Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su14

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.83 KB, 114 trang )

HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI – ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ


HỘI THẢO KHOA HỌC LẦN THỨ XII
MÔN LỊCH SỬ
CHUYÊN ĐỀ

NHỮNG SỰ KIỆN LỚN CỦA LỊCH SỬ THẾ
GIỚI (1917 – 1945) CÓ ẢNH HƯỞNG, TÁC ĐỘNG
TRỰC TIẾP ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

tháng 05 năm 2019


MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................... 2
A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................3
2. Mục đích của đề tài..................................................................................................4
B. NỘI DUNG..............................................................................................................5
I. NHỮNG SỰ KIỆN LỚN CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI (1917 – 1945) CÓ ẢNH
HƯỞNG, TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM..................5
1. Những yếu tố của thời đại mới xuất hiện...............................................................5
1.1. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917...............................................................5
1.2. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) với quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam..................................................................................................................10
1.3. Hậu quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)...........................19
1.4. Ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở một số nước phương Đông................21
2. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) và khuynh hướng tả khuynh
trong Quốc tế Cộng sản.............................................................................................25


2.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933).............................................25
2.2. Khuynh hướng tả khuynh trong Quốc tế Cộng sản............................................31
3. Đại hội lần VII của Quốc tế Cộng sản (tháng 7 – 1935)......................................38
4. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)...........................................................44
4.1. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9 – 1939)......................................44
4.2. Nhật tiến vào Đông Dương (tháng 9 – 1940).....................................................47
4.3. Chủ nghĩa phát xít trở thành kẻ thù chung của toàn nhân loại (cuối năm 1940
đến đầu năm 1941)...................................................................................................50
4.4. Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc (cuối năm 1944 đến
tháng 3 – 1945).........................................................................................................53
4.5. Những ngày cuối cùng của chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật Bản (từ
tháng 5 – 1945 đến tháng 8 – 1945)..........................................................................56
II. PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP NỘI DUNG NHỮNG SỰ KIỆN LỚN CỦA LỊCH
SỬ THẾ GIỚI (1917 – 1945) CÓ ẢNH HƯỞNG, TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP ĐẾN
CÁCH MẠNG VIỆT NAM.......................................................................................61
1. Xác định mục đích học tập lịch sử để có phương pháp nhận thức đúng...........62
2. Một số biện pháp để ôn tập và làm bài thi tốt......................................................63
3. Kiểm tra năng lực học tập của học sinh...............................................................65
III. HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP NỘI DUNG NHỮNG SỰ KIỆN LỚN CỦA
LỊCH SỬ THẾ GIỚI (1917 – 1945) CÓ ẢNH HƯỞNG, TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP
ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM..............................................................................65
1. Hệ thống câu hỏi ôn tập.........................................................................................65
2. Gợi ý một số câu hỏi..............................................................................................70
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................113
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................114
2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động vất vả, khó
khăn và thử thách đối với những người làm nghề dạy học. Bồi dưỡng học sinh giỏi
cũng là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa
chọn những mầm giống tương lai cho đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời
giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng
đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai.
Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử, may mắn khi được công tác tại một
trường chuyên – nơi có cơ sở vật chất được ưu tiên đầu tư, trình độ đồng nghiệp đồng
đều, học sinh lớp chuyên đều ham học và yêu thích môn Lịch sử. Sự hội tụ những yếu
tố này là điều kiện thuận lợi cho những giáo viên trẻ như chúng tôi có cơ hội để áp
dụng kiến thức đã học vào việc tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi. Mặc dù hiện
nay ở các trường THPT Chuyên công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, trong đó có việc bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đã được chú trọng song vẫn còn những bất cập nhất
định như: cách tuyển chọn, lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy, phần lớn chỉ
làm theo kinh nghiệm. Từ những bất cập trên dẫn đến hiệu quả bồi dưỡng không đạt
được như ý muốn.
Băng khoăn trước thực trạng đó, chúng tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao
kiến thức và phương cách giảng dạy của bộ môn để gây hứng thú học tập môn lịch sử
cho học sinh, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sao cho đạt hiệu quả. Trong
những năm gần đây, Hội các trường chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ
đã tổ chức các Hội thảo chuyên đề. Tôi nhận thấy rằng đây là những hoạt động bổ ích,
mang lại tính hiệu quả cao vì không chỉ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi mà còn cung cấp rất nhiều các tài liệu hữu ích phục vụ bồi dưỡng
học sinh giỏi Quốc gia. Được sự phân công của đơn vị tổ chức Hội thảo khoa học các
trường THPT Chuyên Khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc bộ lần thứ XII, tại tỉnh
Bắc Ninh, chúng tôi đã tập hợp một số tài liệu để lựa chọn và viết nội dung: “Những
sự kiện lớn của lịch sử thế giới (1917-1945) có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến
cách mạng Việt Nam”, nhằm chia sẻ cho giáo viên, học sinh tham khảo khi ôn luyện
để chuẩn bị cho kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử.


3


2. Mục đích của đề tài
Việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt Nam và
ngược lại sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu lịch sử. Đây là vấn
đề về nguyên tắc phương pháp luận sử học Macxít - Lêninnít và tư tưởng Hồ Chí Minh
mà chúng ta cần quán triệt.
Mối quan hệ tác động qua lại giữa lịch sử thế giới với lịch sử dân tộc là điều
không ai có thể phủ nhận. Vì vậy, nếu chúng ta hiểu rõ được tình hình diễn ra trên thế
giới thì có thể giải thích được các sự kiện xảy ra trong nước tại thời điểm đó và sẽ dự
đoán được một phần tương lai phát triển của quốc gia, dân tộc mình. Hiểu rõ tầm quan
trọng trong mối quan hệ giữa hai bộ phận lịch sử thế giới và dân tộc nên trong bộ sách
giáo khoa lịch sử phổ thông, các nhà viên soạn sách đã sắp xếp phần lịch sử thế giới
trước phần lịch sử Việt Nam, nhằm giúp cho các em có một cái nhìn tổng quan trước
khi đi tìm hiểu lịch sử dân tộc. Theo chúng tôi thì đây là một cách sắp xếp khoa học và
hợp lý, có tính chất định hướng tư duy cho cả giáo viên và học sinh.
Trong chương trình lịch sử Việt Nam ở trường trung học phổ thông, giai đoạn
1919 - 1945 là giai đoạn rất trọng tâm và cơ bản. Đây là giai đoạn bao gồm nhiều sự
kiện, nhiều vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, phần lớn các đề thi chọn Học sinh
giỏi, thi Đại học - Tốt nghiệp THPT (nay là thi THPT Quốc gia) đều đề cập đến. Trong
đó, những ảnh hưởng, tác động của các sự kiện lịch sử thế giới đến cách mạng Việt
Nam là rất lớn. Xuất phát từ thực tiễn công tác và những khó khăn trong việc tập hợp
tài liệu khi giảng dạy nên chúng tôi mạnh dạn lựa chọn nội dung: “Những sự kiện lớn
của lịch sử thế giới (1917-1945) có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến cách mạng Việt
Nam”, nhằm chia sẻ về lí luận và thực tiễn từ việc xác định nội dung, lựa chọn phương
pháp và các cách dạy học hiệu quả, có thể vận dụng trong quá trình dạy học lịch sử nói
chung cũng như công tác bồi dưỡng Quốc gia nói riêng.
Nội dung của chuyên đề bao gồm 3 phần:
Phần I: Những sự kiện lớn của lịch sử thế giới (1917 – 1945) có ảnh hưởng, tác

