Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.65 KB, 33 trang )

CHUYÊN ĐỀ
MỐI QUAN HỆ
GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ 1919 ĐẾN 1945.

Năm 2019
1


MỤC LỤC

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn chuyên đề
Lịch sử của mỗi dân tộc đều nằm trong dòng chảy chung của lịch sử nhân
loại. Lịch sử dân tộc chịu sự tác động của lịch sử thế giới và lịch sử thế giới có
được là từ sự đóng góp của lịch sử các dân tộc. Muốn đánh giá một sự kiện hay
một nhân vật lịch sử nào đó của dân tộc cần phải đặt trong bối cảnh quốc tế lúc
đó như thế nào. Muốn đưa ra một chủ trương, chính sách gì thì phải nghiên cứu
mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc và thế giới trong thời gian qua, hiện tại và dự
đoán trong thời gian tới. Do đó, việc tìm hiểu quan hệ giữa lịch sử dân tộc với
lịch sử thế giới trong mọi thời kì lịch sử giữ vai trò rất quan trọng. Là giáo viên
bộ môn Lịch sử ở trường THPT Chuyên, tôi nhận thấy việc truyền đạt kiến thức
phần quan hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới cho học sinh rất lí thú và
ý nghĩa. Mặt khác, kiến thức phần quan hệ giữa lịch sử Việt Nam với lịch sử thế
giới là nội dung khá quan trọng trong các kì thi Quốc gia môn Lịch sử.
Mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945
là một trong những chuyên đề giảng dạy các lớp chuyên lịch sử và bồi dưỡng
HSGQG môn Lịch sử ở trường phổ thông. Được thống nhất tại Hội thảo các


trường chuyên tổ chức ở Hưng Yên tháng 11 . 2019, tôi đã tập hợp một số tài
liệu và nghiên cứu viết chuyên đề “Mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch
sử Việt Nam từ 1919 đến 1945”, nhằm cung cấp cho giáo viên, học sinh tham
khảo khi giảng dạy, ôn luyện để chuẩn bị cho các kì thi HSG Quốc gia môn Lịch
sử.
2. Mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.
2.1. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề.
Chuyên đề góp phần giúp học sinh có kiến thức sâu sắc và nhận thức đầy
đủ hơn về Quan hệ lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam trong giai đoạn từ năm
1919 đến 1945. Qua đó, học sinh biết phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh…
Bên cạnh đó, một số câu hỏi trong chuyên đề liên quan mật thiết với kiến thức
cơ bản, mang tính thực tế, khả năng vận dụng cao và được trả lời tương đối khoa
học, logic... .
3


2.2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.
Một số nội dung kiến thức chuyên sâu về quan hệ giữa lịch sử thế giới và
lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945.
Các câu hỏi thường gặp về quan hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt
Nam từ 1919 đến 1945.
3. Cấu trúc của chuyên đề gồm các phần.
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung: Gồm 02 chương:
 Chương I. Những sự kiện trong lịch sử thế giới có ảnh hưởng đến lịch sử

Việt Nam từ 1919 đến 1945.
 Chương II. Một số câu hỏi thường gặp trong chuyên đề.

4



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG SỰ KIỆN TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
LỊCH SỬ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1919 -1945.
1. Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở Phương Tây và các nước Châu
Á sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cách mạng Tân Hợi với tư tưởng Tam
dân của Tôn Trung Sơn và các trào lưu dân chủ tư sản phương Tây tiếp tục có
ảnh hưởng lớn đến cách mạng Việt Nam, tác động đến giai cấp tư sản và tầng
lớp tiểu tư sản, hướng cách mạng Việt Nam theo con đường dân chủ tư sản. Sở
dĩ khuynh hướng dân chủ tư sản tiếp tục hoạt động sau khi đã thất bại ở những
năm đầu thế kỉ XX là do tác động từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của Pháp
làm cho yếu tố tư bản chủ nghĩa xâm nhập vào nước ta nhanh hơn, mạnh hơn;
bộ mặt kinh tế, xã hội có sự thay đổi nhanh chóng; lực lượng tư sản dân tộc
mạnh hơn trước, đây là nền tảng để tư sản dân tộc Việt Nam và những địa chủ
yêu nước kinh doanh theo con đường tư bản tiếp tục duy trì khuynh hướng cứu
nước theo con đường dân chủ tư sản.
Trong những năm 20 của thế kỉ XX, nhiều nhà tư sản dân tộc bị Pháp
chèn ép trong kinh doanh buôn bán nên đã tập hợp lực lượng, sử dụng báo chí
để đấu tranh đòi quyền lợi nhằm đạt được những thuận lợi trong kinh doanh
buôn bán, lập tổ chức chính trị với đỉnh cao là sự thành lập Việt Nam Quốc dân
đảng và tiến hành cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
2. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 tạo ra những
chuyển biến căn bản của tình hình thế giới.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã chọc thủng
khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, chiếm 1/6 diện tích
trái đất. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một cuộc cách mạng vô sản thành
công đã lập nên một nước Xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân lao động

với nền tảng là công - nông - binh. Cuộc cách mạng này đã giải quyết được 4
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Nga lúc bấy giờ là đế quốc với đế quốc, nông dân
5


với chế độ phong kiến Nga Hoàng, giữa các dân tộc đang sống trên đất nước
Nga với chế độ phong kiến Nga hoàng, giữa vô sản và tư sản. Vì vậy cuộc cách
mạng này không chỉ ảnh hưởng lớn tới nước Nga mà còn cả thế giới, nó được ví
như ánh thái dương chiếu khắp năm châu, soi sáng cho các dân tộc bị áp bức con
đường đứng lên đấu tranh, giành lại độc lập tự do. Đúng như nhận định:“Chủ
nghĩa tư bản không còn là một một hệ thống duy nhất trên thế giới nữa và một
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện. Cuộc cách mạng
tháng Mười đã ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện toàn thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới” .
3.Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới.
Do hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và ảnh hưởng sâu sắc
của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và
phát triển mạnh mẽ trong những năm 1918 – 1923 ở hầu hết các nước tư bản,
các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Cao trào cách mạng 1918 - 1923 ở các nước tư bản Âu - Mỹ diễn ra dưới
ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và hậu quả của Chiến tranh thế giới
thứ nhất làm cho chính phủ tư sản khủng hoảng, suy yếu, từ trong phong trào,
nhiều đảng cộng sản đã ra đời như đảng cộng sản: Đức (1918), Pháp (1920), Mỹ
(1921). Như vậy khuynh hướng vô sản đã vượt ra khỏi nước Nga và lan sang các
nước tư bản Âu - Mỹ vượt qua sự kiểm soát của chủ nghĩa đế quốc.
Cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
phương Đông dưới ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và hậu quả của
Chiến tranh thế giới thứ nhất làm cho chính phủ thuộc địa suy yếu, từ trong
phong trào, nhiều đảng cộng sản đã ra đời, đứng lên vũ đài chính trị, lãnh đạo
cách mạng đấu tranh. Từ phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc 1919 dẫn đến sự ra

đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc 1921, phong trào chống thực dân Hà Lan ở
Indonexia dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Indonêxia, phong trào chống
Anh ở Ấn Độ dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Ấn Độ 1925, nhìn chung
khuynh hướng vô sản đã du nhập vào các nước phương Đông và ngày càng phát
triển mạnh.
Phong trào cách mạng thế giới tiếp tục phát triển theo thời gian chống lại
sự áp bức bóc lột và sự cực đoan của chủ nghĩa đế quốc.
6


4. Quốc tế cộng sản được thành lập (1919) và chỉ đạo phong trào cách
mạng thế giới.
Quốc tế cộng sản thành lập vào năm 1919 và có những hoạt động tích
cực, bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thế giới, đặc biệt tại đại hội II của Quốc tế Cộng sản năm 1920 đã thông qua
luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, từ đó có những định
hướng quan trọng cho phong trào cách mạng các nước phương Đông. Tại Pháp,
Ngyễn Ái Quốc đã được tiếp xúc với luận cương và quyết định lựa chọn con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân VN đi theo khuynh hướng vô
sản. Quốc tế Cộng sản tiếp tục chỉ đạo cách mạng thế giới qua các kì đại hội,
đặc biệt qua các Đại hội V, VII.
Trong quá trình hoạt động, Quốc tế Cộng sản cũng có những bất đồng
trong nội bộ, xuất hiện khuynh hướng tả khuynh, coi trọng đấu tranh giai cấp mà
nhẹ về đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguyên nhân dẫn đến điều đó là do lãnh
đạo Quốc tế cộng sản là những nhà cách mạng ở châu Âu, không chứng kiến và
chịu cảnh mất độc lập giống các nước phương Đông nên không có nhu cầu giải
phóng dân tộc. Đây chính là 1 trong 3 lí do dẫn đến luận cương chính trị tháng
10/1930 do đồng chí Trần Phú soạn thảo có hạn chế vì chịu ảnh hưởng, chi phối
bởi tư tưởng tả khuynh của Quốc tế Cộng sản.
5. Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ nhất – “Trật tự

Vecxai - Oasinhton”
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra thời kì mới trong quan hệ
quốc tế, làm thay đổi cục diện tình hình thế giới, đặc biệt là ở châu Âu. Chiến
trường chính diễn ra ở các nước châu Âu nên các cường quốc châu Âu đều bị
suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh, Pháp đều thắng trận nhưng nền kinh tế
đều bị suy yếu và trở thành con nợ của Mĩ.
Các Hội nghị hòa bình được triệu tập tại Vecxai và Oasinhtơn nhằm tổ
chức lại thế giới sau chiến tranh. Đây là cuộc đấu tranh phân chia quyền lợi giữa
các nước đế quốc, do đó Hội nghị đã diễn ra trong không khí đấu tranh căng
thẳng, gay gắt giữa các nước tư bản thắng trận.
Hội nghị Vecxai họp từ ngày 18-1-1919 ở Pari với sự tham gia của 27
nước, nhưng quyền quyết định là do 3 vị đứng đầu của các nước Mĩ, Anh và
Pháp. Báo chí tư sản ra sức tuyên truyền cho "sứ mệnh hoà bình" của Hội nghị
7


Vecxai ("Hòa hội Vecxai"). Theo họ, đó là một nền "hoà bình dân chủ, công
bằng", "quyền tự quyết dân tộc". Đây là một cuộc họp của bọn đế quốc mang
tính "ăn cướp", như Lênin nhận định.
"Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn", hoàn thành việc phân chia thế giới, thiết
lập một trật tự thế giới sau chiến tranh. Trật tự thế giới này hoàn toàn phục vụ
quyền lợi của giai cấp thống trị các nước đế quốc, chà đạp lên quyền lợi của các
dân tộc đồng thời cũng gây mâu thuẫn giữa các nước thắng trận và bại trận và
nhằm tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Nội bộ phe đế quốc cũng bị
phân chia thành những nước thỏa mãn và bất mãn với hệ thống này, tạo nên
mầm mống của những cuộc xung đột quốc tế trong tương lai. Như vậy, hòa bình
thế giới đã được lập lại trong một trật tự chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.
6. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933 và hệ quả của nó.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 ở các nước tư bản là cuộc
khủng hoảng thừa, đã tác động lớn đến các nước thuộc địa của họ: vì hàng hóa ế

ẩm không bán được nên họ sa thải công nhân dẫn đến công nhân thất nghiệp,
những người kinh doanh buôn bán bị phá sản, thua lỗ, nông dân không có ruộng
đất để cày cấy, trí thức ở các thành thị khó khăn. Chỉ trừ tư sản mại bản, đại địa
chủ ít bị tác động bởi cuộc khủng hoảng còn mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội
nước ta đều điêu đứng. Và đây cũng chính là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ
phong trào cách mạng 1930-1931.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, gây hậu quả nặng nề về
kinh tế, chính trị đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Mâu
thuẫn xã hội trong các nước tư bản phát triển gay gắt. Phong trào đấu tranh của
quần chúng dâng cao.
Để cứu vãn tình thế và giải quyết hậu quả của khủng hoảng, trong thế giới
tư bản hình thành hai xu hướng tìm kiếm con đường phát triển khác nhau: Các
nước Anh, Pháp, Mĩ có nhiều thuộc địa, có thị trường rộng lớn chủ trương tiếp
tục duy trì chế độ đại nghị, duy trì nguyên hệ thống V - O. Các nước có ít thuộc
địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyện liệu và thị trường đã đi theo con đường
phát xít hóa chế độ chính trị (điển hình là Đức, Ý, Nhật). Chúng thực hiện chế
độ độc tài phát xít, hình thành khối liên minh phát xít Đức - Ý - Nhật (gọi phe
Trục) . Phe Trục tuyên bố công khai chống lại Quốc tế Cộng sản và loài người,
tích cực chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh đòi chia lại thị trường thế giới.
8


