Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su05

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.75 KB, 60 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................3
I. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................3
II. Mục đích của đề tài.................................................................................................4
B. PHẦN NỘI DUNG................................................................................................5
Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ LỊCH SỬ VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945.................................................................................5
1.1. Mối quan hệ giữa LSTG và LSVN trong quá trình dạy học lịch sử...............5
1.2. Nội dung cơ bản của chương trình LSTG hiện đại và LSVN từ 1919 - 1945
..................................................................................................................................... 6
1.2.1 Nội dung cơ bản của chương trình LSTG từ 1919 - 1945..............................6
1.2.2. Nội dung cơ bản của chương trình LSTG từ 1919 - 1945.............................7
1.2. Những nội dung kiến thức cơ bản về LSTG hiện đại cần được vận dụng trong
dạy học LSVN giai đoạn 1919 - 1945........................................................................10
1.3. Bảng tổng hợp các kiến thức LSTG cần được vận dụng khi dạy học LSVN
giai đoạn 1919 - 1945.................................................................................................16
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP VẬN DỤNG MỐI LIÊN HỆ GIỮA KIẾN THỨC
LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ KIẾN THỨC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919
ĐẾN NĂM 1945 TRONG ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI CÁC CẤP Ở TRƯỜNG
THPT.......................................................................................................................... 25
2.1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc khi vận dụng mối liên hệ giữa kiến thức
LSTG và kiến thức LSVN từ năm 1919 đến năm 1945 trong ôn luyện học sinh
giỏi các cấp ở trường THPT......................................................................................25
2.2. Biện pháp vận dụng mối liên hệ giữa kiến thức LSTG và kiến thức LSVN từ
năm 1919 đến năm 1945 trong ôn luyện học sinh giỏi các cấp ở trường THPT....26
2.2.1. Lồng ghép/liên hệ kiến thức LSTG trong dạy học LSVN giai đoạn 1919 1945 giúp học sinh hiểu hơn nội dung trọng tâm của bài học................................26
2.2.1.1. Sử dụng tư liệu LSTG kết hợp với câu hỏi nhận thức trong dạy học LSVN giai
đoạn
1919
1945
.....................................................................................................................................
26


2.2.1.2. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với câu hỏi nhận thức trong dạy học LSVN
giai
đoạn
1919
1945
.....................................................................................................................................
28
2.2.1.3. Sử dụng hướng dạy học nêu vấn đề trong dạy học LSVN giai đoạn 1919 1945 để giải quyết các tình huống có vấn đề thể hiện mối liên hệ giữa LSTG và LSVN
.....................................................................................................................................
29
2.2.1.4. Sử phương pháp tranh luận giúp học sinh vận dụng những kiến thức LSTG
trong quá trình học tập, nghiên cứu nội dung LSVN giai đoạn 1919 - 1945
.....................................................................................................................................
31
2.2.2. Xây dựng các chủ đề tích hợp nội môn về mối liên hệ giữa LSTG và LSVN
giai đoạn 1919 - 1945.................................................................................................32
2.2.3. Một số bài tập cơ bản để củng cố và ôn tập kiến thức cho học sinh trong
quá trình dạy học LSVN giai đoạn 1919 - 1945.......................................................34
C. PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................50
1. Kết luận...................................................................................................................50
1


2. Kiến nghị................................................................................................................. 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................52
PHỤ LỤC................................................................................................................... 53

2



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Viết đầy đủ

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

LS

: Lịch sử

LSTG

: Lịch sử thế giới

LSVN

: Lịch sử Việt Nam

SGK

: Sách giáo khoa

THPT


: Trung học phổ thông

3


Chuyên đề
MỐI LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945 VÀ VIỆC VẬN DỤNG CHUYÊN ĐỀ TRONG
ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI CÁC CẤP MÔN LỊCH SỬ
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Lịch sử xã hội loài người là một quá trình thống nhất, hợp quy luật; đầy mâu
thuẫn và đa dạng. Trong quá trình phát triển này mỗi quốc gia dân tộc đều có những
đóng góp nhất định. Cũng trong những chặng đường lịch sử chung của xã hội loài
người, các dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngay trong thời công xã nguyên
thủy đã hình thành những mối quan hệ giữa các cộng đồng người trong một phạm vi
nhỏ nhất định. Cùng với sự phát triển của lịch sử, phạm vi liên hệ, quan hệ các dân tộc,
quốc gia được mở rộng và đến thời cận đại, trong khi mở rộng việc buôn bán, đẩy
mạnh việc xâm chiếm thuộc địa, giai cấp tư sản, bọn thực dân phương Tây đã “kéo
dịch” các châu lục lại gần nhau. Mối quan hệ thế giới được mở rộng và thường xuyên.
Ngày nay, “toàn cầu hóa”, “thế giới hóa” trở thành xu thế chung trong sự nghiệp phát
triển và quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc.
Vì vậy, trong quá trình học tập lịch sử, chúng ta không thể giới hạn trong việc
cung cấp kiến thức về lịch sử dân tộc mà không biết các kiến thức lịch sử các dân tộc
khác; hoặc việc học tập lịch sử thế giới chỉ nhằm mục đích cung cấp cho học sinh một
khối lượng kiến thức về lịch sử các quốc gia cộng lại, chủ yếu là lịch sử của các nước
lớn mà không có biểu tượng chung về con đường phát triển của xã hội loài người. Cần
phải thấy rõ ràng, lịch sử của mỗi dân tộc là một bộ phận của lịch sử thế giới, nó vừa
thể hiện những quy luật chung của lịch sử loài người, vừa nêu lên những quy luật

riêng, đặc thù của dân tộc. Cho nên khi học lịch sử dân tộc phải thấy cái chung và cái
riêng trong sự phát triển của dân tộc mình. Do vậy, trong chương trình lịch sử ở trường
phổ thông ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức về lịch sử dân tộc và lịch
sử thế giới, giáo viên cũng cần chú trọng đến việc làm rõ mối liên hệ giữa kiến thức
lịch sử thế giới và kiến thức lịch sử Việt Nam để giúp HS nhận thức rõ hơn về bối
cảnh, những tác động của tình hình thế giới đến tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc
và có được những cơ sở quan trọng để rút ra được những nhận xét, đánh giá về những
đóng góp của lịch sử dân tộc đối với tiến trình phát triển của nhân loại, cũng như
những nét đặc trưng trong quá trình hình thành phát triển của lịch sử Việt Nam trong
dòng chảy chung của lịch sử thế giới.
LSVN từ 1919 - 1945 là là giai đoạn phản ánh quá trình vận động cho sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1 – 7-2-1930) và quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam
(Đảng Cộng sản Đông Dương) lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi Cách mạng tháng
Tám (1945), khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công - nông đầu
tiên ở Đông Nam Á. Trong chặng đường phát triển này của LSVN chịu sự tác động sâu
sắc của những sự kiện LSTG diễn ra trong từng thời kì như: thắng lợi của Cách mạng
tháng mười Nga, sự thành lập của Quốc tế Cộng sản, khủng hoảng kinh tế thế giới 1929
- 1933, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai 1939 - 1945… Vì vậy, trong quá trình dạy
học việc liên hệ, lồng ghép những kiến thức LSTG này để giúp HS nắm rõ những nội
dung kiến thức trọng tâm của bài học là hết sức cần thiết. Đặc biệt đối với việc ôn luyện
4


học sinh giỏi các cấp. Đây là hoạt động học tập bổ ích, giúp các em có điều kiện được
phát huy những kiến thức đã học để giải quyết tốt những nhiệm vụ học tập mang tính
khái quát, tổng hợp cao, từ đó rút ra được những kết luận chính xác về đặc điểm phát
triển của cách mạng Việt Nam qua hai giai đoạn lịch sử từ 1919 - 1929, 1930 - 1945.
Tuy nhiên, hiện nay việc giải quyết những vấn đề liên quan đến mối liên hệ giữa
lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945 trong ôn luyện học
sinh giỏi các cấp ở trường THPT vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Phần lớn chỉ mới

dừng lại ở việc liệt kê những sự kiện LSTG có liên quan đến một số nội dung kiến
thức LSVN trong từng bài học. Việc xây dựng những bài tập mang tính chất liên hệ,
thể hiện mối quan hệ giữa LSVN và LSTG; việc đi vào phân tích, lồng ghép những
kiến thức LSTG vào nội dung bài học về giai đoạn LSVN từ 1919 - 1945 vẫn còn
nhiều hạn chế.
Xuất phát từ những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi đã tập
hợp tài liệu, tiến hành nghiên cứu chuyên đề “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với
lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945 và việc vận dụng chuyên đề trong ôn
luyện học sinh giỏi các cấp môn lịch sử”. Chúng tôi hi vọng rằng, chuyên đề sẽ là
một tài liệu hữu ích để các đồng nghiệp, học sinh có thể tham khảo, học tập. Trong quá
trình biên soạn chuyên đề, dù rất cố gắng nhưng vẫn không thể tránh khỏi khiếm
khuyết, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung để chuyên đề hoàn chỉnh hơn.
II. Mục đích của đề tài
Chuyên đề nghiên cứu nhằm xác định được các nội dung kiến thức LSTG có
mối liên hệ cần được liên hệ, vận dụng vào quá trình dạy học LSVN giai đoạn 1919 1945, từ đó đề xuất các nguyên tắc, biện pháp, con đường để vận dụng mối liên hệ
giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945 và việc vận dụng
chuyên đề trong ôn luyện học sinh giỏi các cấp môn lịch sử; góp phần nâng cao hiệu
quả bài học LS đặc biệt là bồi dưỡng HS giỏi ở các trường phổ thông; đáp ứng được
những yêu cầu cấp thiết của quá trình toàn cầu hóa hiện nay.

