
quốc chủ nghĩa toàn thế giới”. Lúc này “Cuộc đấu tranh chống phát xít của Liên Xô là

24


cuộc đấu tranh chung của các dân tộc Đông Dương”. Chủ trương ủng hộ Liên bang Xô
Viết ngày càng được mở rộng. Từ năm 1930 đến Hội nghị trung ương Đảng tháng
11/1939, khẩu hiệu được nêu ra là “Ủng hộ chính sách hòa bình của Liên Xô” nhưng từ
Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1940 được mở rộng và nâng lên thành “Liên minh
với liên bang Xô viết và ủng hộ Liên bang Xô viết” . Ngày 22/6/1941, phát xít Đức tấn
công Liên Xô. Tính chất của cuộc chiến tranh thế giới đã thay đổi. Cuộc chiến tranh vệ
quốc của nhân dân Liên Xô bắt đầu và từ cuối năm 1942, quân đội Liên Xô chuyển sang
phản công, liên minh thế giới chống phát xít được thiết lập. Tháng 9/1940, Nhật vào
Đông Dương, Pháp - Nhật câu kết bóc lột nhân dân, mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông
Dương với Pháp - Nhật ngày càng trở nên gay gắt, vận mệnh dân tộc nguy nan không lúc
nào bằng. Trước tình hình đó, Đảng luôn xác định cuộc đấu tranh chống phát xít của Liên
Xô là cuộc đấu tranh chung của các dân tộc Đông Dương. Vì thế, ở Đông Dương, cuộc
đấu tranh chống phát xít Nhật là một bộ phận của cuộc đấu tranh của Liên Xô chống lại
phát xít trên thế giới.
Từ khi thành lập cho đến những năm đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, Đảng luôn đánh

giá cao vai trò, vị trí của Liên Xô đối với cách mạng thế giới nói chung và đối với cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít nói riêng. Đảng và nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng,
bảo vệ và ủng hộ Liên Xô ngay trong chủ trương, đường lối, hành động cách mạng. Đảng
và nhân dân Việt Nam coi việc ủng hộ Liên Xô là trách nhiệm của mình và với tinh thần
quốc tế vô sản, tinh thần yêu chuộng hòa bình, Việt Nam đã làm hết sức mình, thậm chí
hi sinh cả xương máu để “Ủng hộ Liên bang Xô viết” trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói chung và trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít nói riêng.
Cùng với việc ủng hộ Liên bang Xô viết chống chủ nghĩa phát xít, nhân dân Việt
Nam còn trực tiếp tham gia cùng lực lượng đồng minh chống chiến tranh phát xít. Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ nền hòa bình của nhân dân Liên Xô, có hàng chục chiến sĩ Việt
Nam tham gia vào lực lượng Hồng quân trực tiếp chiến đấu chống phát xít Đức trên đất
nước Xô viết.
Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân Việt Nam còn trực tiếp
đấu tranh chống phát xít Nhật giành độc lập dân tộc. Lợi dụng phát xít Đức đánh bại
Pháp, Pháp đầu hàng không điều kiện, Nhật Bản liền triển khai kế hoạch xâm lược Đông
Dương. Sau nhiều lần gây sức ép với chính quyền thuộc địa Pháp, ngày 22/9/1940, quân
Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp đầu hàng. Từ đây nhân dân Việt Nam “một cổ hai

25


×