Như vậy kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân loại lúc này không phải là chủ nghĩa
đế quốc nói chung mà là bọn phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới.
Thái độ của các nước lớn đối với chủ nghĩa phát xít đó là không thống
nhất, không có chủ trương chung, Liên Xô thì chủ trương hợp tác với các nước
để chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ của chiến tranh trong khi Anh, Pháp chỉ
muốn giữ lại trật tự thế giới có lợi cho mình đồng thời cũng thù ghét chủ nghĩa
cộng sản nên giữ lại độ dung túng, muốn thỏa hiệp với phát xít để chĩa mũi nhọn
tấn công vào Liên Xô. Mĩ thì tiếp tục theo đuổi chính sách trung lập, không quan

tâm đến những sự kiện ngoài châu Mĩ. Điều đó càng tạo điều kiện cho phát xít
ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Đỉnh cao của sự thỏa hiệp giữa Anh, Pháp với phát
xít việc là kí với Đức hiệp ước Muy-ních 1938, cắt vùng đất Xuydet của Tiệp
Khắc để đổi lại lời hứa Đức sẽ tấn công Liên Xô.
Quốc tế Cộng sản tiến hành đại hội lần VII tại Mascova tháng 7/1935 chỉ
rõ kẻ thù của nhân loại lúc này là chủ nghĩa phát xít cùng nguy cơ chiến tranh
thế giới, từ đó kêu gọi các nước thành lập mặt trận nhân dân chống phát xít,
chống chiến tranh. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Đông Dương do Lê Hồng
Phong dẫn đầu đến dự để tiếp thu tinh thần của đại hội rồi trở về triển khai cho
phù hợp với tình hình mới.
Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, phong trào đấu tranh chống phát
xít diễn ra mạnh mẽ. Trong cuộc đấu tranh chống lại quá trình phát xít hóa chính
quyền, Mặt trận nhân dân Pháp thắng cử lên nắm chính quyền. Chính phủ mặt
trận nhân dân Pháp ban hành nhiều chính sách tiến bộ, trong đó có nhiều chính
sách tiến bộ cho các thuộc địa như thả tù chính trị, ban hành các quyền tự do dân
chủ, được quyền ứng cử, bầu cử, cho phép các đảng phái chính trị hoạt động…
Những chính sách ấy làm cho đời sống chính trị của nhân dân ta bớt ngột ngạt
hơn, nhiều chiến sĩ yêu nước cách mạng ra tù đã tìm về cơ sở tiếp tục hoạt động,
các tổ chức đảng phái chính trị tranh thủ gây ảnh hưởng trong dân chúng, báo
chí được xuất bản ngày một nhiều… Tuy nhiên bọn phản động thuộc địa Pháp
và tay sai lại luôn tìm cách ngăn cản, không cho nhân dân ta được hưởng những
quyền tự do dân chủ.
Rõ ràng nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta lúc này là phải chĩa mũi
nhọn vào bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai. Thấu hiểu được nguyện vọng

9


của nhân dân nên tháng 7/1936 hội nghị BCH TW Đảng được diễn ra do Lê
Hồng Phong triệu tập.

7. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945).
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Pháp là một bên
tham chiến, về sau bị Đức đánh bại. Ở châu Âu, Chiến tranh thế giới đã bao
trùm.
Khi chiến tranh xảy ra và nước Pháp tham chiến, chính phủ Pháp đã thi
hành chính sách thời chiến ở các nước thuộc địa trong đó có Đông Dương, chính
sách thời chiến làm cho mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam trở nên
ngột ngạt, mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt, đặt ra nhiệm vụ cần phải giải
quyết. Về kinh tế, ra sức vơ vét bóc lột của cải của quần chúng nhân dân để đổ
vào cuộc Chiến tranh thế giới dẫn đến tình trạng khan hiếm lương thực, giá cả
đắt đỏ, nhân dân đói khổ. Về chính trị, quân sự, những quyền tự do dân chủ của
nhân dân ta đấu tranh đòi được trong giai đoạn 1936 - 1939 đều bị thủ tiêu,
chúng lùng sục bắt lính dẫn đến nhiều gia đình mất người thân ruột thịt, những
người bị bắt lính đều bị đưa sang châu Âu làm bia đỡ đạn cho quân Pháp trên
chiến trường, làm cho nhân dân rất căm phẫn. Đối với phong trào yêu nước cách
mạng, Pháp tăng cường khủng bố, đàn áp, nhiều chiến sĩ cách mạng, đảng viên
bị bắt và cầm tù. Như vậy, mâu thuẫn dân tộc lúc này đặt ra nhiệm vụ cần phải
giải quyết. Thấu hiểu được nguyện vọng của nhân dân và trước bối cảnh thế giới
trong nước đã thay đổi nên tháng 11/1939, đảng triệu tập hội nghị lần thứ VI tại
Hooc môn (Bà Điểm- Gia Định) do Nguyễn Văn Cừ chủ trì, hội nghị quyết định
đặt nhiệm vụ giải phóng các dân tộc Đông Dương lên hàng đầu, đưa nhân dân ta
trực tiếp vào cuộc vận động cứu nước.
Đến tháng 9/1940, ở châu Âu, Đức đã thôn tính nhiều nước Đông Âu, Tây
Âu trong đó có nước Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng phải chạy sang nước Anh
ẩn náu, phong trào chống phát xít ở châu Âu diễn ra rộng khắp
Sau khi xâm chiếm cùng Đông Bắc rộng lớn của Trung Quốc, Nhật đã
tiến vào biên giới Việt - Trung sau đó xâm lược Đông Dương.Vì quyền lợi của
mình, Pháp đã chống Nhật nhưng thất bại nhanh chóng, về sau cùng câu kết với
Nhật để cai trị, bóc lột nhân dân Đông Dương.
Pháp tiếp tục chính sách thời chiến đối với nhân dân Đông Dương nên