động trực tiếp đến cách mạng Việt Nam.
Phần II: Phương pháp ôn tập.
Phần III: Hệ thống câu hỏi ôn tập.
Chúng tôi hy vọng đây là một nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên,
học sinh khi giảng dạy, học tập chuyên đề lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945.
4


B. NỘI DUNG
I. NHỮNG SỰ KIỆN LỚN CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI (1917 – 1945) CÓ
ẢNH HƯỞNG, TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Những yếu tố của thời đại mới xuất hiện
1.1. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
Thực hiện khẩu hiệu “biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”,
Đảng Bônsêvich do V.I.Lênin đứng đầu đã lãnh đạo cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi. Cách mạng tháng Mười Nga đã đập tan ách
thống trị của giai cấp phong kiến và tư sản Nga, thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới, đưa nhân dân Nga từ thân phận nô lệ lên làm chủ cuộc sống của
mình. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra thời kỳ mới chưa từng có trong
lịch sử nhân loại – thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã chặt dứt một mắt xích quan trọng
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và phân chia thế giới thành hai chế độ chính trị đối lập
nhau là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Mười mở ra con
đường giải phóng giải phóng cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản và nhân dân
các nước thuộc địa và phụ thuộc; cung cấp những bài học kinh nghiệm quý báu, thúc
đẩy cao trào cách mạng thế giới phát triển.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đánh dấu mốc thắng lợi của chủ nghĩa
Mác – Lênin trước các trào lưu tư tưởng cơ hội của Quốc tế II. Chủ nghĩa xã hội từ lý
luận đã trở thành hiện thực trên Trái đất. Chủ nghĩa Mác – Lênin có điều kiện truyền
bá nhanh chóng và được vận dụng rộng rãi trên thế giới, nhất là các nước thuộc địa và

phụ thuộc.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 có tác động mạnh mẽ đến phong trào
giải phóng dân tộc thuộc địa ở các nước phương Đông. Nói về ý nghĩa của Cách mạng
tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng Mười có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với số phận lịch sử của các
dân tộc phương Đông. Nó đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức ở châu Á, chỉ cho nhân
dân các nước thuộc địa và phụ thuộc con đường giải phóng, nêu gương tự do dân tộc
thật sự”.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của
thực dân Pháp, phong trào yêu nước ở Việt Nam diễn ra vô cùng sôi nổi với nhiều
5


khuynh hướng chính trị khác nhau, vũ khí tư tưởng khác nhau, nhưng tất cả đều đi đến
thất bại. Mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng người thanh
niên Nguyễn Tất Thành không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm đi ra
nước ngoài, cụ thể là phương Tây, mà đích đến đầu tiên là nước Pháp - đất nước đang
cai trị Việt Nam - để tìm một con đường cứu nước mới. Sau gần 10 năm bôn ba ở nước
ngoài, người thanh niên ấy đã đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng
của Cách mạng tháng Mười Nga và đã tìm thấy con đường đi cho dân tộc Việt Nam
thoát khỏi áp bức, giành lại độc lập dân tộc.
Cách mạng tháng Mười Nga đã đi vào lịch sử nhân loại như một sự kiện vĩ đại,
làm rung chuyển và đảo lộn trật tự thế giới. Khác với các cuộc cách mạng trước đó,
Cách mạng tháng Mười Nga thực hiện được mục tiêu giải phóng nhân dân lao động
khỏi áp bức và kết quả là một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời, hình thái xã hội chủ
nghĩa. Từ đó, Liên Xô trở thành thành trì của phong trào cách mạng thế giới, tạo điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ nhiều nước tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã nhận định Cách mạng Tháng
Mười Nga không chỉ là cuộc cách mạng vô sản mà còn là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Nó là tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống

lại ách áp bức, giải phóng dân tộc. “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng Tháng
Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái
đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và
sâu xa như thế”.
Với lòng nồng nàn yêu nước và tinh thần lao động, học tập không mệt mỏi nơi
xứ người để mong tìm được hướng đi cho dân tộc, qua nhiều năm sống, quan sát và
hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc không chọn đi theo con đường cách mạng tư sản
như các nước tư bản Pháp, Mĩ bởi: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa
là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Nguyễn Ái Quốc đã
thấy được Cách mạng tháng Mười khác hẳn các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp,
Mỹ. Người nhận định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công,
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho
6


công, nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất
cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”. Từ đó, Người rút ra bài học cho cách
mạng trong nước: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành
công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác và Lênin”.
Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công và
có ảnh hưởng vô cùng to lớn, khai sinh ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đến với Cách mạng
tháng Mười Nga, cách mạng vô sản, đi theo con đường mà V.I.Lênin và Cách mạng
tháng Mười Nga vạch ra, cách mạng Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo đã liên tiếp giành nhiều thắng lợi. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945
mang ý nghĩa lịch sử to lớn, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên

độc lập, dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Dân tộc thoát khỏi ách áp bức bóc lột,
bất công, hàng triệu người Việt Nam được sống trong hòa bình, độc lập, tự do.
Dành rất nhiều tình cảm đối với V.I.Lênin và Cách mạng tháng Mười, nhưng
đến khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của V.I.Lênin (chuẩn bị trình bày tại Đại hội lần II của Quốc tế cộng sản)
trên tờ báo Pháp L’Humanité tháng 7-1920, lúc bấy giờ trong tư tưởng Nguyễn Ái
Quốc mới thật sự có những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, được xem như bước
ngoặt trong quá trình tìm đường bao năm của Người.
V.I.Lênin đã trình bày Luận cương dưới 12 luận điểm cơ bản, nêu lên những
vấn đề có tính nguyên tắc về vấn đề dân tộc, về bản chất của giai cấp tư sản đối với
vấn đề dân tộc, phương hướng giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Trong
Luận cương, V.I.Lênin đã chỉ rõ Quốc tế cộng sản phải đoàn kết giai cấp vô sản và
nhân dân bị áp bức ở các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung. Tại luận điểm
thứ 4 của Luận cương, V.I.Lênin nêu rõ: “… điều quan trọng nhất trong chính sách của
Quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho giai cấp vô sản
và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi
vì, chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có
chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân tộc và tình trạng bất bình
đẳng”.
7


Đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, V.I.Lênin đặc biệt lưu ý với 6 chính
sách và chỉ rõ nhiệm vụ các Đảng cộng sản và giai cấp công nhân chính quốc phải
giúp đỡ tích cực phong trào giải phóng dân tộc của họ; cần ủng hộ phong trào nông
dân, chống mọi biểu hiện và tàn dư của chế độ phong kiến, thực hiện liên minh chặt
chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân. Đồng thời, giúp họ nhận thấy trách nhiệm
của mình là đấu tranh chống phong trào dân chủ tư sản trong nội bộ nước họ. Về sách
lược, phong trào vô sản có thể liên minh với phái dân chủ tư sản nhưng không bao giờ