5


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ LỊCH SỬ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1919 - 1945
LSVN là một bộ phận khắng khít của LSTG, mỗi diễn tiến trong quá trình phát
triển của LSVN đều ít nhiều có mối quan hệ mật thiết với những chuyển biến lớn trong
quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Vì vậy, trong quá trình dạy học LSVN ở

trường phổ thông giáo viên cần chú trọng đến việc liên hệ những kiến thức LSTG có
liên quan để giúp HS vừa nhận thức được rõ hơn về bối cảnh chung mà các sự kiện
lịch sử diễn ra, vừa đưa ra được những nhận định, đánh giá về những đóng góp của LS
dân tộc đối với LSTG, về sự phát triển hợp quy luật hay không của LSVN trong dòng
chảy chung của LSTG.
1.1. Mối quan hệ giữa LSTG và LSVN trong quá trình dạy học lịch sử
Lịch sử Việt Nam là hình ảnh thu nhỏ, một bộ phận của lịch sử thế giới, nhưng
có nét riêng biệt đa dạng và phong phú của mình và đóng góp vào sự phát triển của
lịch sử thế giới. Qua việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt
Nam và ngược lại, chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa lịch sử thế giới và lịch
sử Việt Nam ngay từ thời cổ đại và ngày càng được thiết lập chặt chẽ, đặc biệt từ sau
thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đến nay. Qua đó hiểu sâu sắc
rằng trong vận động lịch sử, dân tộc Việt Nam là một bộ phận của cộng đồng thế giới
chịu ảnh hưởng, tác động của tình hình thế giới. Mỗi bước phát triển của lịch sử Việt
Nam không tách khỏi sự phát triển của lịch sử thế giới. Nhưng trong quá trình đấu
tranh giành độc lập và xây dựng kinh tế, nhân dân Việt Nam cũng đóng góp vào quá
trình phát triển của lịch sử nhân loại. Việt Nam là một bộ phận của lịch sử thế giới nên
ảnh hưởng của các sự kiện lịch sử thế giới đến sự phát triển của lịch sử Việt Nam đều
thể hiện một cách cụ thể đến nhiều sự kiện lịch sử dân tộc xảy ra trong cùng thời gian
ấy.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy
học nội dung lịch sử Việt Nam ngoài việc nhận thức rõ mối quan hệ giữa các sự kiện
còn phải nhận thức và hiểu sâu sắc hơn bản chất các nội dung lịch sử Việt Nam và
ngược lại việc sử dụng kiến thức lịch sử dân tộc càng giúp nhận thức sâu hơn con
đường phát triển của xã hội loài người.
Kiến thức lịch sử thế giới được sử dụng trong dạy học nội dung lịch sử Việt
Nam và ngược lại phải là những sự kiện cơ bản nhất được trình bày trong sách giáo
khoa. Trong mỗi thời kì, mỗi giai đoạn lịch sử có nhiều sự kiện, hiện tượng xảy ra trên
thế giới, ảnh hưởng đến lịch sử dân tộc, cho nên cần phải lựa chọn những sự kiện, hiện
tượng tiêu biểu nhất, cơ bản nhất, đủ để phác hoạ bức tranh chung của lịch sử thế giới

và mối quan hệ đến lịch sử Việt Nam.
Việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường
THPT có vị trí, ý nghĩa quan trọng về giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Về mặt giáo
dưỡng, việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt Nam góp
6


phần làm cho học sinh hiểu đúng, hiểu toàn diện, sâu sắc lịch sử Việt Nam từ trước
đến nay, trên một mức độ nào đó, góp phần nâng cao kiến thức lịch sử thế giới. Về mặt
giáo dục, giúp các học sinh hình thành quan điểm, thái độ đúng đắn đối với sự nghiệp
đấu tranh của ông cha trước kia và sự nghiệp cách mạng hiện nay dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Về nhiệm vụ phát triển, việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học
lịch sử Việt Nam góp phần hình thành ở học sinh phương pháp duy vật lịch sử khi xem
xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong mối quan hệ biện chứng, phát triển
kĩ năng thực hành bộ môn, các thao tác tư duy lịch sử.
1.2. Nội dung cơ bản của chương trình LSTG hiện đại và LSVN từ 1919 - 1945
1.2.1 Nội dung cơ bản của chương trình LSTG từ 1919 - 1945
Chương trình hiện hành về lịch sử thế giới hiện đại từ 1919 đến 1945 được dạy
ở lớp 11 (chương trình nâng cao) bao gồm những vấn đề chính sau đây:
- Một là, thời kì này đã diễn ra những chuyển biến quan trọng trong nền sản
xuất vật chất của nhân loại. Những tiến bộ về khoa học – kĩ thuật đã thúc đẩy nền kinh
tế thế giới phát triển với tốc độ cao. Sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới đã làm
thay đổi đời sống chính trị, xã hội, văn hoá của các quốc gia, dân tộc và thế giới nói
chung.
- Hai là, phong trào cách mạng thế giới bước sang một thời kì phát triển mới từ
sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới
thứ nhất. Ở các nước tư bản châu Âu, một cao trào cách mạng đã bùng nổ trong những
năm 1918 - 1923. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lan rộng ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc. Ở nhiều nước, các đảng cộng sản ra đời và nắm vai trò lãnh đạo cách mạng.
Nhằm thống nhất hành động và tập hợp lực lượng cách mạng, Quốc tế Cộng sản được

thành lập và hoạt động trong những năm 1919 - 1943. Phong trào cách mạng thế giới
trải qua những bước phát triển chính sau đây:
+ Cao trào cách mạng 1918 - 1923; Quốc tế Cộng sản ra đời.
+ Phong trào cách mạng trong những năm khủng hoảng kinh tế (1929 - 1933).
+ Phong trào Mặt trận Nhân dân chống phát xít, chống chiến tranh (1936 - 1939).
+ Cuộc đấu tranh chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945).
- Ba là, chủ nghĩa tư bản không còn là hệ thống duy nhất trên thế giới và trải
qua những bước phát triển thăng trầm đầy biến động.
Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra đã đánh đổ nền thống trị của chủ nghĩa tư
bản ở một đất nước rộng 1/6 địa cầu, khai sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới. Từ đây, chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất nữa. Cuộc
đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội sau Cách mạng tháng Mười đã quyết định những
đặc điểm, nội dung chủ yếu và phương hướng phát triển của nhân loại. Mặt khác, sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất, thế giới được phân chia lại trên cơ sở những hòa ước,
hiệp ước được kí kết ở hai hội nghị Vécxai, Oasinhtơn làm nảy sinh mâu thuẫn giữa
các nước đế quốc thắng trận với các nước đế quốc bại trận và giữa các nước đế quốc
thắng trận với nhau.
Sau thời kì ổn định tạm thời 1924 - 1929, trong những năm 1929 - 1933 thế giới
tư bản bị cuốn vào cuộc đại khủng hoảng kinh tế. Để thoát khỏi khủng hoảng, các
nước tư bản đã đi theo hai con đường khác nhau. Nếu các nước Anh, Pháp, Mỹ tiến
7


hành một cuộc cải cách kinh tế - xã hội để duy trì trật tự thế giới có lợi cho mình thì
các nước Đức, Ý, Nhật lại tiến hành phát xít hóa chính quyền, tiến hành chạy đua vũ
trang để gây chiến tranh chia lại thị trường thế giới. Thực trạng đó đã làm cho mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc phát triển đến đỉnh điểm đặt thế giới trước nguy cơ của
một cuộc chiến tranh thế giới mới.
- Bốn là, chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) là cuộc chiến tranh lớn nhất,
khốc liệt nhất và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Bắt nguồn từ những mâu

thuẫn trong nội bộ các nước đế quốc chủ nghĩa, dưới tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới (1929 - 1933) và chính sách nhân nhượng của Anh, Pháp, Mỹ đối với
khối nước phát xít Đức, Ý, Nhật đã dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới lần
thứ hai (1939 - 1945). Trong hai năm đầu, chiến tranh diễn ra trong nội bộ các nước tư
bản ở châu Âu với ưu thế thuộc về phe phát xít. Từ tháng 6-1941 đến tháng 11-1942,
chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới. Thế thắng vẫn thuộc các nước phát xít nhưng
quân Đức đã chịu thất bại nặng đầu tiên trên lãnh thổ Liên Xô. Tháng 12-1941, chiến
tranh Thái Bình Dương bùng nổ, buộc Mỹ, Anh phải tuyên chiến với Nhật tại khu vực
này. Sau thắng lợi của quân, dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc ở Matxcơva,
khối Đồng minh chống phát xít được thành lập (1-1942). Đến tháng 2-1943, với thắng
lợi của quân, dân Liên Xô trong trận phản công tại Xtalingrat đã tạo nên bước ngoặt
của chiến tranh, Liên Xô và các nước đồng minh chuyển sang tiến công đồng loạt trên
các mặt trận, từng bước đánh bại phát xít Italia (7-1943), phát xít Đức (5-1945) và
quân phiệt Nhật (8-1945) kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình thế giới.
1.2.2. Nội dung cơ bản của chương trình LSVN từ 1919 - 1945
Kiến thức LS đưa vào SGK giảng dạy ở trường THPT là hệ thống kiến thức khoa
học được chọn lọc kỹ càng, đảm bảo tính cơ bản, tính điển hình, tính ổn định. Việc xác
định hệ thống kiến thức cơ bản trong chương trình lịch sử, cũng như từng bài học có tác
dụng định hướng cho việc học tập nói chung, tự học cho học sinh nói riêng đạt được
hiệu quả cao hơn.
Trong chương trình môn LS ở trường phổ thông, tiến trình LS Việt Nam từ năm
1919 đến năm 1945 (chương trình nâng cao) được phân phối giảng dạy ở 7 bài, thuộc
2 chương: Chương I: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930; Chương II: Việt Nam từ
năm 1930 đến năm 1945. Dựa vào chương trình lịch sử giáo dục phổ thông của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, nội dung LS Việt Nam từ 1919 đến 1945 (chương trình nâng cao) ở
trường THPT nhằm các mục tiêu sau:
- Về kiến thức:
Trên cơ sở, phân tích tình hình thế giới và những chuyển biến về kinh tế, văn
hóa, xã hội Việt Nam dưới tác động của Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai,
HS biết và hiểu được về đặc điểm của phong trào cách mạng Việt Nam giai đoạn 1919