mâu thuẫn dân tộc tiếp tục diễn ra căng thẳng.
10


Từ khi Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta lại có thêm kẻ thù mới nguy
hiểm hơn là phát xít Nhật và tay sai của chúng. Chính sách cai trị, bóc lột của
Nhật - Pháp đã làm cho dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Chưa khi nào
mâu thuẫn xã hội lại cao như lúc này. Vì thế nhiệm vụ giải phóng dân tộc tiếp
tục được đặt ra.
Trước tình hình trên, tháng 11/1940, hội nghị lần 7 của BCH TW Đảng
Cộng sản Đông Dương đã diễn ra, tiếp tục đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tôc
lên hàng đầu, sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, Đảng đã chủ trương thành lập
và duy trì đội khởi nghĩa Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Bắc Sơn,
Võ Nhai đồng thời hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ vì chưa có điều kiện.
Từ cuối 1940 đến đầu 1941, ở châu Âu, Đức đã thôn tính gần hết các
nước, chỉ trừ một số nước trung lập ở Bắc Âu, nước Anh cũng bị Đức dùng
không quân oanh tạc, phát xít Đức huy động lực lượng chuẩn bị tấn công Liên
Xô bằng cuộc chiến tranh chớp nhoáng, dự kiến sẽ thôn tính Liên Xô trong một
tháng. Lúc này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Liên Xô, nắm rõ tình hình
của chiến tranh thế giới đã tiên đoán: "khi Đức tấn công Liên Xô thì tính chất
Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ thay đổi, các nước phát xít sẽ là phi nghĩa, nhân
dân Liên Xô và các nước chống phát xít sẽ là chính nghĩa, sớm muộn gì phe
phát xít cũng thất bại, lúc ấy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
(bị phát xít chiếm đóng) sẽ có cơ hội giành thắng lợi nhưng muốn giành được
thắng lợi thì phải có sự chuẩn bị chu đáo”. Với tiên đoán như vậy, Nguyễn Ái
Quốc quyết định trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng.
Đồng thời, ở châu Á, phát xít Nhật tiếp tục mở rộng đánh chiếm nhiều
nước, làm dấy lên phong trào chống Nhật diễn ra khắp nơi, hình thành một mặt
trận các dân tộc đoàn kết chống Nhật ở châu Á.
Chính sách của Nhật, Pháp và tay sai trong cai trị, bóc lột nhân dân Đông

Dương làm cho mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội không chịu nổi. Chỉ trừ đại
địa chủ và tay sai còn mọi lực lượng trong xã hội đều có mâu thuẫn, đều mong
muốn được giải phóng dân tộc để giành độc lập và tự do.
Trong mối quan hệ giữa Nhật và Pháp đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn nội
bộ vì hai tên đế quốc không thể chung nhau chia sẻ cùng cai trị bóc lột ở Đông
Dương, cả Nhật và Pháp đều muốn độc chiếm Đông Dương, Pháp tuy phải phục
11


vụ Nhật về kinh tế, về mở đường cho quân Nhật nhưng lại có bất đồng, vì vậy
sớm muộn gì cũng sẽ diễn ra cuộc đảo chính.
Đảng Cộng sản Đông Dương lúc này luôn theo dõi tình hình thế giới và
trong nước, thấu hiểu được nguyện vọng của nhân dân nên đã có những chủ
trương, đường lối để hiện thực hóa phong trào yêu nước giải phóng dân tộc, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết.
Sau khi trở về nước, liên lạc với các cơ sở Đảng, từ 10-19/5/1941,
Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ VIII tại
Pác Bó, Cao Bằng. Hội nghị đã có những quyết định lịch sử : gương cao hơn
nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, mọi nhiệm vụ khác tạm thời gác
lại, vấn đề dân tộc lúc này là trên hết nhưng cần phải giải quyết trong khuôn khổ
từng nước Đông Dương để phát huy ưu thế của cách mạng mỗi nước, mặt trận
Việt Minh được ra đời nhằm mục đích đó, hội nghị đánh dấu hoàn chỉnh sự
chuyển hướng đấu tranh của Đảng đã được đưa ra từ hội nghị Ban chấp hành
TW lần thứ VI (1939).
Ở châu Âu, từ cuối 1944, quân Đồng minh chuyển sang phản công quân
phát xít trên nhiều mặt trận, điển hình là chiến thắng của quân Liên Xô đánh dấu
bước ngoặt của chiến tranh thế giới, hàng loạt các nước Đông Âu, Tây Âu được
giải phóng, phát xít Đức sắp bị tiêu diệt hoàn toàn, số phận quân Nhật ở châu Á
cũng đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Tháng 2 năm 1945, Chiến tranh thế
giới thứ hai đang bước vào giai đoạn cuối, hội nghị Ianta diễn ra với những

quyết định lịch sử thúc đẩy chiến tranh kết thúc nhanh hơn.
Đầu 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng
quân Liên Xô giải phóng các nước Đông Âu và tiến vào nước Đức. Quân Anh –
Mĩ giải phóng nước Pháp rồi tiến vào phía Tây. Ở mặt trận Châu Á- Thái Bình
Dương, quân Đồng minh phản công, giáng cho quân Phát xít Nhật những đòn
nặng nề. Sau khi Mĩ chiếm lại Philippin, đường biển của Nhật đi xuống các căn
cứ phía Nam bị cắt đứt, chỉ còn con đường bộ duy nhất là qua Đông Dương. Vì
vậy Nhật cần độc chiếm Đông Dương bằng mọi giá.
Sau khi nước Pháp dược giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, lực
lượng Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào đánh
Nhật thì sẽ khôi phục lại quyền thống trị của mình như trước, mâu thuẫn Nhật Pháp hết sức căng thẳng.
12


Để tránh bị động, đêm 9/3/1945, Nhật ra tay trước, tiến hành đảo chính
Pháp trên toàn Đông Dương, Pháp thất bại nhanh chóng. Tình hình thay đổi theo
chiều hướng có lợi cho cách mạng Đông Dương.
Từ khi Nhật đảo chính Pháp đã đem lại tình thế mới cho cách mạng Việt
Nam: nhân dân ta đã bớt đi 1 kẻ thù nguy hiểm là thực dân Pháp và tay sai, chỉ
còn lại phát xít Nhật cùng tay sai của chúng, đòi hỏi Đảng cần có sự điều chỉnh
về kẻ thù và đường lối đấu tranh.
Sau ngày đảo chính, Nhật sử dụng những thủ đoạn để tuyên truyền, lừa
bịp nhân dân ta: tuyên truyền Nhật đã giúp Đông Dương giành được độc lập từ
tay Pháp, nhấn mạnh về vai trò của Nhật, đưa ra khẩu hiệu "Việt - Nhật đuề
huề", kêu gọi nhân dân ta ủng hộ Nhật, học tiếng Nhật… nhưng những thủ đoạn
của Nhật đều bị nhân dân ta lật tẩy vì chúng tiếp tục chính sách cai trị bóc lột,
bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, làm tăng thêm hậu quả nạn đói từ cuối năm 1944
đến đầu năm 1945 với hơn 2 triệu đồng bào Bắc Kì chết đói. Nhật cũng chuẩn bị
thành lập chính phủ bù nhìn tay sai…
 Trong bối cảnh này, cần phải phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước,

tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Vì vậy ngay khi biết tin Nhật đảo
chính Pháp, Ban Thường vụ TW Đảng đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp tại làng
Đình Bảng - Bắc Ninh, từ đó phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.
Tháng 5/1945, sau hàng loạt cuộc truy kích vào nước Đức, Đức phải đầu
hàng quân Đồng minh vô điều kiện, Chiến tranh kết thúc ở châu Âu làm cho
quân Nhật ở châu Á lo sợ về số phận của mình. Tháng 8/1945, thực hiện đúng
thỏa thuận của hội nghị Ianta , Hồng quân Liên Xô tuyên chiến chống Nhật sau
đó nhanh chóng tiêu diệt hơn 1 triệu quân Quan Đông của Nhật Bản ở vùng
Đông Bắc Trung Quốc, cùng thời gian này, Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống
hai thành phố Nagaxaki và Hirosima của Nhật Bản làm hơn 10 vạn người chết,
nước Nhật bị tàn phá. Điều này làm cho quân Nhật ở Đông Dương hoảng loạn,
không còn tinh thần chiến đấu. Lúc này Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng luôn
theo dõi sát tình hình đã dự đoán sớm muộn gì trong một vài ngày tới, Nhật
cũng sẽ phải đầu hàng quân Đồng Minh, khi ấy thời cơ giành chính quyền cho
dân tộc ta sẽ đến nên cần phải chuẩn bị gấp rút và sẵn sàng hành động.
Từ ngày 7/7-18/8/1945, diễn ra hội nghị Pốtxđam tiếp tục có những thỏa
thuận giữa các nước Đồng minh tác động trực tiếp đến cách mạng nước ta: hội
13


nghị đồng ý cho quân Anh và quân Trung Hoa Dân Quốc vào Đông Dương làm
nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc.
Như vậy, cách mạng nước ta sẽ gặp khó khăn nếu không biết chớp thời cơ.
Ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng quân đồng
minh vô điều kiện trên đài phát thanh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với
sự thất bại hoàn toàn thuộc về phe phát xít.
Những thắng lợi của quân Đồng minh trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát
xít đã đem lại thời cơ thuận lợi cho các nước đang bị phát xít chiếm đóng đứng
lên giành chính quyền và tuyên bố độc lập. Đây là cơ hội chung cho tất cả các
nước, riêng đối với Việt Nam thì đây là thời cơ “ngàn năm có một”, thời cơ này

là sự hội tụ của tất cả những yếu tố khách quan lẫn chủ quan:
+ Về khách quan: Việc Nhật đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện thì
kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân ta đã ngã gục, bọn tay sai của chúng là
chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim hoang mang không còn chỗ dựa.
+ Về chủ quan: công tác chuẩn bị của nhân dân ta đã hoàn tất từ khi đảng
ra đời, đặc biệt được chuẩn bị gấp rút từ sau hội nghị TW 8 tháng 5/1941. Nhân
dân ta không thể cam chịu được cuộc sống như cũ nữa, mọi lực lượng trong xã
hội đã ngả về phía cách mạng. Đội ngũ lãnh đạo ĐCS đã sẵn sàng.
Gọi đây là thời cơ ngàn năm có một vì thời cơ này chỉ xuất hiện duy nhất
một lần từ khi Nhật đầu hàng đến những ngày đầu tháng 9 năm 1945 (khoảng
nửa tháng), thời cơ này đến rất nhanh và trôi đi cũng rất nhanh, chưa khi nào dân
tộc ta lại hội tụ đầy đủ những yếu tố thuận lợi như lúc này. Nếu đảng phát động
nhân dân ta giành chính quyền trước khi Nhật đầu hàng thì thời cơ chưa tới,
nhân dân sẽ đổ máu nhiều và chưa chắc đã thành công. Còn nếu phát động nhân
dân giành chính quyền muộn hơn khi quân đồng minh đã kéo vào thì thời cơ đã
hết, mọi công tác chuẩn bị của đảng và nhân dân ta đều không còn ý nghĩa.
Chính vì tiên đoán được thời cơ ngàn năm có một đến rất nhanh và trôi đi rất
nhanh, khi đang bị ốm nặng, Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên
Giáp” Lúc này thời cơ đã tới, dù có hy sinh đến đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải giành bằng được độc lập.
Nhận thấy thời cơ đã tới nên chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung Uơng Đảng
đã quyết định chớp thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước.
14


Ngày 13/8/1945, khi biết tin Nhật sắp đầu hàng, tổng bộ Việt Minh thành
lập Ủy ban khởi nghĩa, ra quân lệnh số 1, phát lệnh Tổng khởi nghĩa.
Ngày 14-15/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào quyết
định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào. Ngày
16-17/8/1945 quốc dân Đại hội cũng được tiến hành tán thành chủ trương Tổng

khởi nghĩa. Chiều 16/8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu một đơn vị
giải phóng xuất phát từ Tân Trào, tiến về Thái Nguyên, tổng khởi nghĩa trong
toàn quốc bắt đầu. Tổng khởi nghĩa diễn ra và giành thắng lợi một cách nhanh
chóng, ít đổ máu.

15


CHƯƠNG II
MỘT SỐ CÂU HỎI THƯỜNG GẶP TRONG CHUYÊN ĐỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ VIỆT
NAM
TỪ 1919 ĐẾN 1945 VÀ GỢI Ý BÀI GIẢI.
Câu hỏi 1:
Hãy chứng tỏ rằng sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xu hướng dân
chủ tư sản tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam. Hãy nhận xét con đường cách
mạng theo xu hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất.
Ý1. Chứng tỏ:
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất , trào lưu dân chủ tư sản tiếp tục ảnh
hưởng vào Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn, tác động
đến một bộ phận tư sản dân tộc và tiểu tư sản ở Việt Nam. Thể hiện:
-

Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập. Đây là tổ chức đại diện cho tư
sản dân tộc Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản….
Phong trào đấu tranh của tư sản, tiểu tư sản (1919 – 1925), của Việt
Nam Quốc dân đảng (1927 – 1930).