được hòa nhập vào phái đó.
Rõ ràng, với những luận giải có tính chiến lược trong vấn đề thuộc địa, Luận
cương của V.I.Lênin đã có tác động mạnh mẽ đến Nguyễn Ái Quốc, là bước ngoặt lớn,
điểm mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của Người về đường lối
cứu nước. Không phải ngẫu nhiên mà sau khi đọc xong Luận cương, Người đã “cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng… vui mừng đến phát khóc”, ngồi một mình trong
buồng mà nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa
đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Cùng với sự hiểu biết về thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã đạt được trước
đó, Luận cương của V.I.Lênin đã đáp ứng được những suy nghĩ, tình cảm, mong mỏi
được ấp ủ bấy lâu ở Nguyễn Ái Quốc. Người đã tìm thấy được ánh sáng, phương
hướng để tiến hành con đường giải phóng dân tộc đạt đến thắng lợi cuối cùng. Từ đó,
Người đã hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III do V.I.Lênin sáng lập. Sau này,
trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Trải qua gần mười năm bôn ba ở các nước tư bản lớn lẫn các nước thuộc địa,
Nguyễn Ái Quốc đã hình thành tình cảm và nhận thức cụ thể về tình cảnh, nguyện
vọng của các dân tộc thuộc địa, cùng với mong mỏi giải phóng dân tộc mình đã hằng
nung nấu bấy lâu nên khi biết về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga và bắt gặp Luận
cương của V.I.Lênin, Người đã tiếp nhận dễ dàng, trọn vẹn. Điểm nhấn khá quan trọng
mà V.I.Lênin đã nêu và xem như điều kiện đảm bảo thắng lợi của cuộc đấu tranh thủ
tiêu sự áp bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng, cũng chính là điểm tác động sâu sắc
nhất đến Nguyễn Ái Quốc, đó là tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa những người vô sản
và nhân dân lao động ở các nước. Luận cương còn chỉ rõ: “…tất cả các phong trào giải
8


phóng dân tộc trong các thuộc địa và trong các dân tộc bị áp bức mà kinh nghiệm đau
đớn đã làm cho họ tin chắc rằng đối với họ không có con đường cứu vãn nào ngoài sự

chiến thắng của Chính quyền xô-viết đối với chủ nghĩa đế quốc thế giới”. Luận cương
đã luận giải một cách ngắn gọn, sáng tỏ những nội dung chủ yếu về cách mạng giải
phóng dân tộc, soi tỏ hướng đi và biện pháp quan trọng nhất đưa sự nghiệp giải phóng
các dân tộc thuộc địa giành được thắng lợi hoàn toàn. Điều này đã chỉ cho Nguyễn Ái
Quốc con đường cứu nước đúng đắn mà Người hằng mong đợi qua hàng chục năm tìm
đường.
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã ảnh hưởng sâu sắc,
có ý nghĩa quyết định đến lập trường cứu nước Nguyễn Ái Quốc. Những luận điểm
quan trọng trong Luận cương đã tác động đến Nguyễn Ái Quốc và được Người nhanh
chóng tiếp nhận, tạo sự chuyển biến bước ngoặt trong tư tưởng và được biểu hiện ra
bằng hành động. Người đã quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc gắn với
cách mạng vô sản. Người nhận định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, con đường của Cách mạng Tháng
Mười Nga.
Từ đó, Lê nin và Quốc tế III là nguồn động lực tinh thần cho Nguyễn Ái Quốc
tiếp bước vững chắc trên con đường đã được định hướng rõ ràng. Với tinh thần ấy,
Nguyễn Ái Quốc vững tin đến Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp, khai mạc
ngày 25-12-1920 tại thành phố Tua - Đại hội quyết định bước chuyển căn bản theo
đường lối của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc là người dân thuộc địa duy nhất,
người Đông Dương duy nhất trong đoàn đại biểu các đảng bộ thuộc địa gồm 8 người
(7 đại biểu khác của các thuộc địa đều là người Pháp). Việc Nguyễn Ái Quốc tham gia
sang lập Đảng Cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản là sự kiện có ý
nghĩa to lớn, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời và sự nghiệp của Người. Lần đầu
tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại diện của giai cấp công nhân và dân tộc
thuộc địa tham gia sáng lập Đảng tiên phong của giai cấp công nhân ở một đế quốc lớn
đang áp bức dân tộc mình. Thông qua Nguyễn Ái Quốc, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam và giai cấp công nhân Pháp hợp thành một mặt trận chống chủ
nghĩa thực dân Pháp. Điều này còn mang ý nghĩa tượng trưng cho xu hướng cách
mạng thế giới - tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới theo khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản.

9


Vượt qua sự hạn chế về quan niệm cứu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã
tìm ra con đường giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản, con đường của
Cách mạng tháng Mười Nga dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nói, sự
gặp gỡ giữa khát vọng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc với Luận cương của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và lý tưởng đẹp đẽ của cuộc Cách
mạng tháng Mười Nga đã giúp Nguyễn Ái Quốc trở thành người chiến sĩ tiên phong
trong cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức theo con đường của giai cấp vô
sản và trở thành người dẫn đường cho cách mạng giải phóng dân tộc, lãnh tụ kính yêu
của dân tộc Việt Nam sau này. Hướng về Lênin và đất nước Xô viết, quê hương của
Cách mạng tháng Mười, Người luôn dành những tình cảm tốt đẹp và kính trọng: “Khi
còn sống, Lênin là người thầy, người cha của nhân dân bị áp bức. Sau khi mất, Người
là ngôi sao chỉ đường tiến tới sự nghiệp giải phóng vĩ đại của nhân dân bị áp bức”.
1.2. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) với quá trình vận động thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
Vào những năm đầu thế kỷ XX, trên chính trường quốc tế phong trào cách
mạng thế giới phát triển mạnh mẽ, với đỉnh cao là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917. Trong bối cảnh lịch sử đó, tháng 3-1919, dưới sự lãnh đạo của
Lênin, các Đảng cộng sản và nhóm cộng sản của 30 nước đã tiến hành Đại hội tại
Moskva – Liên Xô thành lập Quốc tế Cộng sản – Quốc tế III.
Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản vạch rõ mục tiêu và con đường cách mạng ở
các nước tư bản chủ nghĩa là tiến hành cách mạng vô sản; ở các nước thuộc địa là cách
mạng giải phóng dân tộc, thiết lập chuyên chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều lệ của Quốc tế Cộng sản được Đại hội II (năm 1920) thông qua đòi hỏi các
đảng vô sản muốn gia nhập phải tuân theo những điều kiện hết sức chặt chẽ như: phải
có thái độ dứt khoát về đường lối và về tổ chức đối với Quốc tế III; phải đấu tranh kiên
quyết về mặt tư tưởng cũng như biện pháp hoạt động cụ thể chống mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cơ hội và xét lại; nghiêm chỉnh thực hiện và tích cực tuyên truyền các quan

điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; phải đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản. Đảng phải có
tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, phải vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của đế quốc nước
mình trong các vấn đề thuộc địa; phải ủng hộ trên thực tế chứ không phải trên lời nói
phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, v.v…

10


Cũng tại Đại hội II, Lênin đã trình bày bản báo cáo “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Báo cáo của Lênin đã đặt cơ sở cho việc
xây dựng liên minh, đoàn kết giữa phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các
nước tư bản với phong trào đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa.
Đại hội lần thứ III của Quốc tế Cộng sản (1921), lần đầu tiên đề ra nhiệm vụ
xây dựng một Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân đấu tranh chống lại giai cấp
tư sản. Chủ trương của Quốc tế cộng sản là tập hợp không chỉ giai cấp công nhân mà
còn là tập hợp đa số những người bị bóc lột và bị áp bức.
Đại hội lần thứ IV của Quốc tế Cộng sản (1922), trên cơ sở vạch rõ nguy cơ chủ
nghĩa phát xít đã đề ra những nguyên tắc cơ bản cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít. Đại hội thông qua “Đề cương chung về vấn đề phương Đông” đề ra chủ
trương xây dựng Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước phương
Đông (ở phương Tây là Mặt trận công nhân thống nhất chống giai cấp tư sản). Xác
định cuộc đấu tranh của nhân dân các nước phương Đông chống chủ nghĩa đế quốc là
lâu dài, quyết liệt nên phải tập hợp, phát huy tất cả các tầng lớp cách mạng.
Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (1924) tiếp tục quán triệt chủ trương
xây dựng mặt trận, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của các đảng cộng sản.
Đại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản (1928) đã thông qua Cương lĩnh của
Quốc tế Cộng sản. Cương lĩnh tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản,
của phong trào công nhân quốc tế, đồng thời chỉ ra phương hướng phát triển của