- 1930 với sự tồn tại và đấu tranh để xác lập vai trò lãnh đạo phong trào dân tộc của
hai khuynh hướng cứu nước tư sản và vô sản. Từ đó, hiểu được sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của LS phù hợp với điều kiện nước ta. Trong
đó, phải kể đến vai trò tích cực và nhãn quan chính trị sắc bén của Nguyễn Ái Quốc.
Nhận thức được những nét chính trong cuộc vận động giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1930 - 1945 qua ba phong
trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945 và cuộc Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945. Trên cơ sở đó, hiểu rõ về vai trò của
Đảng trong việc nắm bắt tình hình, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân
8


tộc và dân chủ qua các giai đoạn, tạo và chớp lấy thời cơ cách mạng để giành thắng lợi
một cách nhanh chóng, trọn vẹn và ít đổ máu.
- Về phát triển kỹ năng:
Qua quá trình nghiên cứu, học tập LS Việt Nam từ 1919 đến 1945, HS tiếp tục
được bồi dưỡng phương pháp học tập bộ môn bao gồm các kỹ năng thực hành bộ môn
như đọc, vẽ bản đồ, lược đồ khi học về diễn biến các trận đánh; kỹ năng khai thác tranh
ảnh, kênh hình trong SGK, kỹ năng sử dụng tài liệu tham khảo, kỹ năng lập các niên
biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ và kỹ năng vận dụng kiến thức LS để giải quyết những vấn đề
trong thực tiễn cuộc sống… Cũng như khả năng vận dụng linh hoạt, thuần thục các thao
tác tư duy như so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khái quá hóa, trừu tượng hóa…
- Về giáo dục:
Những hiểu biết về kiến thức LS Việt Nam từ 1919 đến 1945 có tác dụng to lớn
đối với nhiệm vụ giáo dục HS về lòng yêu nước, yêu độc lập tự do, yêu chủ nghĩa xã
hội, biết ơn Đảng, biết ơn Hồ Chủ tịch và các anh hùng dân tộc đã ngã xuống vì độc
lập dân tộc và lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, giúp HS biết trân trọng những thành
quả cách mạng, hình thành ý thức trách nhiệm của các em đối với công cuộc xây dựng,
bảo vệ đất nước ngày nay và giáo dục ý thức lao động cần cù, hăng say, lao động.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, trong quá trình dạy học môn LS ở trường

THPT giai đoạn 1919 - 1945, GV cần chú ý khai thác những nội dung kiến thức LS
trọng tâm sau:
Thứ nhất, những chuyển biến về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội và phong trào
cách mạng Việt Nam từ năm 1919 - 1929, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, mặc dù là nước thắng trận nhưng thực dân
Pháp phải gánh chịu những tổn thất nặng nề. Để bù đắp lại thiệt hại và khôi phục địa vị
của mình trong thế giới tư bản, Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II ở
Việt Nam và Đông Dương. Đặc điểm quan trọng nhất của chương trình khai thác thuộc
địa lần này là tư bản Pháp tăng cường đầu tư vào Việt Nam qui mô rộng lớn và nhịp độ
nhanh chưa từng thấy. Nhờ vậy đã tạo điều kiện cho mầm mống kinh tế tư bản chủ
nghĩa bước đầu du nhập vào Việt Nam. Nhưng nhìn chung nền kinh tế Việt Nam vẫn là
một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn được
duy trì một cách phổ biến. Trên cơ sở những chuyển biến về kinh tế, cơ cấu giai cấp
trong lòng xã hội Việt Nam cũng ngày càng phân hóa rõ nét, sâu sắc và triệt để hơn với
hai trận tuyến rõ rệt. Một bên là bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai, một bên là các
lực lượng cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một
bộ phận giai cấp địa chủ vừa và nhỏ. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến (tay sai đế quốc) với giai
cấp nông dân ngày càng sâu sắc và trở thành nguyên nhân, động lực dẫn đến sự bùng
nổ của phong trào cách mạng 1919 - 1930.
Phát huy những thành quả đã đạt được trong phong trào cách mạng đầu thế kỉ
XX, phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam trong những năm 1919 - 1929 có những
bước tiến mới, bên cạnh phong trào dân tộc dân chủ của tư sản, tiểu tư sản, xuất hiện
phong trào vô sản. Hai khuynh hướng cách mạng này tồn tại song song và không
ngừng đấu tranh để xác lập vai trò lãnh đạo phong trào dân tộc. Cuộc đấu tranh được
tiến hành thông qua các tổ chức cách mạng và phát triển đến đỉnh cao nhất trong năm
1929 với sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản trên cơ sở sự phân hóa của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng đảng, đánh dấu sự thắng thế
bước đầu của khuynh hướng cách mạng vô sản trước khuynh hướng cách mạng tư
9



sản. Bước sang năm 1930, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng
trong nước, đòi hỏi có một chính đảng duy nhất để lãnh đạo phong trào. Trong bối
cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản,
giành quyền độc tôn lãnh đạo phong trào dân tộc Việt Nam. Trong khi đó, sau thất
bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức, đã chấm dứt
vai trò của giai cấp tư sản trên vũ đài chính trị Việt Nam.
Trong quá trình phát triển của phong trào dân tộc thời kì này, đã xuất hiện nhiều
nhân vật, nhiều nhà hoạt động chính trị tài ba, trong đó Nguyễn Ái Quốc là người có vai
trò quan trọng nhất trong việc hướng phong trào dân tộc Việt Nam phát triển đúng với
xu thế của thời đại sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga 1917. Chính Nguyễn Ái Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc và là người chuẩn bị tất cả những điều kiện cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chuẩn bị bước nhảy vọt căn bản và vĩ đại của cách mạng Việt
Nam và phong trào dân tộc Việt Nam từ năm 1930 về sau.
Thứ hai, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh của Đảng trong
những năm 1930 - 1945.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933), cùng với sự
gia tăng áp bức, bóc lột và cuộc “khủng bố trắng” của thực dân Pháp sau khởi nghĩa
Yên Bái (09-2-1930) đã làm bùng nổ phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong những năm 1930 - 1931 với đỉnh cao là phong trào Xô viết
Nghệ - Tĩnh. Đây được xem là cuộc tập dượt lần thứ nhất của Đảng và quần chúng. Qua
đó, đã khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công - nông và để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quí báu cho phong trào cách mạng giai đoạn sau.
Bước sang năm 1936, tình hình thế giới có nhiều biến động với sự xuất hiện của
chủ nghĩa phát xít, đặt thế giới trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Trước tình hình đó, chống phát xít, chống chiến tranh, thành lập mặt trận dân chủ trở
thành nhiệm vụ nòng cốt của phong trào cách mạng thế giới. Hưởng ứng chủ trương
trên của Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ,

Đảng Cộng sản Đông Dương đã phát động phong trào đấu tranh công khai rộng lớn
chống phát xít, chống chiến tranh, đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình trong nhân
dân. Đây là một phong trào quần chúng rộng lớn với mục tiêu, hình thức và phương
pháp đấu tranh mới. Từ phong trào này, Đảng đã khẳng định được vai trò lãnh đạo của
mình với đông đảo quần chúng nhân dân và xây dựng được một đội quân chính trị
đông hàng triệu người.
Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ đã tác động đến toàn thế
giới. Cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và các lực lượng dân chủ thế giới chống
phát xít thắng lợi đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam và nhiều nước
tiến lên giải phóng dân tộc. Nhận thức rõ thời cơ giải phóng dân tộc sắp đến, đầu năm
1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã
triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 (5-1941) hoàn chỉnh chủ trương
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được đề ra tại Hội nghị Trung ương tháng
11-1939 với trọng tâm là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và giải quyết
vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách
mạng Việt Nam ra sức chuẩn bị về mọi mặt (chính trị, căn cứ địa, văn hóa, tư tưởng,
thời cơ…), tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ vậy, thời cơ
chủ quan của cách mạng nhanh chóng chín muồi sau cao trào kháng Nhật cứu nước
nên ngay khi thời cơ cách mạng xuất hiện (Nhật đầu hàng quân Đồng minh không điều
kiện), cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 đã nhanh chóng phát
10


triển trên toàn quốc để đánh bại hoàn toàn kẻ thù xâm lược, giành chính quyền về tay
nhân dân một cách nhanh chóng và trọn vẹn.
1.2. Những nội dung kiến thức cơ bản về LSTG hiện đại cần được vận dụng trong
dạy học LSVN giai đoạn 1919 - 1945
- Những tác động của tình hình nước Pháp sau thế chiến thứ nhất đến cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương (chủ yếu là Việt
Nam)

Để nắm được vấn đề này, giáo viên hướng cho học sinh nhớ lại những kiến thức
cơ bản đã học về lịch sử thế giới, chủ yếu là lịch sử nước Pháp sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), đế quốc Pháp rút ra khỏi cuộc
chiến tranh với “tư thế oai hùng” của một kẻ thắng trận, song nền kinh tế Pháp bị thiệt
hại nặng nề. Để bù đắp các thiệt hại to lớn do chiến tranh gây ra, bọn tư bản Pháp ráo
riết đẩy mạnh khai thác ở các thuộc địa “Chương trình khai thác thứ hai” được thi
hành ở Đông Dương – trong đó chủ yếu là Việt Nam. Để hiểu rõ nguyên nhân tại sao
Pháp lại đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương, giáo viên
hướng dẫn học sinh tìm hiểu rõ thêm bối cảnh nước Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất:
+ Tuy thuộc phe thắng trận, song nền kinh tế Pháp bị tàn phá nặng nề. Sản xuất
công nông nghiệp, hoạt động thương nghiệp, giao thông vận tải giảm sút nghiêm
trọng. Số nợ quốc gia, chủ yếu là nợ Mĩ, cuối 1918 là 170 tỷ phơ-răng, đầu 1920 tăng
300 tỷ.
+ Trong khi đó, Cách mạng XHCN tháng Mười Nga 1917 bùng nổ và thắng lợi,
toàn bộ số vốn Pháp đầu tư vào nước Nga Sa hoàng giờ đây bị mất trắng (14 tỷ phơrăng). Việc chính phủ Clêmăngxô tham gia cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế
quốc vào nước Nga cách mạng và trợ cấp tài chính cho bọn Bạch vệ lại ngốn thêm của
ngân quỹ Pháp hàng tỷ phơ-răng.
+ Phần lớn số vàng trong ngân quỹ Pari đều không cánh mà bay sang ngân hàng
New York hoặc Luân Đôn. Đồng phơ-răng bị mất giá nghiêm trọng. Cuộc khủng
hoảng thiếu nổ ra tại hầu hết các nước tư bản trong những năm 1921 - 1923 lại thêm
khó khăn cho nền kinh tế Pháp.
Những kiến thức lịch sử thế giới nêu trên sẽ giúp học sinh hiểu rõ nguyên nhân
thực dân Pháp đẩy mạnh đầu tư khai thác các thuộc địa trong đó Đông Dương được
chúng xem là thuộc địa “quan trọng nhất, phát triển nhất và giàu có nhất” trong tất cả
các thuộc địa của Pháp trên thế giới.
- Ảnh hưởng của tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đối
với phong trào cách mạng Việt Nam.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) những biến động của tình hình