Ý2. Nhận xét:

- Ngọn cờ tư tưởng tư sản tuy đối với Việt Nam còn mới mẻ, họ hăng hái tiếp
thu nhưng không đủ khả năng giúp nhân dân Việt Nam thoát khỏi kiếp nô lệ.
- Giai cấp tư sản Việt Nam còn thiếu đường lối chính trị đúng đắn, phương pháp
cách mạng khoa học nên con đường cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã không thành công….
- Điều này đặt ra cho các nhà cách mạng Việt Nam hướng quỹ đạo cách mạng
Việt Nam theo con đường mới – con đường vô sản.
Câu hỏi 2:
Phân tích tác động của cách mạng tháng Mười Nga 1917. Cách mạng
tháng Mười có tác động đến Việt Nam như thế nào trong thời kì 1917 1945?

16


Ý 1. Tác động của cách mạng tháng Mười:
- Với nước Nga đã mở ra 1 kỉ nguyên mới, 1 thời kì mới:
+ Lật đổ các chế độ cũ, giai cấp cũ tồn tại nhiều thế kỉ trong đế quốc Nga.
+ Thành lập được 1 nền chuyên chính mới, chính quyền mới là chính quyền Xô
Viết, thực hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân
+ Đưa những người nhân dân Nga từ thân phận bị áp bức nô lệ lên quyền làm
chủ đất nước, quyết định tương lai của mình.
- Với thế giới:
+ Cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn tới sự xuất hiện của nền chuyên chính vô
sản, đây là nền chuyên chính đầu tiên trên thế giới, phá vỡ thế độc quyền của
chủ nghĩa đế quốc. Kể từ cách mạng tháng Mười, nước Nga Xô Viết , sau này là
Liên Xô có tác động và ảnh hưởng lớn tới nhiều vấn đề của thế giới.
+ Cách mạng tháng Mười Nga mở ra 1 kỉ nguyên mới trong tiến trình phát triển
của lịch sử loài người đó là mở ra thời kì lịch sử thế giới hiện đại, gắn liền với
sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội, của sự tiến bộ xã hội.
+ Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng lới tới phong trào cách mạng thế

giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á - Phi - Mỹ Latinh
và phong trào công nhân.
+ Cách mạng tháng Mười mở ra thời kì mới trong vấn đề liên kết đoàn kết giữa
phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc vì đều có một
đối tượng chung, kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng tháng Mười
Nga đã có đóng góp lớn đối với chủ nghĩa Mac về vấn đề đoàn kết quốc tế.
Ý2. Đối với Việt Nam:
- Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã tác động, ảnh hưởng lớn tới tư
tưởng, nhận thức của nhiều trí thức yêu nước Việt Nam đang trong quá trình tìm
đường cứu nước. Đặc biệt là tác động lớn tới khuynh hướng cứu nước, con
đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Từ đó đến nay lịch sử Việt Nam vẫn
gắn liền với khuynh hướng đó và không thay đổi.
- Khi Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lí luận chủ nghĩa Mac - Lenin và vận dụng vào
Việt Nam thì Nguyễn Ái Quốc cho rằng nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất để
cách mạng Việt Nam thành công là phải thành lập một chính đảng cộng sản với
phương pháp, đường lối đúng đắn. Chính vì thế, vào những năm 20 của thế kỉ
17


XX, suốt mười năm, Nguyễn Ái Quốc tập trung vào chuẩn bị những điều kiện
về tư tưởng, tổ chức, đào tạo cán bộ cho một chính đảng ở Việt Nam. Đầu năm
1930, trước những đòi hỏi khách quan của lịch sử, của phong trào cách mạng,
Nguyễn Ái Quốc đã quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi Đảng
ra đời đã có một cương lĩnh chính trị đúng đắn, phù hợp, khoa học, cho nên có
thể khẳng định đây là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, đặt nền móng cho
cách mạng Việt Nam sau này.
- Từ những năm 1930, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trước hết là thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đã giải phóng
dân tộc, thiết lập một nền dân chủ mới theo tư tưởng ánh sáng của cách mạng
tháng Mười Nga.

- Không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, dưới ánh sáng của cách mạng
Tháng Mười, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong 2 cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc cũng như xây
dựng đất nước hiện nay. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 100
năm qua đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều là sự
tiếp diễn, sự ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười, của chủ nghĩa Mac - Lenin
ở mọi góc độ. Cho đến nay, tư tưởng, ánh sáng của cách mạng Tháng Mười vẫn
còn tính thời sự và vẫn giá trị đối với sự phát triển của Việt Nam.
Câu hỏi 3.
Từ những sự kiện trong quan hệ quốc tế 1919 – 1930. Hãy xác định
mối quan hệ của nó trong sự chuyển dịch cách mạng Việt Nam sang quỹ
đạo giải phóng dân tộc theo con đường vô sản.
Ý1. Những sự kiện trong quan hệ quốc tế 1919 – 1930 tác động chuyển dịch
cách mạng Việt Nam sang quỹ đạo giải phóng dân tộc theo con đường vô
sản.
- Xuất hiện nhà nước XHCN sau cách mạng Tháng Mười…
- Quốc tế Cộng sản ra đời...
- Đảng Cộng sản ra đời ở nhiều nước...
- Hoạt động của Quốc tế Cộng sản thông qua các Đại hội…
- Các tài liệu của quốc tế Cộng sản và các trường đào tạo cán bộ tại Liên Xô…
Ý2. Tác động….chuyển dịch…
18


-Qua hoạt động, nguyễn Ái Quốc và những nhà yêu nước đã:
+Đến với chủ nghĩa Mac Lênin…
+Xây dựng và truyền bá tư tưởng cách mạng…
+Xây dựng tổ chức Hội Việt nam cách mạng thanh niên…
Thông qua các hoạt động đó, đặc biệt là phong trào vô sản hóa thì con đường
cách mạng vô sản ngày càng được truyền bá rộng rãi…

-Chính vì thế, ở Việt Nam thời gian này đã xuất hiện hai khuynh hướng cách
mạng chen vai nhau để giành quyền lãnh đạo cách mạng. Cuối cùng khuynh
hướng cách mạng vô sản đã thắng thế với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam, khuynh hướng dân chủ tư sản đã thất bại với sự tan rã của Việt Nam Quốc
dân Đảng…
Sự thành lập và chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cách mạng Việt Nam tiếp cận với
con đường cách mạng vô sản. Những văn kiện, tài liệu của Quốc tế Cộng sản
giúp những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam đề ra đường lối chiến lược, sách
lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam theeo con đường cách mạng vô sản.
- Đảng cộng sản được thành lập ở nhiều nước, đặc biệt là Đảng cộng sản Pháp,
Trung Quốc…là điều kiện để chủ nghĩa Mac-Lenin được truyền bá rộng rãi đến
Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam dịch chuyển sang con đường cách mạng vô
sản.
Câu hỏi 4:
Những yếu tố thời đại nào tác động đến việc lựa chọn con đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc.
- Chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc và bộc lộ nhiều mặt trái
của nó…
- Cách mạng tháng Mười Nga thành công không những cỗ vũ mà chỉ ra cho các
dân tộc con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
- Quốc tế cộng sản đước thành lập và hoạt động.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá rộng rãi, các Đảng Cộng sản được
thành lập, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạng mẽ.