phong trào công nhân quốc tế. Và đặc biệt, Đại hội đã thông qua bản “Đề cương về
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa”, vạch rõ tiến trình cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới, xác lập các điều kiện cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời và quá trình hoạt động của Quốc tế Cộng sản qua các kỳ Đại hội từ
Đại hội I đến Đại hội VI, có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách mạng thế giới.
Trước hết, đã thúc đẩy việc thành lập các Đảng Cộng sản ở nhiều nước: Tháng 5-1919,
Đảng Cộng sản Bungari ra đời; từ tháng 3 đến tháng 11-1920, Đảng Cộng sản được
thành lập ở các nước Nam Tư, Mỹ, Mêhicô, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Indonesia,
….Thứ hai là, mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản ra đời đã tập trung lực lượng thợ thuyền và các người
11


bị áp bức, để chỉ dẫn cho quần chúng bị áp bức, bóc lột đè nén đứng lên đánh đổ tư
bản chủ nghĩa và xã hội dân chủ, để chỉ dẫn cho giai cấp vô sản tranh đấu để thắng lợi.
Đóng góp nổi bật của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng phương
Đông là việc tổ chức này chủ trương thành lập Trường Đại học phương Đông (tên gọi
tắt của Trường Đại học cộng sản của những người lao động phương Đông) để đào tạo
cán bộ cách mạng cho các nước thuộc địa và phụ thuộc. Trong gần 20 năm tồn tại,
Trường đã đào tạo cho các nước phương Đông hàng ngàn cán bộ, trong đó có những
người về sau trở thành cán bộ lãnh đạo có uy tín của các đảng cộng sản ở các nước.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá: “Việc thành lập Trường Đại học phương Đông, tập hợp
những người lãnh đạo tích cực, thông minh của các nước thuộc địa, đã làm được công
cuộc to lớn. Trường Đại học phương Đông ôm ấp dưới mái trường mình tất cả tương
lai của các dân tộc thuộc địa”.
Đối với cách mạng Việt Nam, sự kiện đầu tiên phản ánh vai trò của Quốc tế
Cộng sản là việc vào năm 1920, Nguyễn Ái Quốc (sau 10 năm bôn ba tìm con đường
cứu nước) đọc báo cáo “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” đăng trên báo Nhân đạo, số ra ngày 16 và 17-7-1920 (Báo cáo này là nội
dung chủ yếu của Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản). Nguyễn Ái

Quốc tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho
nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng
thế giới…Cùng với việc nghiên cứu các văn kiện khác của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn
Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Lênin, đến với Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Đảng Xã
hội Pháp (tháng 12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế
Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc – từ người yêu nước
trở thành người cộng sản quốc tế và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô làm việc tại Ban Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản. Tại đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào
cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, xây
dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Tháng 11-1924, Nguyễn Ái
Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm việc với tư cách là phiên dịch của phái đoàn
12


M.Bôrôđin (đại diện Quốc tế Cộng sản). Với sự giúp đỡ của phái đoàn M.Bôrôđin,
Nguyễn Ái Quốc tập hợp những người yêu nước, thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, với tư cách là thành viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có
điều kiện thuận lợi để hoạt động cách mạng và trên nền tảng tư tưởng chính trị của
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra đường lối cách mạng Việt Nam, chuẩn
bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho việc tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Dương và đặc biệt là xứ An
Nam đã được Quốc tế Cộng sản quan tâm từ rất lâu. Tại Đại hội lần thứ I của Quốc tế
Cộng sản đã thông qua Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản
toàn thế giới, trong đó có đề cập đến phong trào đấu tranh ở Việt Nam. Và, ngay từ
cuối năm 1920, Quốc tế Cộng sản đã cử cán bộ của mình đến Việt Nam để nghiên cứu

tình hình chuẩn bị cho việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau khi những người
đến đây bị trục xuất, Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị cho các đảng cộng sản chuyển tài
liệu Mác-xít đến Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, các văn kiện của Quốc tế Cộng sản
gửi nhân dân ta đã được phổ biến ở Việt Nam vào tháng 7-1924.
Quốc tế cộng sản đã có những đóng góp to lớn, đặc biệt là đã tạo thế hệ lãnh
đạo đầu tiên cho Đảng cộng sản Việt Nam: Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm đường
cứu nước đã tìm thấy trong cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản con đường giải phóng
dân tộc. Với Người, con đường của Lênin, con đường của Quốc tế thứ ba, con đường
cách mạng vô sản là con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người
tích cực tham gia vào hoạt động của Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân, Quốc tế
Cộng sản đỏ…và tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập
đảng cộng sản Việt Nam. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về việc hợp nhất các
tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất ở Đông Dương, với tư cách là đại diện của
Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam. Từ đó, mỗi bước đi quan trọng của Đảng ta đều có sự quan tâm
của Quốc tế cộng sản. Từ những chiếc nôi của Quốc tế cộng sản như: Trường đại học
Phương Đông, Trường Quốc tế Lênin, v.v., nhiều chiến sĩ ưu tú của cách mạng Việt
Nam đã được đào tạo để trở thành thế hệ lãnh đạo đầu tiên của Đảng ta như: Trần Phú,
Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai.

13


Liên quan đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương, có ý kiến cho
rằng, tại Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản (1928), Nguyễn Văn Tạo (bí danh Nguyễn
An) cùng hai người Việt Nam khác đều là đảng viên trong đoàn đại biểu Đảng Cộng
sản Pháp tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhân danh người Đông Dương thuộc địa
của Pháp đã trình bày trước Đại hội “khẳng định ở Đông Dương có giai cấp vô sản và
đề nghị Quốc tế Cộng sản hết sức chú ý đến vấn đề thành lập một đảng cộng sản ở
Đông Dương”. Đây được coi là lần đầu tiên vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở Đông

Dương được đặt ra ở diễn đàn của Quốc tế Cộng sản.
Trong Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm
2002, có bốn tài liệu thể hiện sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào
cộng sản ở Đông Dương. Trong đó có ba tài liệu đề ra chủ trương chỉ đạo cụ thể việc
thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương.
Tài liệu thứ nhất với tiêu đề: Những nhận xét liên quan đến Nghị quyết về việc
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Nội dung của tài liệu là những nhận xét, góp ý
cụ thể, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Đông
Dương.
Tài liệu thứ hai là Bản đưa ra thảo luận tại phiên họp của Hội đồng Ban Bí thư
phương Đông, ngày 18-10-1929 (còn có tên gọi khác là Bản dự thảo Nghị quyết về
việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương và về nhiệm vụ sắp tới của những người
cộng sản Đông Dương). Trong bản thảo luận này, Quốc tế Cộng sản đề cập đến những
điều kiện chín muồi cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương: 1) Những mâu
thuẫn giữa Đông Dương là xứ thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc Pháp, những mâu thuẫn
giữa một bên là công nhân, nông dân và dân nghèo thành thị, với bên kia là khối liên
minh của bọn đế quốc Pháp, bọn địa chủ phong kiến bản xứ và bọn quan lại chủ điền,
ngày càng trở nên gay gắt và ở Đông Dương có những điều kiện khách quan cho cuộc
cách mạng dân chủ tư sản (cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất); 2) Phong trào
cách mạng ở Đông Dương trở nên sôi nổi trong điều kiện phong trào cách mạng quốc
tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và điều này có ý nghĩa đặc biệt – trong điều kiện
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa láng giềng (Ấn Độ, Trung Quốc) phát triển
ngày càng mạnh mẽ; tất cả những điều đó tạo điều kiện và khả năng nâng cao và phát
triển mạnh hơn nữa phong trào cách mạng, khả năng xảy ra và chắc chắn xảy ra những
biến cố cách mạng lớn ở Đông Dương.
14