thế giới và ảnh hưởng của cách mạng thế giới – chủ yếu là ảnh hưởng của Cách mạng
tháng Mười dội vào, có tác dụng thúc đẩy cách mạng Việt Nam. Để hiểu rõ những tác
động, ảnh hưởng của tình hình thế giới đến cách mạng Việt Nam, giáo viên cần gợi
cho học sinh nhớ lại một số kiến thức lịch sử thế giới cơ bản có liên quan sau đây:
+ Trong lúc xã hội Việt Nam đang có sự chuyển biến sâu sắc do tác động của
cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất thì Cách mạng tháng Mười bùng nổ và thắng lợi,
11


ảnh hưởng lớn đến Việt Nam ở những góc độ khác nhau. Trước hết cần khẳng định
rằng Cách mạng tháng Mười chưa ảnh hưởng ngay đến Việt Nam mà từ những năm 20
của thế kỉ XX mới có tác động và ngày càng thêm rõ rệt. Lúc đầu chỉ mới là việc bày
tỏ tình cảm chưa phải là một sự hiểu biết cụ thể về đất nước và con người nước Nga xa
xôi.
+ Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười, phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản gắn bó với nhau
mật thiết. Các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản, cũng như ở các nước thuộc địa nối
tiếp nhau ra đời, tháng 2-1919, Đệ tam quốc tế thành lập. Tiếp đó, Đảng cộng sản
Pháp, Đảng cộng sản Trung Quốc thành lập. Tất cả những sự kiện đó tạo điều kiện
thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam.
Những kiến thức trên sẽ giúp học sinh hiểu rõ nguyên nhân cách mạng Việt
Nam phát triển và chuyển sang một thời kì mới là do ảnh hưởng của Cách mạng tháng
Mười đến cách mạng Việt Nam.
- Vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với sự thành công của Hội nghị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong năm 1929 là một xu thế tất yếu của
cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử thế giới từ chủ nghĩa
tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga 1917 (Các kiến thức lịch sử thế giới đã học giúp học sinh hiểu rõ điều này).
+ Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam lúc bấy giờ (Đông Dương cộng sản đảng, An

Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn) đã có cơ sở ở nhiều địa phương
trong cả nước, trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân.
Nhưng trong một nước lại tồn tại ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẻ, công kích lẫn
nhau, tranh giành đảng viên quần chúng của nhau, điều đó đã làm trở ngại cho sự phát
triển của phong trào cách mạng ở nước ta. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam
lúc này là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả nước. Trước tình hình đó,
Quốc tế Cộng sản đã giao cho Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm thống nhất các lực
lượng cộng sản ở Việt Nam để thành lập một đảng cộng sản duy nhất.
- Liên hệ những nội dung cơ bản được đề cập trong “Cương lĩnh tối thiểu”
và “Cương lĩnh tối đa”, “Luận cương tháng Tư” giúp học sinh nhận thức rõ hơn
về tính đúng đắn, sáng tạo của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo.
+ Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn
tắt”, “Điều lệ vắn tắt”… do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Những văn kiện này được
xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, vạch rõ cách mạng Việt Nam phải trải
qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền (sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau,
không có bức tường ngăn cách. Chính cương viết: “Chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Để hiểu rõ nội dung, tư
tưởng cơ bản của các văn kiện được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng nêu trên cần
bổ sung thêm một số kiến thức lịch sử thế giới có liên quan.
Trước hết, giáo viên gợi ý cho học sinh nhớ lại rằng tư tưởng này được Lênin
và những người Bônsêvích Nga thể hiện trong “Cương lĩnh tối thiểu” và “Cương lĩnh
tối đa” tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga tháng 712


1903, ở Luân Đôn. Đại hội khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là làm cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa đánh đổ chính quyền của bọn tư bản, thành lập chuyên chính
vô sản. Đồng thời đề ra nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ chế độ Nga hoàng, thành lập
nước cộng hoà, thi hành những cải cách dân chủ, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông

dân. Tư tưởng cách mạng không ngừng được thể hiện trong thực tiễn Cách mạng Nga
sau cuộc cách mạng tháng 2-1917, khi xuất hiện tình trạng hai chính quyền song song
tồn tại. Trong “Luận cương tháng Tư” (4-1917) Lê-nin đã chỉ rõ: trong một quốc gia
không thể có hai chính quyền, hai nền chuyên chính song song tồn tại, những người
Bônsêvích phải giải thích cho nhân dân và lãnh đạo họ thủ tiêu nền chuyên chính của
giai cấp tư sản chuyển giao chính quyền vào tay Xô Viết đại biểu chủ nghĩa và binh
lính. Những kiến thức lịch sử thế giới trình bày trên quan điểm tư tưởng Lê-nin. Tình
hình nước Nga từ cách mạng tháng Hai đến tháng Mười 1917 giúp học sinh hiểu sâu
sắc hơn vì sao Đảng ta và Hồ Chí Minh lại xác định cách mạng Việt Nam phải trải qua
hai giai đoạn kế tiếp nhau.
- Vận dụng những nội dung được đề cập trong “Cương lĩnh của Quốc tế
Cộng sản”, được thông qua tại Đại hội lần thứ VI (1928), “Bệnh ấu trĩ tả khuynh
trong phong trào cộng sản” giúp HS nhận thức sâu hơn về tính đúng đắn và một
số hạn chế trong “Luận cương chính trị” tháng 10-1930 do đồng chí Trần Phú Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam soạn thảo.
Luận cương chính trị tháng 10-1930 nêu rõ: tính chất của cách mạng Đông
Dương lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền; cách mạng tư sản dân quyền là
thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng; sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi
sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản mà tiến thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa.
+ Để hiểu rõ nội dung nêu trên của Luận cương (so sánh với “Chính cương vắn
tắt”, “Sách lược vắn tắt”) giáo viên cần gợi, củng cố cho học sinh nhớ lại một vài nội
dung cơ bản của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, do Lê-nin soạn thảo,
được thảo luận và thông qua tại Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản (1920), đã
vạch rõ con đường tiến lên của cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa. Đó là:“Tiến
hành những cải cách dân chủ - cách mạng, có tính chất tư sản trong giai đoạn thứ
nhất của cuộc cách mạng; sau đó tiến thẳng lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa bỏ qua thời kì phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Giáo viên còn có thể nhắc lại vài điểm chính trong “Cương lĩnh của Quốc tế
Cộng sản”, được thông qua tại Đại hội lần thứ VI (1928), vạch rõ tính tất yếu, đa dạng
của những điều kiện và những con đường quá độ lên chuyên chính vô sản ở các nước.

Đây là sự nhấn mạnh tư tưởng của Lê-nin, đã chỉ rõ:“Ở các nước thuộc địa, nửa thuộc
địa và phụ thuộc cần phải tiến hành cuộc cách mạng chống đế quốc, chống phong
kiến; chỉ có thể thiết lập chuyên chính vô sản. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng
dân chủ tư sản và chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; chỉ có thể xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với điều kiện
của cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng mác-xít – Lê-nin nít, được
sự giúp đỡ trực tiếp của các nước chuyên chính vô sản khác và sự ủng hộ của phong
trào vô sản quốc tế”.
Những nội dung của lịch sử thế giới nêu trên giúp cho học sinh vừa củng cố
nhớ lại kiến thức lịch sử thế giới vừa giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung Luận cương
chính trị tháng 10-1930.
13


Khi khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng vô sản đối với sự thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Luận cương chính trị năm 1930 chỉ rõ: phải có
chính đảng cộng sản với đường lối cách mạng đúng đắn, có kỉ luật tập trung và liên lạc
mật thiết với quần chúng nhân dân:
“Điều cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một
Đảng cộng sản có đường lối chính trị đúng, có kỉ luật tập trung, mật thiết liên lạc với
quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai
cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chính và lâu dài
chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương
ra đấu tranh để đạt mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”.
Để hiểu rõ hơn đoạn trích trên nên nhắc lại một số ý trong “Luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin vạch rõ rằng những điều kiện tối thiểu để chuyển
cuộc cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa thì “điều kiện quan
trọng nhất phải có một Đảng cộng sản có uy tín trong quần chúng nhân dân”.
+ So với thực tiễn của cách mạng Việt Nam, “Luận cương chính trị” 1930 cũng
có một số hạn chế. Đó là: Luận cương chưa vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của một