Câu hỏi 5.
19


Hãy nêu những sự kiện nổi bật trông quan hệ quốc tế 1919 – 1945.
Cách mạng Việt Nam có quan hệ với những sự kiện trên như thế nào?

Ý1. Những sự kiện nổi bật trong quan hệ quốc tế giai đoạn 1919 –
1945:
- Quốc tế Cộng sản được thành lập(1919).
- Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Hội nghị Vec xai và Hội nghị Oasinhton
được triệu tập để xác lập trật tự thế giới mới.
- Sự ra đời của các Đảng Cộng sản ở các nước như Pháp, Trung Quốc…
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công ở Liên Xô.
- Khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 và sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít.
- Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945).
Ý2. Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với các sự kiện trên.
- quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về độc lập tự do sau bức thư gửi đến Hội nghị
Vec xai.
- Với sự hướng dẫn của Quốc tế Cộng sản, cách mạng Việt Nam tiếp cận được
con đường cứu nước mới – con dường cách mạng vô sản.
- Đảng Cộng sản được thành lập ở nhiều nước tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá rộng rãi, là một trong những nhân tố quan trọng đưa đến
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Chủ nghĩa phát xít xuất hiện đe dọa hòa bình thế giới, theo sự chỉ đạo của
Quốc tế Cộng sản, cách mạng Việt Nam đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo
vệ hòa bình.
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, lan rộng. Cách mạng Việt Nam đứng về
phe Đồng minh chống phát xít giải phóng dân tộc, đồng thời góp phần vào việc
tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

Câu hỏi 6.
20


Đường lối của quốc tế Cộng sản được Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú vận
dụng như thế nào trong xây dựng Chính cương, sách lược vắn tắt và Luận

cương. Nhận xét.
Ý1. Đường lối của Quốc tế Cộng sản:
- Giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Giai cấp vô sản các nước tư bản cùng
đứng lên chống giai cấp tư sản, chống chủ nghĩa đế quốc để đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là nhiệm vụ hàng đầu được xác định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản (1848) và được Quốc tế Cộng sản quán triệt.
- Giúp đỡ các dân tộc bị áp bức đứng lên giải phóng dân tộc.
Ý2. Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú vận dụng
- Nêu nội dung chính của 2 văn kiện.
Ý3. Nhận xét:
- Cả hai nhà Cách mạng đã cố gắng tiếp thu đường lối, sự chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản để đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng của Quốc tế Cộng
sản vào tình hình cụ thể của Việt Nam, đưa vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng
đầu….
- Trần Phú rập khuông giáo điều đường lối của Quốc tế Cộng sản, chưa đưa vấn
đề dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp…
Ý4. Quốc tế Cộng sản được thành lập năm 1919 chỉ ra phương hướng
đấu tranh cho các dân tộc bị áp bức.
Câu hỏi 7.
So với sự ra đời của các Đảng cộng sản ở các nước phương Tây, sự ra
đời Đảng Cộng sản Việt Nam có đặc điểm gì? Vì sao lại có đặc điểm ấy?
Ý1.Đặc điểm: Có sự tham gia của Chủ nghĩa Mac- lê nin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước.
Ý2.Có đặc điểm như vậy bởi vì:
- Bản thân chủ nghĩa Mac - Lenin không chỉ là vũ khí để giải phóng giai cấp
công nhân mà còn là vũ khí giải phóng dân tộc bị áp bức. Nó đã trở thành thực
tiễn qua cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, giải phóng các dân tộc thuộc địa
trong đế quốc Nga, đưa các dân tộc thuộc địa ra khỏi nhà tù của đế quốc Nga.
21



Chính vì thế nó có sức hấp dẫn đối với những người yêu nước Việt Nam và có
đủ sức mạnh vượt qua lưới thép của kẻ thù, vượt qua sự bưng bít, xuyên tạc của
kẻ thù để đến với nhân dân Việt Nam yêu nước.
- Phong trào yêu nước Việt Nam có một quá trình phát triển liên tục và sử dụng
nhiều vũ khí tư tưởng khác nhau, cuối thế kỉ XIX sử dụng hệ tư tưởng phong
kiến với đại diện là phong trào Cần Vương hay là tư tưởng dân chủ tư sản với sự
tồn tại của Việt Nam Quốc dân đảng với cuộc khởi nghĩa Yên Bái…
- Sau những thất bại liên tiếp đó, những người yêu nước Việt Nam đã hướng đến
một ánh sáng mới, đón đợi một ngọn cờ mới. Giữa lúc ấy, chủ nghĩa MácLenin, những tư tưởng vĩ đại của cuộc cách mạng Tháng Mười soi sáng, thông
qua lí luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc cùng những hoạt
động của các chiến sĩ cách mạng tiền bối được truyền bá vào Việt Nam và được
phong trào yêu nước tiếp thu một cách thuận lợi, một cách tự nhiên giống như
ánh sáng chân lí của chính mình, “giống như người đang khát mà có nước uống,
đang đói mà có cơm ăn”.
- Nguyễn Ái Quốc không sao chép máy móc lí luận Mác –Lê nin mà có sự vận
dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam…xây dựng nên lí
luận cách mạng giải phóng dân tộc rồi diễn đạt nó thành tiếng nói của dân tộc
Việt Nam và trao lại cho nhân dân Việt Nam. Nếu lí luận này chỉ sao chép
nguyên văn thì sẽ không hiểu. Mặt khác, Người đã tập hợp những thanh niên
yêu nước Việt Nam rồi đem lí luận Mác – Lê nin truyền bá cho họ, dẫn dắt họ đi
theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác – Lê nin.
- Do những nguyên nhân trên, phong trào yêu nước Việt Nam đã bắt gặp ánh
sáng chân lí của thời đại, mà kết quả của cuộc gặp gỡ, hội ngộ ấy là sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
Câu hỏi 8.
Nêu những nhận xét về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933
và tác động của nó đến tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Rút ra bài học cho

xây dựng đất nước hiện nay.
Ý1. Nhận xét về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933):