Bản dự thảo Nghị quyết, một mặt, đánh giá cao việc Đại hội Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên thừa nhận Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản, coi đây là bước

tiến đáng kể trong việc đoàn kết về tư tưởng, chính trị các phần tử cộng sản và chuẩn
bị tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương; nhưng mặt khác, cũng chỉ ra những hạn chế,
khuyết điểm của Đại hội Thanh niên, đặc biệt là, trong một loạt vấn đề cơ bản Đại hội
đã đi chệch khỏi lập trường cộng sản về bản chất của các giai cấp và của Đảng…
Dự thảo Nghị quyết chỉ rõ các nhiệm vụ trung tâm của những người cộng sản
Đông Dương trong thời kỳ mới, trong đó nhấn mạnh: “Một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất của Đảng là phát triển phong trào ruộng đất của nông dân chống địa
chủ và kết hợp phong trào ruộng đất với phong trào phản đế…Cần làm sao để ngày
càng có đông đảo quần chúng biết đến Đảng, biết ý kiến của Đảng về tất cả những vấn
đề làm cho quần chúng quan tâm, vì thế cần đẩy mạnh việc tuyên truyền bất hợp pháp
bằng sách báo trong công nhân, nông dân, phụ nữ, thanh niên công nông, sinh viên”.
Dự thảo đồng thời nêu các điều kiện có tính nguyên tắc về những thỏa thuận tạm thời
hoặc hợp tác với các đảng tiểu tư sản dân tộc cách mạng.
Về vấn đề thành lập Đảng Cộng sản, bản dự thảo Nghị quyết chỉ rõ việc tiếp tục
kéo dài tình trạng hoạt động tuyên truyền có tính chất tổ nhóm trong các tổ chức Cộng
sản đang trở thành sự kìm hãm nguy hiểm đối với quá trình phát triển chủ nghĩa cộng
sản và đối với việc thực hiện sự lãnh đạo cộng sản trong phong trào cách mạng. Và để
tiến tới triệu tập Hội nghị thành lập Đảng, Quốc tế Cộng sản đề nghị những người
cộng sản Đông Dương phải thực hiện các yêu cầu cơ bản sau:
1. Dưới sự chỉ đạo của đại diện Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, tiến hành
đặc cách đưa vào Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Thanh niên một số
công nhân tiên tiến là đảng viên cộn sản và là thành viên của Việt Nam cách mạng
Thanh niên.
2. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương quyết
định các vấn đề thể thức kết nạp các thành viên của Tân Việt vào Đảng Cộng sản;
quyết định vấn đề phê chuẩn (dưới sự giám sát của đại diện Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản) các tổ chức riêng lẻ của Việt Nam cách mạng Thanh niên thành các tổ chức
của Đảng Cộng sản;
3. Chỉ có những tổ chức địa phương nào của Việt Nam cách mạng Thanh niên
và của Tân Việt đã hoàn toàn thừa nhận các Nghị quyết của Ban Chấp hành Quốc tế

15


Cộng sản và của Quốc tế Cộng sản thì mới được công nhận là các tổ chức của Đảng
Cộng sản Đông Dương;
4. Trong tất cả các tổ chức có công nhân thì phải đặc cách công nhân vào các
cấp ủy của các tổ chức ấy;
5. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương phải
lập tức bắt tay vào xuất bản cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản, trước
hết cơ quan ngôn luận này phải công bố và giải thích các Nghị quyết của Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản và kiên quyết đấu tranh chống mọi khuynh hướng cơ hội chủ
nghĩa;
6. Sau khi thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản
Đông Dương và sau khi Ban Chấp hành Trung ương lâm thời phê chuẩn các tổ chức
địa phương thì Đảng phải được định hình trước khi Đại hội họp;
7. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương phải
liên hệ với các đảng viên cộng sản Trung Quốc sống lưu vong tại Đông Dương và thu
hút họ vào công tác của Đảng Cộng sản Đông Dương;
8. Đảng Cộng sản Đông Dương phải duy trì liên hệ có hệ thống với Đảng Cộng
sản Pháp, thông báo cho Trung ương Đảng Cộng sản Pháp về hoạt động của mình. Về
phần mình, Đảng Cộng sản Pháp phải hết sức giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương.
9. Đảng Cộng sản Đông Dương cũng phải có liên hệ với các Đảng cộng sản anh
em khác, trước hết là với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Ấn Độ.
10. Vấn đề công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là chi bộ của Quốc tế Cộng
sản vấn được để ngỏ cho đến khi nhận được thông tin về tiến trình Đảng Cộng sản
Đông Dương thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Tài liệu thứ ba của Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản Đông Dương
ngày 27-10-1929 với nhan đề: Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương.
Trong phần đầu của tài liệu này, Quốc tế Cộng sản nhận định: Sự trưởng thành của
phong trào cách mạng ở Đông Dương, lòng căm thù của quần chúng nhân dân đông

đảo đối với chủ nghĩa đế quốc Pháp và đặc biệt là sự phát triển của phong trào công
nhân độc lập và sự tồn tại của các tổ chức cộng sản trong nước, đang tạo ra những điều
kiện cần thiết và sự cần thiết cấp bách là phải tổ chức một Đảng Cộng sản ở Đông
Dương. Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: Cho tới nay, quá trình thành lập một Đảng
Cộng sản là rất chậm so với sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đông Dương và
16


nhiệm vụ quan trong hơn hết, tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông
Dương là phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một
đảng của giai cấp vô sản. Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào
quần chúng công nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều nguy
hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cách mạng Đông Dương…Nhiệm vụ quan
trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập
một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng cộng
sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức
cộng sản duy nhất ở Đông Dương.
Về phương thức thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tài liệu của Quốc tế
Cộng sản chỉ rõ: Một là, cần phải thành lập ngay một Ban liên hợp gồm có đại biểu
của tất cả các tổ chức thừa nhận cương lĩnh, điều lệ và Nghị quyết của Quốc tế Cộng
sản, trong đó một nửa số đại biểu phải là những người công nhân tích cực, lãnh tụ của
phong trào quần chúng. Ban liên hợp này làm nhiệm vụ của một Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng và phải chịu sự lãnh đạo của một đại biểu Ban Chấp hành
Quốc tế Cộng sản; Hai là, Đảng Cộng sản Đông Dương phải được thành lập bằng cách
tập hợp những phần tử thật sự là cộng sản của các nhóm cộng sản; thành lập những chi
bộ cộng sản trong các xí nghiệp “Không có những chi bộ trong các xí nghiệp công
nghiệp, nhất là trong các xí nghiệp lớn, không có những chi bộ mà thực tế sẽ là những
cơ quan liên hệ của Đảng với quần chúng công nhân, thì Đảng Cộng sản không thể là
cộng sản và Bônsêvich”; Ba là, sau khi hoàn thành các công việc chuẩn bị, cần phải
triệu tập Đại hội Đảng để cử ra một Ban Chấp hành Trung ương thường trực và tổ