xã hội thuộc địa nên không đề cao được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu
tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng khả năng cách mạng của
giai cấp tư sản và khả năng liên minh có điều kiện với giai cấp tư sản dân tộc; không
thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ trong cách mạng
giải phóng dân tộc.
Để hiểu rõ những hạn chế trên của “Luận cương chính trị 1930” chúng ta tìm
hiểu một số nhược điểm, thể hiện tư tưởng “tả khuynh”, “giáo điều” đã từng xuất hiện
ở các Đảng cộng sản trẻ tuổi, mà Lê-nin gọi đó là “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong
trào cộng sản”. Giáo viên gợi học sinh có thể nhắc lại một số sự kiện cơ bản đã học ở
khoá trình lịch sử thế giới hiện đại: một số Đảng cộng sản ở châu Âu, nhất là Đảng
cộng sản Đức và phong trào cộng sản trẻ tuổi ở Anh của những người “tả khuynh”, đã
phạm những sai lầm chia bè phái. Họ cự tuyệt mọi hình thức đấu tranh đã có, họ từ
chối mọi hoạt động của các công đoàn cải lương, hoàn toàn coi thường việc lôi kéo
nông dân và các tầng lớp trung gian thành thị về phía giai cấp vô sản cũng như phủ
nhận sự cần thiết liên minh giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Lê-nin nói “những quan điểm bè phái tả khuynh mang
lại những tai hại to lớn cho phong trào cộng sản”. Minh hoạ cho việc trình bày các sự
kiện trên, giáo viên có thể trích một đoạn ngắn trong tác phẩm nổi tiếng “Bệnh ấu trĩ tả
khuynh trong phong trào cộng sản” của Lê-nin. Trong tác phẩm này, Lê-nin nêu rõ:
“Những kinh nghiệm của Đảng Bôn sê vích và kêu gọi những người cộng sản
nước khác nghiên cứu và áp dụng nó trên cơ sở tính toán các đặc điểm của nước
mình”. Lê-nin đã phê phán các Đảng trẻ tuổi ở Đức, Anh và một số nước khác về sai
lầm “tả khuynh” đã dẫn đến tách rời với giai cấp công nhân.
Như vậy, việc gợi lại và bổ sung một số nội dung kiến thức lịch sử thế giới nêu
trên giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung bản Luận cương chính trị năm 1930, thấy
được những mặt tích cực cũng như những hạn chế của nó (so với bản Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng
(6-1-1930 – 7-2-1930).

14



- Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đến Cuộc
vận động dân chủ 1936 - 1939. Khi tìm hiểu vấn đề này không thể không hiểu rõ tình
hình thế giới, chủ trương của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ.
Giáo viên giúp cho học sinh nhớ lại tình hình thế giới như thế nào đã tác động,
ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam, dẫn đến phong trào cách mạng trong
những năm 1936 - 1939. Đó là:
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã để lại những hậu quả nặng nề trên
mọi mặt đời sống xã hội của các tầng lớp nhân dân trên thế giới, đặc biệt ảnh hưởng
đến hệ thống tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư bản độc quyền ở nhiều nước muốn tìm lối
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng cách thiết lập chế độ phát xít, chủ nghĩa phát xít
đã nắm quyền ở một số nước, điển hình là Đức, Italia, Nhật Bản. Đây là một chế độ
độc tài tàn bạo nhất, sô vanh nhất, đế quốc nhất của chủ nghĩa tư bản tài phiệt. Chúng
tìm mọi cách đoạt lại mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân trong nước, ráo riết chuẩn
bị cuộc chiến tranh mới để chia lại thị trường thế giới và tấn công Liên Xô thành trì
cách mạng thế giới, nhằm thực hiện giấc mộng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản
thế giới.
Giáo viên có thể dẫn một đoạn nhỏ trong bản Báo cáo “Sự tấn công của chủ
nghĩa phát xít và nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh để thống nhất
giai cấp công nhân chống chủ nghĩa phát xít” của Đimitơrốp được trình bày tại Đại hội
lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (năm 1935) để nhấn mạnh rằng trong điều kiện của cuộc
tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản đã trở nên gay gắt và quần chúng lao động
được cách mạng hoá nhanh chóng thì “giai cấp tư sản thống trị ngày càng cầu cứu chủ
nghĩa phát xít nhằm thi hành những biện pháp ăn cướp đặc biệt chống lại những người
lao động và chuẩn bị cho cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa tàn bạo”. điều này củng
cố ở học sinh nhận thức về bản chất chủ nghĩa phát xít. Theo Đimitơrốp đây là “nền
chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế
quốc nhất của tư bản tài chính”.
+ Trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và cuộc chiến tranh thế giới mới, Đại

hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935) họp tại Mátxcơva đã xác định kẻ thù nguy
hiểm trước mắt của nhân dân thế giới không phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là
chủ nghĩa phát xít. Đại hội đề ra chủ trương thành lập mặt trận nhân dân ở các nước,
nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và
nguy cơ chiến tranh do chúng gây ra.
Giáo viên gợi cho học sinh nhớ lại rằng, Đại hội đã phân tích sự khác nhau giữa
chế độ phát xít và chế độ đại nghị tư sản, những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa phát xít và
chế độ dân chủ tư sản. Chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền đó không phải là “Sự thay
thế thông thường một chính phủ tư sản bằng một chính phủ tư sản khác mà là sự thay
thế một hình thức nhà nước thống trị có tính chất giai cấp của giai cấp tư sản – chế độ
dân chủ tư sản, bằng một hình thức thống trị khác – nền chuyên chính khủng bố công
khai”.
Trong bản báo cáo của mình, Đimitơrốp đã khẳng định rằng mặc dầu chế độ
độc tài phát xít đã thiết lập và nắm chính quyền ở một số nước đó là một nền chuyên
chính hết sức tàn bạo nhưng giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới hoàn toàn có
thể đánh bại được chủ nghĩa phát xít nếu như họ thiết lập được mặt trận thống nhất
giai cấp công nhân trong từng nước và toàn thế giới, tập hợp và đoàn kết được mọi lực
lượng, mọi tổ chức đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Trên cơ sở mặt trận thống nhất
15


chủ nghĩa, các Đảng cộng sản phải đấu tranh để thành lập mặt trận thống nhất nhân
dân rộng rãi chống phát xít. Đối với các nước thuộc địa Đimitơrốp đã đề ra nhiệm vụ
có ý nghĩa quan trọng đặc biệt là Đảng cộng sản phải tiến hành thành lập mặt trận
thống nhất chống đế quốc. Mặt trận này phải dựa trên cơ sở khối liên minh công nông
nhằm thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là chống lại chính sách tăng cường áp bức bóc lột
của chủ nghĩa đế quốc, chống lại ách thống trị bạo tàn đưa sự nghiệp giải phóng dân
tộc lên những bước phát triển mới. Trong bài cũng phải cung cấp cho học sinh biết
Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đại hội VII Quốc tế Cộng sản.
+ Thắng lợi của các lực lượng dân chủ, cách mạng trong cuộc đấu tranh chống

chủ nghĩa phát xít, đòi quyền lợi chính đáng thể hiện ở các sự kiện có liên quan đến
tìm hiểu tình hình thế giới lúc bấy giờ. Năm 1936, mặt trận nhân dân Pháp do Đảng
cộng sản Pháp làm nòng cốt, thắng cử vào nghị viện và lên cầm quyền. Thắng lợi đó
đã tạo điều kiện chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ,
cải thiện đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa của đế quốc Pháp, trong đó có Việt
Nam.
Những kiến thức lịch sử thế giới nêu trên làm cơ sở để học sinh có biểu tượng
cụ thể về bối cảnh lịch sử Việt Nam trong những năm 1936 - 1939, qua đó thấy được
những tác động, ảnh hưởng của thế giới đến nước ta, đồng thời cũng lí giải được
nguyên nhân vì sao phong trào cách mạng Việt Nam 1936 - 1939 có bước phát triển
mạnh mẽ, với cuộc vận động dân chủ rộng rãi, thu hút, tập hợp được hàng triệu quần
chúng nhân dân vào mặt trận dân chủ Đông Dương đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hoà
bình, chống chiến tranh đế quốc.
- Tác động của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công trong cả nước, là kết quả cuộc đấu tranh giành độc lập
của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam
trực tiếp lãnh đạo. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh
Việt Nam cũng là một bộ phận của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa phát xít. Vì vậy,
những biến động của thế giới lúc bấy giờ đã dẫn đến thời cơ của cách mạng tháng
Tám. Để hiểu sâu sắc vấn đề này giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại những sự kiện
lịch sử thế giới có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Đó là điều kiện
khách quan hết sức thuận lợi đưa đến thời cơ ngàn năm có một cho cách mạng tháng
Tám nổ ra thắng lợi.
+ Chiến tranh thế giới thứ hai đã đi tới những ngày cuối; ở châu Âu phát xít
Đức đã bị tiêu diệt hoàn toàn và buộc phải đầu hàng Đồng minh không điều kiện
(tháng 5-1945); ở châu Á, quân phiệt Nhật cũng đã đầu hàng Đồng minh không điều
kiện (tháng 8-1945).
+ Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
hoang mang tan rã, quân Anh và Tưởng chưa kịp vào Đông Dương (theo Hội nghị
Postdam tháng 7-1945 thì quân Anh và Tưởng thay mặt cho quân đồng minh vào Đông

Dương để giải giáp khí giới quân Nhật).
Nắm lại những sự kiện lịch sử thế giới đã học nêu trên, học sinh hiểu rõ rằng
thời cơ cách mạng ngàn năm có một đã chín muồi, thời cơ chỉ diễn ra trong khoảng
thời gian rất ngắn. Đó là thời điểm: sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều
kiện và trước khi quân Anh, Tưởng vào nước ta; nếu khởi nghĩa lúc quân Nhật chưa
đầu hàng thì chúng sẽ phản ứng quyết liệt, nếu chậm trễ khi quân Anh, Tưởng kéo vào
thì thời cơ không còn nữa. Như vậy, Đảng, Hồ Chí Minh đã nắm vững thời cơ để hành
16


động, phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước,
đúng như nhận định của Hồ Chí Minh ở Tân Trào “Bây giờ thời cơ đã tới, dù có đốt
cháy dãy Trường Sơn cũng phải làm cách mạng thành công”. Qua đó, cũng phải làm rõ
nghệ thuật chớp thời cơ khi thời cơ xuất hiện, đồng thời lãnh đạo toàn dân quyết tâm
nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đã đến. Đồng thời giúp học sinh
nhận thấy Cách mạng tháng Tám 1945 Việt Nam trong dòng thác cách mạng ở Đông
Nam Á. Sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, hàng loạt các
nước trong khu vực đã giành độc lập: Lào (23-8-1945), Inđônêxia (17-8-1945),
Philíppin (7-1946)…điều này đã tác động đến cách mạng tháng Tám ở Việt Nam.
Nhưng đồng thời cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam thắng lợi đã cổ vũ cuộc đấu
tranh giành độc lập ở các nước trong khu vực.
1.3. Bảng tổng hợp các kiến thức LSTG cần được vận dụng khi dạy học LSVN
giai đoạn 1919 - 1945
Nội dung chủ
đề LSVN
Việt Nam sau
chiến tranh
thế giới lần
thứ nhất