22


- Do sản xuất ồ ạt, cung vượt quá cầu nên khủng hoảng kinh tế đã diễn ra. Thực
chất là do nhà nước không điều tiết tốt nền kinh tế, đã chạy theo chủ nghĩa tự do
thái quá.
- Khủng hoảng diễn ra đầu tiên ở Mĩ và lan sang toàn thế giới tư bản.
- Đây là cuộc khủng hoảng thừa và diễn ra đầu tiên trên lĩnh vực tài chính ngân
hàng, lan nhanh sang các ngành kinh tế.
- Dẫn đến hậu quả nặng nề trên các lĩnh vực và nguy hiểm nhất là sự xuất hiện
của chủy nghĩa phát xít.
Ý2. Tác động đến Việt Nam:
- Việt Nam là thuộc địa của Pháp, giới cầm quyền Pháp trút gánh nặng khủng
hoảng lên các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam.Việt Nam vốn phụ thuộc
nặng nề vào kinh tế pháp nay lại càng suy sụp hơn. Đời sống nhân dân ngày
càng khổ cực. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với dế quốc và phong kiến tay sai
ngày càng gay gắt. Trong hoàn cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời ra
đời và lãnh đạo nhân dân ta làm nên phong trào cách mạng 1930 – 1931.
Ý3. Từ khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) rút ra bài học cho
xây dựng đất nước hiện nay:
- Nhà nước phải điều tiết tốt nền kinh tế.
- Mở rộng kinh tế đối ngoại nhưng phải đảm bảo tính độc lập tự chủ về kinh tế,
không hoàn toàn phụ thuộc vào bên ngoài.
Câu hỏi 9.
Chủ nghĩa phát xít là gì? Vì sao nhân dân Việt Nam phải chống chủ
nghĩa phát xít? Tóm tắt những chủ trương của ĐCS Đông Dương trong quá
trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống CNPX.

Ý1. Chủ nghĩa phát xít là bộ phận nguy hiểm nhất của CNĐQ, là những
kẻ phản động nhất, sôvanh nhất, hiếu chiến nhất,….
Ý2. Vì sao nhân dân Việt Nam phải chống chủ nghĩa phát xít?
- Chủ nghĩa phát xít là kẻ thù chung của nhân loại….
- Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít trực tiếp xâm lược, thống
trị, bóc lột dân tộc ta….
23


Ý3. Quá trình đấu tranh chống phát xít của nhân dân Đông Dương bao
gồm 2 giai đoạn với 2 phong trào cách mạng khác nhau:
- Chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1936-1939
- Chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1939-1945
+ Chủ trương chiến lược được để ra từ hội nghị VI tháng 11/1939 và hoàn chỉnh
vào hội nghị VIII năm 1941
+ Chủ trương khởi nghĩa từng phần
+ Chủ trương tổng khởi nghĩa
Câu hỏi 10.
Những yếu tố nào của tình hình thế giới ảnh hưởng đến chủ trương
của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kì 1936 – 1939?
Ý1. Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít đe dọa hòa bình thế giới…
Ý2. Sự chỉ đạo của quốc tế Cộng sản qua những chủ trương của Đại hội
VII...
Ý3. Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ban hành những chính sách tiến
bộ…
Câu hỏi 11.
Hãy chứng tỏ chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời
kì 1936 – 1939 là đúng đắn và phù hợp?
Ý1. Tình hình thế giới:
- Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít đe dọa hòa bình thế giới…

- Sự chỉ đạo của quốc tế Cộng sản…
- Chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ban hành những chính sách tiến bộ…
Ý2. Tình hình trong nước:
Về kinh tế, chính trị, xã hội… đời sống nhân dân không được cải thiện nên
họ hăng hái đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ…
Ý3. Chủ trương của Đảng hết sức đúng đắn, phù hợp (phù hợp với tình
hình thế giới, tình hình trong nược và nguyện vọng của nhân dân). Thể hiện:
- Xác định kẻ thù trước mắt…
24


- Mục tiêu đấu tranh…
- Lực lượng và hình thức tập hợp lực lượng...
- Phương pháp và hình thức đấu tranh….
Câu hỏi 12.
Những diễn biến nào trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ 1939 đến
trước 1945 có ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam? Làm rõ tác động ấy.
Ý1. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức tấn công nước Pháp.
- Ngày 1.9.1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp tuyên
chiến với Đức. Tháng 6.1940, Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng làm
tay sai cho Phát xít. Những chính sách tiến bộ của chính phủ mặt trận nhân dân
Pháp không còn nữa mà thay vào đó là những chính sách cực đoan, đàn áp
phong trào đấu tranh của quần chúng. Phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt –
Trung.
- Đảng Cộng sản Đông Dương yêu cầu Pháp hợp tác chống Nhật nhưng chính
quyền thực dân không đồng ý mà tăng cường đàn áp và bóc lột...
- Trước tình hình trên, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định rút vào hoạt
động bí mật và triệu tập ngay Hội nghi Trung ương lần thứ VI vào tháng
11.1939....
Ý2. Nhật tiến vào Đông Dương:.

- Tháng 9.1940, Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp và Nhật câu kết thống trị, áp
bức, bóc lột nhân dân Đông Dương.
- Tại Đông Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy thủ tiêu các quyền
tự do dân chủ. Pháp thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Pháp thực hiện
chính sách “kinh tế chỉ huy”, vơ vét cạn kiệt sức người sức của ở Đông Dương
phục vụ cho cuộc chiến tranh thế giới và đáp ứng yêu cầu của Nhật.
- Chính sách vơ vét, áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta đến
cùng cực. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít xâm
lược và tay sai vô cùng gay gắt.
Ý3. Đức tấn công Liên Xô. Mặt trận Đồng minh chống phát xít ra đời.
- 6.1941, Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi. Trên thế giới
hình thành hai trân tuyến, một bên là phe phát xít Đức – Ý – Nhât, một bên là
25


×