chức thảo luận, giải quyết những vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng Đông
Dương; Bốn là, Đảng Cộng sản Đông Dương phải đặt quan hệ và liên lạc với các Đảng
Cộng sản anh em khác…
Với nội dung của ba tài liệu trên đây, cho thấy sự quan tâm và chỉ đạo sát sao
của Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương. Các
văn kiện của Quốc tế Cộng sản đã thể hiện nhận thức đúng đắn của tổ chức này về sự
phát triển phong trào đấu tranh của công nhân và sự cần thiết thành lập một tổ chức
cộng sản duy nhất ở Đông Dương; đồng thời chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập
Đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ
mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế. Đây
17


là những chủ trương và chỉ đạo đúng đắn của Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, do chưa
nhận thức đầy đủ về đặc điểm kinh tế - xã hội và mối quan hệ dân tộc, giai cấp ở Việt
Nam – một nước phương Đông thuộc địa, nửa phong kiến, do đó quan điểm và chỉ đạo
của Quốc tế Cộng sản trên một số vấn đề chưa thật sát với thực tiễn cách mạng nước ta
lúc bấy giờ.
Về Hội nghị thành lập Đảng, có tài liệu cho rằng: Nhận được chỉ thị của Quốc
tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất; một tài liệu khác lại viết: Quốc tế Cộng
sản giao cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm thống nhất các lực lượng
cộng sản ở Việt Nam để thành lập một đảng duy nhất.
Liên quan đến “tư cách” của Nguyễn Ái Quốc ở Hội nghị thành lập Đảng, Văn
kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, có hai tài liệu đề cập đến vấn đề này:
Một là, trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản đề ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái
Quốc viết: “Nhận được chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về công tác ở Đông Dương, tôi từ
giã nước Đức vào tháng 6 và đến Xiêm vào tháng 7-1928…Một đồng chí từ Hồng
Kông tới Xiêm và tin cho tôi biết tình hình Hội An Nam Thanh niên Cách mạng bị tan
rã; những người cách mạng chia thành nhiều phái…Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó

vào ngày 23-12. Sau đó tôi triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An
Nam). Chúng tôi họp vào ngày 6-1... Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có
đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào
một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của
Quốc tế Cộng sản”.
Hai là, trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc viết: “Nhận
chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành
nhiệm vụ và thấy có trách nhiệm phải gửi tới các anh chị em và các đồng chí lời kêu
gọi này”.
Qua tư liệu trên và qua Báo cáo tóm tắt Hội nghị thành lập Đảng, cho thấy
Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, đã chủ động triệu tập
và chủ trì Hội nghị gồm nêu lý do cuộc Hội nghị, ra lời hiệu triệu kêu gọi quần chúng
Việt Nam tham gia cách mạng, dự thảo chính cương, sách lược và Điều lệ Đảng.

18


Thực tế cho thấy, thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc, đồng
thời là kết quả của sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Quốc tế Cộng sản đối với cách
mạng nước ta, đặc biệt là quá trình vận động thành lập Đảng.
1.3. Hậu quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
Chiến tranh thế giới thứ nhất là một trong những cuộc chiến tranh quy mô lớn
nhất trong lịch sử nhân loại. Từ cuộc chiến tranh cục bộ ban đầu giữa Anh, Pháp, Nga,
Italia, … với Đức, Áo – Hung, Thổ Nhĩ Kỳ, …, chiến tranh đã lôi kéo 36 nước tham
gia và để lại hậu quả nặng nệ cho nhân loại: hơn 10 triệu người chết, hơn 20 triệu
người bị thương và bị tàn phế; hàng nghìn thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống,
nhà máy bị phá hủy. Chiến tranh đã làm cho châu Âu bị tàn phá và mất đi vai trò đầu
tàu của nền văn minh nhân loại mà nó đã đứng đầu trong nhiều thế kỷ. Sau chiến

tranh, Mỹ giàu lên nhanh chóng và chi phối toàn thế giới.
Sau Chiến tranh, các mâu thuẫn cở bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản,
mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa đế quốc càng thêm gay gắt. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: Cuộc chém giết đẫm máu
thế giới đã mở mắt cho hàng triệu vô sản và nông dân các thuộc địa thấy rõ hoàn cảnh
sinh sống không sao chịu nổi của mình.
Sau chiến tranh, đế quốc Pháp tuy là nước thắng trận nhưng chịu nhiều tổn thất
nặng nề với 1,4 triệu người chết, thiệt hại kinh tế lên tới 200 tỷ phơ-răng và trở thành
con nợ lớn nhất của Mỹ. Ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ; hoạt động thương
mại sa sút nghiêm trọng, nợ nước ngoài tăng, … Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng
thiếu trong thế giới thứ bản chủ nghĩa càng gây khó khăn cho nền kinh tế Pháp.
Trước tình hình đó, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục
nền kinh tế và củng cố địa vị trong thế giới tư bản, chính quyền Pháp một mặt ra sức
tìm các biện pháp thúc đẩy sản xuất trong nước, mặt khác trút gánh nặng lên các thuộc
địa, trong đó coi Việt Nam là trọng điểm.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần hai, thực dân Pháp tiến hành đầu tư ồ ạt, với
tốc độ nhanh và quy mô lớn hơn. Số vốn đầu tư vào Việt Nam tăng rất nhanh qua các
năm. Chỉ tính từ năm 1924 đến năm 1929, tổng số vốn đầu tư vào nước ta đã tăng gấp
6 lần so với vốn đầu tư trong 20 năm trước chiến tranh (1898 – 1918). Việc tăng cường
đầu tư đó đã dẫn đến sự mở rộng kinh doanh của những công ty đã hoạt động từ trước
19


và thành lập nhiều công ty mới ở những ngành trước đó chưa được kinh doanh. Hai
ngành được đầu tư nhiều nhất là nông nghiệp và công nghiệp, trong đó nông nghiệp
tập trung vào chiếm ruộng đất lập đồn điền còn công nghiệp tập trung vào khai thác
mỏ.
Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã khiến cho kinh tế - xã hội Việt Nam
có nhiều biến đổi. Các quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển thêm một bước. Tuy vậy,
cũng như trước đây, thực dân Pháp không chủ trương xóa bỏ các quan hệ kinh tế

phong kiến cũ mà chủ tâm duy trì các quan hệ đó. Kết quả là trong nền kinh tế nước ta
đã diễn ra một quá trình hòa trộn, hỗn hợp giữa quan hệ tư bản thực dân với các quan
hệ tiền tư bản, chủ yếu là quan hệ phong kiến. Tính chất thuộc địa, nửa phong kiến của
xã hội Việt Nam biểu hiện ngày càng rõ nét.
Trên cơ sở của một nền kinh tế tuy đã có bước phát triển, nhưng mất cân đối,
chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực, chủ yếu để phục vụ lợi ích của bọn thực dân, bất chấp
yêu cầu khách quan của kinh tế Việt Nam, xã hội Việt Nam sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất tiếp tục phân hóa sâu sắc. Các giai cấp cũ (địa chủ phong kiến, nông dân) vẫn
tồn tại nhưng có một số biến động, phân hóa. Một số giai cấp mới hình thành (tư sản,
tiểu tư sản). Giai cấp công nhân trưởng thành nhanh chóng.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, xã hội Việt Nam ngày càng phân chia thành
hai trận tuyến rõ rệt: một bên là đế quốc xâm lược và tay sai, một bên là các lực lượng
cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận
địa chủ vừa và nhỏ. Trong xã hội Việt Nam vẫn tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu đó là:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp (mâu thuẫn dân tộc) và
mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai cấp) ngày
càng sâu sắc. Sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam phụ thuộc vào
nhận thức và giải quyết hai mâu thuẫn đó.
Do sự phát triển của bản thân xã hội Việt Nam, tác động trực tiếp của chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp mà xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến
to lớn. Một hệ quả của sự chuyển biến ấy là sự ra đời, lớn mạnh của giai cấp vô sản,
tiểu tư sản và tư sản có vai trò khác nhau trong phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt
Nam theo những khuynh hướng tư sản và vô sản.
Tóm lại, cuộc khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp đã làm chuyển biến
tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam, tạo ra cơ sở xã hội (giai cấp) và những điều kiện
20


chính trị cho phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam phát triển lên một bước
mới.