Nội dung LSVN
- Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1914-1918) kết thúc, thực
dân Pháp thắng trận nhưng bị
thiệt hại nặng nề, nền kinh tế bị
kiệt quệ. Tư bản độc quyền Pháp
vừa tăng cường bóc lột nhân dân
lao động trong nước, vừa đẩy
mạnh khai thác các thuộc địa để
bù đắp những thiệt hại do chiến
tranh gây ra trong đó có Việt
Nam.
- Pháp tăng cường đầu tư vào
Việt Nam, bỏ vốn nhiều nhất vào
nông nghiệp (chủ yếu là đồn
điền cao su và khai mỏ). Số vốn
đầu tư vào nông nghiệp năm
1927 lên tới 400 triệu phơ- răng,
gấp mười lần so với trước chiến
tranh.
- Ngoài ra, tư bản Pháp còn mở
thêm một số cơ sở công nghiệp
như các nhà máy sợ Hải Phòng,
Nam Định, Hà Nội,…
- Về thương nghiệp, Pháp độc
quyền thị trường Đông Dương,
đánh thuế nặng hàng hoá các
nước nhập vào nước ta. Ngân
hàng Đông Dương nắm quyền
chỉ huy các ngành kinh tế ở

Đông Dương.
- Trong giao thông vận tải, Pháp
đầu tư phát triển thêm đường sắt

Kiến thức LSTG có liên quan,
ảnh hưởng đến LSVN
- Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
kết thúc, ngày 11-11-1918 hiệp
ước đình chiến với những điều
khoản nặng nề thuộc về Đức được
kí kết. Đến ngày 16-11-1918,
chính phủ Xô viết xoá bỏ hiệp
ước Brét Litốp đã kí với Đức năm
1917.
- Cuộc chiến tranh thế giới thứ
nhất đã gây nên những thảm hoạ
hết sức nặng nề đối với nhân loại:
38 nước với 37 triệu người và 1,5
tỉ dân bị lôi cuốn vào vòng khói
lửa; 10 triệu người chết, trên 20
triệu người bị thương, số tiền các
nước tham chiến chi phí cho
chiến tranh lên tới 85 tỉ đô la Mĩ.
Những thiệt hại vật chất do chiến
tranh gây ra rất lớn, nhiều thành
phố, làng mạc bị phá huỷ, nhiều
nhà máy, đường sắt, đường bộ,
cầu cống bị phá hoại,…Công
nghiệp, nông nghiệp, tài chính
của hầu hết các nước tham chiến

bị đình đốn và suy kiệt.
Tháng 6-1919, Hội nghị Véc-xai
được họp để chia nhau quyền lợi
sau chiến tranh nhưng chỉ có Anh,
Pháp, Mĩ được quyền quyết định.
Đức phải bồi thường chiến phí là
3 tỉ đô la đã để lại một dấu ấn
không phai mờ trong lịch sử nhân
17


Phong
trào
cách
mạng
Việt Nam sau
chiến tranh
thế giới thứ
nhất

xuyên Đông Dương.
- Bên cạnh đó, Pháp tiếp tục bóc
lột nhân dân ta bằng các hình
thức đánh thuế nặng, nhiều thứ
thuế vô lí được đặt ra: thuế thân,
thuế muối, thuế rượu,…
- Những năm sau chiến tranh thế
giới thứ nhất, phong trào dân tộc
dân chủ ở nước ta đang trên đà
phát triển mạnh mẽ, thu hút

nhiều tầng lớp nhân dân tham
gia với nhiều hình thức phong
phú.
- Phong trào của giai cấp tư sản
dân tộc: phong trào chấn hưng
nội hoá, bài trừ ngoại hoá
(1919), đấu tranh chống độc
quyền cảng Sài Gòn và độc
quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì
của tư bản Pháp (1923); các tầng
lớp tiểu tư sản trí thức được tập
hợp trong những tổ chức chính
trị như Việt Nam nghĩa đoàn,
Hội Phục Việt,… họ xuất bản
nhiều tờ báo tiến bộ, một số nhà
xuất bản như Nam đồng thư
xã (Hà Nội), Cường học thư
xã (Sài Gòn), Quan hải tùng
thư (Huế)…đã phát hành nhiều
sách báo tiến bộ. Tháng 6-1924,
tiếng bom của Phạm Hồng Thái
tại Sa Diện đã cổ vũ thúc đẩy
phong trào tiến lên.
- Phong trào công nhân (19191925) mở đầu là cuộc đấu tranh
của công nhân viên chức các sở
công thương của tư bản Pháp ở
Bắc Kì vào năm 1922 đòi nghỉ
ngày chủ nhật có trả lương. Năm
1924 nhiều cuộc bãi công của
công nhân các nhà máy dệt, nhà

máy rượu, máy xay xát gạo ở
Nam Định, Hà Nội,…đặc biệt là
cuộc bãi công của công nhân nhà
máy xưởng Ba Son ngăn cản tàu
chiến Pháp chở lính sang đàn áp
phong trào đấu tranh của nhân
dân Trung Quốc (8-1925).

loại mà gánh nặng của nó đè lên
đầu 3 giai cấp công nhân, nông
dân và nhân dân các nước tham
chiến cùng với nhân dân các nước
thuộc địa.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga bùng nổ và
giành nhiều thắng lợi. Tháng 21917, cuộc cách mạng dân chủ tư
sản bùng nổ ở Nga. Sự kiện mở
đầu là cuộc biểu tình của 9 vạn nữ
công nhân ở Pê-tơ-rô-grát, phong
trào nhanh chóng lan rộng trong
cả nước từ tổng bãi công chính trị
sang khởi nghĩa vũ trang. Chế độ
quân chủ chuyên chế sụp đổ.
Nước Nga trở thành nước Cộng
hoà và xuất hiện tình trạng hai
chính quyền song song tồn tại.
Trước tình hình đó, Lê-nin và
Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc khởi
nghĩa vũ trang (24-10-1917) lật

đổ chính phủ tư sản lâm thời,
thành lập chính quyền Xô viết.
Thắng lợi của cách mạng tháng
Mười Nga đã làm thay đổi cục
diện thế giới cổ vũ mạnh mẽ và
để lại nhiều bài học quí giá cho
phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động
và các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới.
- Dưới ảnh hưởng của cách mạng
tháng Mười Nga, phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước phương
Đông và phong trào công nhân ở
các nước tư bản đế quốc, phương
Tây đã có sự gắn bó mật thiết với
nhau.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản
được thành lập ở Mát-xcơ-va
đánh dấu một giai đoạn mới trong
quá trình phát triển của phong
trào cách mạng thế giới. Đây là
thời gian Đảng Cộng sản Pháp ra
đời (1920), Đảng Cộng sản Trung
18


Hoạt
động
của Nguyễn

Ái Quốc ở
nước
ngoài
trong những
năm
19191925

- Tháng 6-1919, Nguyễn Ái
Quốc đã gửi đến hội nghị Vécxai bản yêu sách của nhân dân
An Nam đòi chính phủ Pháp
phải thừa nhận các quyền tự do,
dân chủ, quyền bình đẳng và
quyền tự quyết của các dân tộc
Việt Nam, nhưng bản yêu sách
đó không được chấp nhận. Tuy
nhiên, việc làm đó có tiếng vang
lớn đối với nhân dân Việt Nam.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái
Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất
luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lê-nin, từ đó
Người hoàn toàn tin theo Lê-nin
và dứt khoát đứng về Quốc tế
thứ ba. Tại Đại hội của Đảng Xã
hội Pháp họp ở Tua (12-1920)
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế thứ
ba và tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, đánh dấu bước
ngoặt trong hoạt động cách

mạng của Người từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa Mác –
Lê-nin và đi theo con đường
cách mạng vô sản.
- Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa
ở Pa-ri để đoàn kết các lực lượng
cách mạng chống chủ nghĩa thực
dân, thông qua đó để truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Người
còn viết nhiều bài cho các báo
Nhân đạo, Đời sống công nhân
và cuốn Bản án chế độ thực dân
Pháp.
- Tháng 6-1923, Nguyễn Ái
Quốc rời Pháp sang Liên Xô dự
Hội nghị Quốc tế nông dân và
được bầu vào Ban Chấp hành.
Người còn ở lại Liên Xô một
thời gian và dự Đại hội lần thứ V
Quốc tế Cộng sản. Người đọc
tham luận trình bày rõ lập trường
của mình về vị trí, chiến lược

Quốc năm 1921 ra đời,...
- Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
kết thúc, các nước đế quốc thắng
trận họp ở Véc-xai (1919) để
phân chia lại thị trường thế giới.
Hội nghị với sự tham gia của 27

nước nhưng chỉ có 3 cường quốc
là Anh, Pháp, Mĩ được quyền
quyết định. Đức phải bồi thường
chiến tranh là 3 tỷ đôla, các nước
Đức, Áo, Hung, Thổ Nhĩ Kì đều
mất thuộc địa hoặc mất đất.
- Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi
với việc nhà nước Xô viết được
thành lập do Lê-nin đứng đầu.
Thắng lợi của cách mạng tháng
Mười Nga cổ vũ, thức tỉnh phong
trào cách mạng thế giới, tạo ra sự
gắn bó giữa các dân tộc chống lại
kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản.
Thắng lợi của cách mạng tháng
Mười Nga mở đường cho học
thuyết Mác – Lê-nin xâm nhập
mạnh mẽ hơn nữa vào các nước
và các dân tộc khác nhau trên thế
giới.
- Những thắng lợi trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô. Sau chiến tranh thế giới
thứ nhất, Liên Xô bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, cùng với việc
thực hiện chính sách cộng sản
thời chiến với chế độ trưng thu
lương thực thừa không còn phù
hợp nữa. Đảng Cộng sản Bôn-sêvích đã quyết định chuyển sang

chính sách kinh tế mới (NEP) do
Lê-nin khởi thảo. Nhờ thực hiện
chính sách kinh tế mới mà các
ngành đại công nghiệp được phục
hồi nhanh chóng, nông nghiệp đã
cung cấp 87%, thành thị có đủ
thực phẩm (1924-1925). Từ tháng
12-1925, Đảng Cộng sản Liên Xô
đã đề ra nhiệm vụ công nghiệp
hoá, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. Công nghiệp hoá đạt
19


Cách
mạng
Việt
Nam
trước
khi
Đảng
Cộng
sản ra đời

của cách mạng ở các nước thuộc
địa, mối quan hệ giữa cách mạng
ở các nước thuộc địa, mối quan
hệ giữa cách mạng ở các nước
đế quốc với phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa.

- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái
Quốc về Quảng Châu (Trung
Quốc) tiếp xúc với các nhà cách
mạng Việt Nam ở đây lập ra Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên
(6-1925), mở các lớp huấn luyện
chính trị để đào tạo cán bộ do
Người trực tiếp giảng, các bài
giảng của Người sau được tập
hợp và in thành cuốn Đường
Kách mệnh (1927) vạch ra
những phương hướng cơ bản của
cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam.
- Sau khi Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên và Tân Việt
cách mạng đảng ra đời thì Việt
Nam Quốc dân đảng cũng được
thành lập (12-1927).
- Việt Nam Quốc dân đảng do
Nguyễn Thái Học, Phó Đức
Chính,… sáng lập là một Đảng
chính trị theo xu hướng cách
mạng dân chủ tư sản, tiêu biểu
cho bộ phận tư sản dân tộc Việt
Nam. Sau đó chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn được các nhà
lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân
Đảng tiếp thu.
Địa bàn hoạt động của Việt Nam

Quốc dân đảng là ở Bắc Kì. Mục
tiêu là đánh đuổi giặc Pháp, thiết
lập dân quyền, thành phần của
Đảng gồm sinh viên, học sinh,
công chức, tư sản lớp dưới, binh
lính.
- Sau sự kiện xảy ra vụ giết Badanh tên trùm mộ phu cho các
đồn điền cao su. Thực dân Pháp
tổ chức nhiều cuộc vây ráp lớn,
nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, cán
bộ từ Trung ương đến địa

được nhiều thành tựu quan trọng,
năm 1926, ngành chế tạo máy
vượt mức 1913, nhiều nhà máy
điện lớn được xây dựng như Vonkhốp, Đe-ni-ép, chỉ trong một
thời gian ngắn Liên Xô đã xây
dựng được một nền công nghiệp
nặng hiện đại.

- Trung Quốc diễn ra cuộc Cách
mạng Tân Hợi 1911 do Tôn
Trung Sơn lãnh đạo.
Tháng 9-1905, Tôn Trung Sơn
thành lập Trung Quốc đồng minh
hội – chính đảng của giai cấp tư
sản. Cương lĩnh hoạt động của
Đảng dựa trên học thuyết Tam
dân của Tôn Trung Sơn là “dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân

sinh hạnh phúc”. Trong đó cương
lĩnh còn nêu rõ mục tiêu là “đánh
đuổi giặc pháp, khôi phục lại
Trung Hoa, thành lập dân quốc,
bình quân địa quyền”.
- Dưới sự lãnh đạo của Trung
Quốc đồng minh hội, phong trào
cách mạng Trung Quốc phát triển
mạnh theo con đường dân chủ tư
sản. Tôn Trung Sơn và nhiều nhà
hoạt động cách mạng đã tích cực
chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc
khởi nghĩa vũ trang. Ngày 10-101911, Đồng minh hội phát động
khởi nghĩa ở Vũ Xương. Cuộc
khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng
và lan rộng ra tất cả các tỉnh miền
Nam và miền Trung Trung Quốc.
20


phương hầu hết bị Pháp bắt,
trước tình hình đó Việt Nam
Quốc dân Đảng quyết định khởi
nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở
Yên Bái, sau đó là Phú Thọ, Hải
Dương, Thái Bình, Hà Nội,…
- Khởi nghĩa Yên Bái nhanh
chóng bị thất bại, đồng thời
chấm dứt vai trò lãnh đạo cách
mạng của giai cấp tư sản dân tộc

Việt Nam trên vũ đài chính trị.
Đảng
Cộng - Sự ra đời của ba tổ chức cộng
sản Việt Nam sản là một xu thế tất yếu của
ra đời
cách mạng Việt Nam đã thúc đẩy
phong trào cách mạng Việt Nam
phát triển. Tuy nhiên, 3 tổ chức
cộng sản lại hoạt động riêng rẽ,
tranh giành ảnh hưởng của nhau,
nếu kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn
đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu cấp
thiết lúc này của cách mạng Việt
Nam là phải có một Đảng Cộng
sản thống nhất trong cả nước.
- Với tư cách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp
nhất 3 tổ chức cộng sản thành
một Đảng Cộng sản duy nhất lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị đã thông qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo. Đây được xem
là Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên là
một cương lĩnh giải phóng dân
tộc đúng đắn, vận dụng sáng tạo

chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam –
một nước thuộc địa của Pháp
mang tính dân tộc và giai cấp
sâu sắc.
Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt
Nam, chấm dứt thời kì khủng
hoảng về giai cấp và đường lối
cách mạng, khẳng định giai cấp

Tôn Trung Sơn được bầu làm
Tổng thống đứng đầu Chính phủ
lâm thời.

- Ảnh hưởng của cách mạng
tháng Mười Nga đến phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước
phương Đông; xuất hiện làn sóng
cách mạng dâng cao toàn thế giới,
lan rộng từ châu Âu sang châu Á,
châu Phi.
- Quốc tế Cộng sản được thành
lập năm 1919. Sự thành lập Quốc
tế Cộng sản có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt đối với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Nó góp
phần đẩy nhanh sự hình thành các
Đảng cộng sản ở nhiều nước,
Quốc tế III ra đời đánh dấu thắng

lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin với
chủ nghĩa cơ hội - xét lại. Tất cả
các đảng cách mạng chân chính
đã đoàn kết dưới ngọn cờ Quốc tế
III – trung tâm lãnh đạo của
phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, mà hạt nhân là Đảng
Bônsêvích Nga và Lênin.
- Hàng loạt các Đảng Cộng sản
trên thế giới ra đời: Đảng Cộng
sản Pháp 1920, Đảng Cộng sản
Trung Quốc 1921,…

21


vô sản nước ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Cuộc
vận - Trước tình hình thế giới và
động dân chủ trong nước có nhiều thay đổi,
1936 - 1939
Đảng xác định kẻ thù cụ thể
trước mắt của nhân dân Đông
Dương lúc này là bọn phản động
Pháp cùng bè lũ tay sai không
chịu thi hành chính sách của Mặt
trận nhân dân Pháp. Từ đó quyết
định tạm gác khẩu hiệu “Đánh
đổ đế quốc Pháp, Đông Dương

hoàn toàn độc lập”, “Tịch thu
ruộng đất của địa chủ chia cho
dân cày”, chỉ nêu những nhiệm
vụ trước mắt của nhân dân Đông
Dương là “Chống phát xít,
chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa
và bè lũ tay sai đòi tự do, cơm
áo, hoà bình”.
- Đảng đề ra chủ trương thành
lập Mặt trận nhân dân phản đế
Đông Dương (đến năm 1938 đổi
thành Mặt trận Dân chủ Đông
Dương), nhằm tập hợp mọi lực
lượng yêu nước dân chủ tiến bộ
đấu tranh chống chủ nghĩa phát
xít, bảo vệ hoà bình thế giới.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
mặt trận, nhiều phong trào đấu
tranh đã nổ ra như phong
trào đấu tranh tự do, đòi dân
sinh, dân chủ; đấu tranh nghị
trường; đấu tranh trên lĩnh vực
báo chí.
- Đến tháng 9-1939, khi chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ
phong trào kết thúc.
- Cuộc vận động dân chủ 19361939 là phong trào cách mạng
do Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo, diễn ra trên qui mô

rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần
chúng tham gia, với những hình
thức tổ chức và đấu tranh phong
phú; buộc chính quyền thực dân
phải nhượng bộ một số yêu sách

- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới 1929 - 1933 đã làm cho mâu
thuẫn xã hội các nước tư bản chủ
nghĩa ngày càng sâu sắc. Giai cấp
tư sản lũng đoạn nhiều nước tìm
lối thoát ra khỏi khủng hoảng
bằng cách thiết lập chế độ phát xít
điển hình là Đức, Italia và Nhật.
Chủ nghĩa phát xít là một chế độ
độc tài, tàn bạo nhất của tư bản
tài chính “đế quốc nhất, phản
động nhất, sô vanh nhất”. Chúng
ra sức xoá bỏ mọi quyền tự do
dân chủ của nhân dân trong nước
và ráo riết chuẩn bị cho cuộc
chiến tranh mới để chia lại thị
trường. Chúng mưu đồ tấn công
Liên Xô với hi vọng đẩy lùi
phong trào cách mạng vô sản
đang phát triển trong nước và trên
thế giới. Chủ nghĩa phát xít trở
thành mối nguy cơ dẫn đến chiến
tranh mới.
- Đứng trước nguy cơ đó, Đại hội

VII của Quốc tế Cộng sản (71935) xác định nhiệm vụ trước
mắt của phong trào cách mạng
thế giới là chống phát xít và nguy
cơ chiến tranh, bảo vệ hoà bình,
thành lập mặt trận nhân dân rộng
rãi.
- Tháng 6-1936, Mặt trận nhân
dân lên cầm quyền ở Pháp đã thi
hành những cải cách tiến bộ ở
thuộc địa. Chính phủ của mặt trận
nhân dân Pháp còn cử phái viên
sang điều tra và nới rộng một số
quyền tự do, dân chủ tối thiểu ở
các nước thuộc địa. Một số tù
chính trị ở Việt Nam được thả ra
và quay trở lại hoạt động.