1.4. Ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở một số nước phương Đông
1.4.1. Phong trào cách mạng ở Trung Quốc
*Cách mạng Tân Hợi (1911) và chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn:
Tôn Trung Sơn (Tôn Văn, Tôn Dật Tiên, 1866 - 1925) là nhà yêu nước vĩ đại,
nhà cách mạng dân chủ lỗi lạc của Trung Quốc. Tên tuổi của Tôn Trung Sơn gắn liền
với chủ nghĩa Tam dân và cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc. Chủ nghĩa
Tam dân (với 3 nội dung chủ yếu là dân tộc, dân quyền, dân sinh) đã thể hiện khá hoàn
chỉnh tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc thời kỳ cận đại. Trên nền tảng lý luận
của chủ nghĩa Tam dân, Trung Quốc Đồng minh hội - (chính đảng của giai cấp tư sản
Trung Quốc) ra đời và lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành thành công cuộc cách
mạng Tân Hợi. Cuộc cách mạng đã lật đổ nền thống trị gần 300 năm của vương triều
Mãn Thanh, kết thúc chế độ chuyên chế phong kiến hơn 2000 năm, lập nên nước
Trung Hoa dân quốc, thúc đẩy cuộc cách mạng dân chủ ở Trung Quốc lên một giai
đoạn mới. Đó là cống hiến to lớn của Tôn Trung Sơn đối với lịch sử Trung Quốc.
Cũng từ đó mà ảnh hưởng của ông đã lan rộng khắp các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc ở Châu Á.
Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và cuộc cách mạng vận động dưới sự
chỉ đạo của hệ tư tưởng này - cách mạng Tân Hợi - ngay lập tức có những ảnh hưởng
trực tiếp, nhanh chóng và sâu sắc đến phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (lúc bấy giờ đang trong thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu
nước). Không ít nhà yêu nước Việt Nam (Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học...) đã tìm
đến với chủ nghĩa Tam dân và coi chủ nghĩa này như một trong những nền tảng hình
thành tư tưởng của mình. Nhiều tổ chức cách mạng mô phỏng theo tổ chức Quốc dân
đảng của Tôn Trung Sơn lần lượt ra đời.
Năm 1904, Phan Bội Châu thành lập Duy Tân Hội tại Quảng Nam, Việt Nam.
Khi còn trẻ, Phan Bội Châu đọc một số sách của Lương Khải Siêu như “Ký chính biến
Mậu Tuất”, “Hồn Trung Quốc” nên chịu ảnh hưởng sâu đậm của Tư tưởng Duy Tân
Mậu Tuất và Tư tưởng Lương Khải Siêu.
Năm 1905, Phan Bội Châu đã gặp và có cuộc bút đàm với Lương Khải Siêu tại
Hoành Tân (Yokohama), Nhật Bản. Trong thời gian ở Nhật, Phan Bội Châu đã kết thân

21


với Tôn Trung Sơn đang hoạt động cách mạng tại đây. Ông có hai lần hội đàm (bút
đàm) với Tôn Trung Sơn tại Chính hòa đường của Hoành Tân. Tôn Trung Sơn đã từng
đọc “Việt Nam vong quốc sử” của Phan Bội Châu. Ông đã tuyên truyền tư tưởng lật đổ
quân chủ, thực hiện tư tưởng Dân chủ Cộng hòa với Phan Bội Châu. Điều này có ảnh
hưởng lớn đối với việc cải tổ chủ trương từ quân chủ lập hiến sang dân chủ cộng hòa
sau này của Phan Bội Châu. Từ năm 1906 đến năm 1908, Phan Bội châu đã tiếp xúc
với Hoàng Hưng, Chương Bính Lân, một số nhà cách mạng người Trung Quốc và các
lưu học sinh Việt Nam học tại Nhật Bản, cùng thành lập Hội “Điền Quế Việt liên
minh” đồng thời tham gia công tác biên tập tạp chí “Vân Nam”. Năm 1911, Cách
mạng Tân Hợi lật đổ chế độ phong kiến thống trị hơn 2000 năm ở Trung Quốc chính
điều này đã cổ vũ khích lệ Phan Bội Châu. Ông đã cùng các đồng chí trong Duy Tân
Hội triệu tập cuộc họp tại Quảng Châu, Trung Quốc và đưa ra quyết định giải tán Duy
Tân Hội thành lập Quang Phục Hội. Tôn chỉ và hình thức tổ chức của Quang Phục Hội
dựa trên mô hình của Trung Quốc Đồng Minh Hội do Tôn Trung Sơn sáng lập tại Nhật
Bản.
Năm 1924, Tôn Trung Sơn cải tổ Quốc Dân Đảng, lấy Quảng Đông làm căn cứ
địa và tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt đầu tiên trong nước. Một số các
chí sĩ cách mạng của Việt Nam đã nhận được sự cổ vũ. Tháng 6 năm 1924, Phạm
Hồng Thái, thành viên của nhóm cách mạng Việt Nam “Tâm tâm hội” đã ám sát toàn
quyền Đông Dương Martial Merlin nhưng không thành công. Phạm Hồng Thái đã hy
sinh do bị sự truy sát của quân Pháp. Phan Bội Châu tập hợp các chí sỹ yêu nước của
Việt Nam tại Quảng Châu mở cuộc họp cải tổ Việt Nam Phục Quang Hội thành Việt
Nam Quốc Dân Đảng. Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva đến Quảng
Châu với danh nghĩa là phiên dịch của cố vấn Liên Xô Bôrôđin được cử sang giúp Tôn
Trung Sơn, đồng thời Người đã tiến hành công tác trù bị thành lập chính đảng của giai
cấp vô sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã góp ý với Phan Bội Châu về việc sửa đổi
Điều lệ của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Phan Bội Châu vui mừng tiếp nhận những ý

kiến của Hồ Chí Minh, nhưng kế hoạch này chưa kịp tiến hành thì Phan Bội Châu đã
bị bắt.
Ở Việt Nam, phong trào dân tộc từ sau chiến tranh thế giới cho tới những năm
1925, 1926 về thực chất là một cao trào vận động dân tộc dân chủ rộng lớn, với nội
dung và hình thức đấu tranh mới mẻ, đa dạng mà tiêu biểu là các phong trào đấu tranh
22