22


về dân sinh, dân chủ. Qua phong
trào, quần chúng được tổ chức,
giác ngộ và rèn luyện trở thành
lực lượng chính trị hùng hậu của
cách mạng. Đội ngũ cán bộ, đảng
viên có sự phát triển về số lượng
và trưởng thành. Đảng thêm
trưởng thành một bước về chỉ
đạo chiến lược và tích lũy thêm
nhiều kinh nghiệm quí báu.

Việt
Nam - Năm 1939, cuộc Chiến tranhtrong những thế giới thứ hai bùng nổ và ngày
năm 1939 - càng lan rộng. Đến tháng 91945
1940, phát xít Nhật tiến vào
Đông Dương. Thực dân Pháp
từng bước dâng Đông Dương
cho Nhật. Chúng cấu kết với
nhau áp bức bóc lột nhân dân
Đông Dương.
- Dưới hai tầng áp bức bóc lột,
nhân dân ta vùng dậy đấu tranhvới khởi nghĩa Bắc Sơn (91940), khởi nghĩa Nam Kì (111940), binh biến Đô Lương (11941). Mặc dù thất bại do nổ ra
không đúng thời cơ, thiếu sự
chuẩn bị chu đáo,… song nó đã
để lại cho Đảng Cộng sản Đông
Dương nhiều bài học bổ ích về
khởi nghĩa vũ trang, về xây dựng
lực lượng vũ trang du kích,
chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa,…

Cao trào cách
mạng tiến tới
Tổng
khởi
nghĩa tháng
Tám
năm

- Nguyễn Ái Quốc về nước triệu
tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (tháng 51941).

Hội nghị chủ trương đặt nhiệm

- Rạng sáng 1-9-1939, Đức bất
ngờ tấn công Ba Lan. Hai ngày
sau Anh, Pháp buộc phải tuyên
chiến với Đức. Chiến tranh thế
giới II bùng nổ. Với ưu thế vượt
trội về sức mạnh quân sự, quân
Đức áp dụng chiến lược “Chiến
tranh chớp nhoáng” và chỉ trong
gần 1 tháng đã chiếm được Ba
Lan.
- Từ tháng 4-1940, Đức chuyển
hướng tấn công sang phía Tây,
nhanh chóng chiếm được hầu hết
các nước tư bản châu Âu và đánh
thẳng vào nước Pháp. Nước Pháp
nhanh chóng bại trận.
- Tháng 9-1940, quân Nhật kéo
vào Đông Dương.
- Sáng 7-12-1941, Nhật Bản bất
ngờ tấn công hạm đội Mĩ ở Trân
Châu cảng, căn cứ hải quân chủ
yếu của Mĩ ở Thái Bình Dương.
Hạm đội Mĩ bị thiệt hại nặng nề.
Mĩ tuyên chiến với Nhật Bản, sau
đó là với Đức và Italia. Chiến
tranh lan rộng ra toàn thế giới.
- Quân Nhật mở cuộc tấn công ồ
ạt xuống các nước Đông Nam Á

và đã chiếm được một vùng rộng
lớn. Tới năm 1942, Nhật Bản đã
thống trị khoảng 8 triệu km2 đất
đai với trên 500 triệu dân ở Đông
Bắc Á và Đông Nam Á.
- Rạng sáng ngày 22-6-1941, Đức
bất ngờ tấn công Liên Xô với
chiến lược “Chiến tranh chớp
nhoáng”, bằng một lực lượng
quân sự khổng lồ 5,5 triệu quân.
23


1945

vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu và nhấn mạnh đó là nhiệm
vụ “bức thiết nhất”; tiếp tục tạm
gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng
đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu
giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng
công.
Hội nghị quyết định thành
lập ở mỗi nước Đông Dương
một mặt trận riêng. Việt Nam
độc lập đồng minh (Việt Minh)
là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt
Nam, không phân biệt giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín
ngưỡng.

Hội nghị đã đề ra chủ trương
khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị
khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ
một cuộc tổng khởi nghĩa bùng
nổ và thắng lợi phải có đủ điều
kiện chủ quan, khách quan và
phải nổ ra đúng thời cơ; đi từ
khởi nghĩa từng phần lên tổng
khởi nghĩa.
- Để trừ hậu hoạ bị đánh sau
lưng và giữ Đông Dương làm
cầu nối đi từ Trung Quốc xuống
các căn cứ phía Nam, ngày 9-31945, Nhật đảo chính lật đổ
Pháp, độc chiếm Đông Dương.
Sự kiện đó tạo nên một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc ở
Đông Dương.
- Trước tình hình đó, ngày 12-31945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của
chúng ta, xác định kẻ thù chính
cụ thể, trước mắt của nhân dân
Đông Dương lúc này là phát xít
Nhật. Hội nghị chủ trương “phát
động một cao trào kháng Nhật
cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa”.
- Từ tháng 3-1945 trở đi, cách
mạng nước ta chuyển sang cao

trào với những cuộc khởi nghĩa

Ba đạo quân Đức đã nhanh chóng
tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô:
đạo quân phía Bắc bao vây
Lêningrát
(nay

Xanh
Pêtécbua); đạo quân trung tâm
tiến tới ngoại vi thủ đô
Mátxcơva; đạo quân phía Nam
chiếm đóng Kiép và phần lớn
Uccraina. Sau những trận đánh ác
liệt, tháng 12-1941, Hồng quân
Liên Xô đã phản công thắng lợi.
Quân Đức bị đẩy lùi khỏi thủ đô.
Chiến thắng Mátxcơva đã làm
phá sản chiến lược “Chiến tranh
chớp nhoáng” của Đức.
- Mùa hè năm 1942, quân Đức
chuyển hướng tấn công xuống
phía Nam, tiến đánh Xtalingrát
nhằm chiếm các vùng lương
thực, dầu mỏ và than đá quan
trọng nhất của Liên Xô. Sau hơn
2 tháng tấn công, quân Đức vẫn
không chiếm được thành phố này.
- Trận phản công tại Xtalingrát từ
tháng 11-1942 đến tháng 2-1943

của Hồng quân Liên Xô đã tạo
nên bước ngoặt căn bản của cuộc
chiến tranh thế giới II. Quân đội
Đức đã bị tổn thất hết sức nặng nề
(33 vạn quân tinh nhuệ bị tiêu
diệt và bắt sống). Từ đây, Liên Xô
và các nước Đồng minh chuyển
sang giai đoạn tấn công đồng loạt
trên các mặt trận.
- Tiếp đó, Hồng quân đã nhanh
chóng bẻ gãy cuộc tấn công gần
như là cuối cùng của quân Đức ở
vòng cung Cuốcxcơ, đánh tan 30
sư đoàn Đức.
- Tới tháng 6-1944, phần lớn lãnh
thổ Xô Viết đã được giải phóng.
- Ở Thái Bình Dương, sau trận
thắng lớn ở đảo Guađancanan (từ
tháng 8-1942 đến tháng 1-1943)
quân Mĩ đã tạo ra được bước
ngoặt quan trọng và chuyển sang
phản công, lần lượt đánh chiếm
các đảo ở Thái Bình Dương.
24


Tổng
khởi
nghĩa tháng
Tám

năm
1945 và sự
thành
lập
nước
Việt
Nam Dân chủ
cộng hoà

từng phần giành chính quyền
từng bộ phận diễn ra ở nhiều địa
phương.
- Ngay khi nghe tin chính phủ
Nhật đầu hàng, Trung ương Đảng
và Tổng bộ Việt Minh thành lập
Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc
(13-8-1945) và ra Quân lệnh số
1 quyết định phát động Tổng
khởi nghĩa trong cả nước, giành
chính quyền trước khi quân
Đồng minh vào.
- Từ ngày 14 đến 15-8-1945, Hội
nghị toàn
quốc
của Đảng
họp ở Tân Trào, thông qua
kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng
khởi nghĩa.
- Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày
17-8-1945, Đại hội quốc

dân ở Tân Trào tán thành
chủ trương Tổng khởi nghĩa
của Đảng, thông qua 10 chính
sách của Việt minh, cử ra Uỷ ban
giải phóng dân tộc Việt Nam do
Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta
đã nhất tề nổi dậy khởi nghĩa
giành chính quyền và nhanh
chóng giành thắng lợi trong cả
nước.
- Ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ lâm
thời đọc
“Tuyên
ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên
bố với toàn thể quốc dân và cả
thế giới: nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà thành lập.

- Tháng 6-1944, liên quân Đồng
minh mở Mặt trận thứ hai ở Tây
Âu bằng cuộc đổ bộ vào miền
Bắc nước Pháp. Phong trào khởi
nghĩa vũ trang của nhân dân Pháp
nổi lên khắp nơi, làm chủ Pari và
giải phóng toàn bộ nước Pháp.

Quân Đồng minh tiến vào giải
phóng các nước Bỉ, Hà Lan,
Lúcxămbua, chuẩn bị tấn công
nước Đức.
- Tháng 2-1945, quân Đồng minh
tấn công quân Đức từ Mặt trận
phía Tây. Tháng 4-1945, Hồng
quân Liên Xô mở cuộc tấn công
vào Béc-lin, đập tan sự kháng cự
của hơn 1 triệu quân Đức. Hítle tự
sát.
- Ngày 9-5-1945, nước Đức kí
văn bản đầu hàng không điều
kiện, chiến tranh chấm dứt ở châu
Âu.
- Ở mặt trận Thái Bình Dương,
liên quân Mĩ – Anh triển khai
cuộc tấn công đánh chiếm Miến
Điện và quần đảo Philíppin. Ở
Đông Bắc Á, ngày 8-8-1945, Liên
Xô tuyên chiến với Nhật Bản, mở
cuộc tấn công vào đạo quân Quan
Đông của Nhật ở Mãn Châu.
- Mĩ ném hai quả bom nguyên tử
xuống Hirôsima (6-8-1945) và
Nagasaki (9-8-1945), giết hại
hàng trăm nghìn người chỉ trong
phút chốc.
- Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu
hàng không điều kiện. Chiến

tranh thế giới thứ hai kết thúc.

25


×