đòi thả Phan Bội Châu để tang Phan Châu Trinh, đưa đám Lương Văn Can…từ trong
cao trào ấy, phong trào giải phóng dân tộc đã có một bước phát triển mới, đi vào chiều
sâu với sự xuất hiện liên tiếp của các tổ chức cách mạng đi theo nhiều xu hướng chính
trị khác nhau. Trong đó Việt Nam Quốc dân đảng là một tổ chức đại diện tiêu biểu cho
xu hướng dân tộc dân chủ tư sản lúc bấy giờ.
So với Việt Nam cách mạng Thanh Niên và Tân Việt cách mạng đảng là hai tổ
chức cách mạng tiêu biểu cùng thời, Việt Nam Quốc dân đảng có những điểm khá
tương đồng về hoàn cảnh ra đời, mục tiêu thành lập cũng như thành phần xuất thân của
những người sáng lập…những người lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng “đều là
những tân cự tri thức, đã không chịu còng lưng uốn gối trước bọn ngoại xâm, cũng
không chịu sống cái đời khuất phục của một người dân mất nước nên đã cương quyết
hy sinh, đề cao khí tiết, mong rửa nhục nước, báo thù cho dân tộc”. Tuy nhiên, trong
quá trình phát triển Việt Nam Quốc dân đảng có những biểu hiện khác biệt có bản về
đường lối và phương pháp hoạt động so với hai tổ chức cách mạng nói trên.
Ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt được sự chuẩn bị chu đáo về tư tường và lí
luận của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ngay từ đầu đã
đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối chiến lược và sách lược của
Hội được hình thành trên lập trường của giai cấp công nhân; còn Tân Việt Cách mạng
đảng lúc đầu cũng đứng trên lập trường dân tộc những rồi dần dần đã ngả sang khuynh
hướng cách mạng vô sản. Khác với Thanh Niên và Tân Việt, Việt Nam Quốc dân đảng
đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản trên nguyên tắc Tự do, Bình đẳng, Bắc ái và đã vay
mượn một số khái niệm và nội dung của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Đồng

thời, kể từ khi thành lập đến lúc tan rã, Việt Nam Quốc dân đảng luôn đúng trên lập
trường của giai cấp tư sản để giải quyết vấn đề dân tộc.
Trong quá trình tồn tại của mình, Việt Nam Quốc Dân đảng cũng đã cố gắng
vươn lên nắm lấy vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng đất nước nhưng vì nhiều
nguyên nhân khách và chủ quan mà mục đích và sự nghiệp cứu nước của tổ chức cách
mạng này đã không đạt được kết quả. Mặc dù vậy, bằng thất bại của mình mà đỉnh cao
là khởi nghĩa Yên Bái, Việt Nam Quốc Dân đảng đã giúp cho các tầng lớp nhân dân ta
sớm nhận rõ được những hạn chế và sự bất lực của khuynh hướng cách mạng tư sản,
và nhanh chóng chuyển sang con đường cách mạng vô sản, góp phần tạo nên ưu thế và

23


tiền đề thắng lợi cho khuynh hướng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào đầu
năm 1930.
*Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập (1921):
Sau cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, phong trào
cách mạng Trung Quốc phát triển rất nhanh, điển hình là phong trào Ngũ Tứ
(4/5/1919) lan rộng ra 20 tỉnh và hơn 100 thành phố ở Trung Quốc.
Tháng 5/1920, được sự giúp đỡ của Quốc tế Công sản, các tổ chức cộng sản
đầu tiên của Trung Quốc được thành lập ở Thượng Hải và nhanh chóng lan rộng ra
nhiều nơi khác trên khắp đất nước Trung Quốc. Ngày 1/7/1921, Đảng Cộng sản Trung
Quốc ra đời, mở ra bước ngoặt phát triển của cách mạng Trung Quốc.
Cách mạng Việt Nam và những người yêu nước Việt Nam đã có mối quan hệ từ
rất sớm với cách mạng Trung Quốc và những người cộng sản Trung Quốc. Ngay từ
những năm 20 của thế kỷ XX, thành phố Quảng Châu đã là nơi lánh nạn, đứng chân và
hoạt động của những người yêu nước Việt Nam như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu,
Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ, Phùng Chí Kiên v.v... Đặc biệt là
Nguyễn Ái Quốc đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của nhân dân, cán bộ Cách mạng
Trung Quốc trong suốt chặng đường hoạt động của mình. Quảng Châu, Hương Cảng,

Thượng Hải, Ma Cao, Côn Minh, Quảng Tây... là những nơi thành lập, đặt trụ sở của
những tổ chức cách mạng ban đầu của Việt Nam như Tâm Tâm xã (1923), Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên (6-1925), nơi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
2-1930); nơi đứng chân của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng (4-1934); nơi tổ chức Đại
hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất (3-1935)...; là nơi giác ngộ, huấn luyện,
đào tạo cán bộ cách mạng Việt Nam (do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở), Trường Quân
sự Hoàng Phố là nơi có nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam theo học; là nơi in ấn các
tài liệu cách mạng để đưa về nước (tác phẩm Đường Cách mệnh, báo Thanh niên...).
Những chuẩn bị về lý luận, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản và
cách mạng Việt Nam đã diễn ra trên đất Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đều được tổ chức trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo nhân dân đấu
tranh chống xâm lược, đánh đuổi phản động, tay sai xây dựng đất nước tiến lên theo
con đường chủ nghĩa xã hội. Bởi thế, những người yêu nước, cộng sản Việt Nam hoạt
động trên đất Trung Quốc cũng góp công, góp sức với phong trào cách mạng nơi đây:
24


Nguyễn Ái Quốc tham gia cuộc Tổng bãi công Hương Cảng - Quảng Châu; hơn 30
thanh niên Việt Nam đang học ở Trường Quân sự Hoàng Phố tham gia cuộc khởi nghĩa
Quảng Châu (12-1927); Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn đã đi cùng Hồng quân
Trung Quốc trong cuộc “Vạn lý trường chinh” lịch sử; Đảng Cộng sản Đông Dương
(đổi tên từ tháng 10-1930) phát truyền đơn, kêu gọi quần chúng đấu tranh chống can
thiệp vũ trang và bảo vệ các Xôviết Tàu khi thực dân Pháp điều động quân đội đàn áp
cuộc khởi nghĩa ở Tĩnh Tây (3-1935); đầu năm 1939, Việt Nam đã tổ chức một hội chợ
lớn để giúp đỡ các nạn nhân chiến tranh của Trung Quốc; nhiệt thành ủng hộ Trung
Quốc kháng chiến chống Nhật (tẩy chay hàng Nhật)... Những ví dụ trên minh chứng
tinh thần quốc tế vô sản, tình đồng chí, anh em và ý thức giúp bạn cũng là tự giúp
mình của Việt Nam đối với cách mạng Trung Quốc.
1.4.2. Phong trào cách mạng ở Ấn Độ

Từ những năm 1907 – 1909, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã bùng
nổ ở nhiều thành phố lớn trên khắp đất nước Ấn Độ và bị thực dân Anh đàn áp dã man.
Những năm 1919 – 1922, phong trào dân tộc của tư sản Ấn Độ do M.Gandi và Đảng
Quốc đại lãnh đạo tiếp tục bùng lên mạnh mẽ, với mục tiêu chấn hưng dân tộc, đòi độc
lập, phát triển kinh tế bằng con đường hợp pháp lan rộng khắp cả nước. Phong trào
đình công “bất bạo động” kết hợp với đấu tranh vũ trang của quần chúng phát triển
rộng khắp. Tuy phong trào bị đàn áp và bị thất bại nhưng thực dân Anh cũng buộc phải
thi hành một số cải cách cho đất nước và nhân dân Ấn Độ.
Tóm lại, sự sôi động của cách mạng thế giới và cách mạng ở một số nước
phương Đông đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của nhiều nhà yêu nước Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định sự tác động đó như sau: “Luồng gió từ nước Nga thợ
thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho
người Đông Dương…Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một
cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ
phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”.
2. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) và khuynh hướng tả
khuynh trong Quốc tế Cộng sản
2.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933)
Khủng hoảng kinh tế thường xuyên xảy ra trên thế giới, đặt biệt là ở các nước
tư bản, nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế lần này rất nghiêm trọng diễn ra trong thời
25


×