Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.29 KB, 93 trang )

HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI
VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 ĐẾN NĂM 1945

Tháng 8 năm 2019

MỤC LỤC

1


PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài...............................................................................................4
2. Mục đích của đề tài..........................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................7
CHƯƠNG I: NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ
NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945................................................................................7
1. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa xã hội của Liên Xô (1921 – 1941).........................................................7
2. Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế (1919 – 1945).....................14
3. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)............................................17
4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933)...................................19
5. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)..............................................20
CHƯƠNG II: NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ
1919 ĐẾN NĂM 1945.........................................................................................26
1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp (1919 – 1929)...............26
2. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 – 1945......................................28
3. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam (1919 – 1930)...........................33
4. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập (tháng 2-1930)................................39


5. Phong trào cách mạng 1930 – 1931..........................................................41
6. Phong trào dân chủ 1936 – 1939...............................................................44
7. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945.......................................47
8. Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ và thắng lợi.........................50
CHƯƠNG III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945..................................................54
1. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười ở Nga (1917) và công cuộc xây
dựng CNXH của Liên Xô (1921 – 1941) đến cách mạng Việt Nam...........54
2. Ảnh hưởng của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đến cách
mạng Việt Nam...............................................................................................57
3. Ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đến cách
mạng Việt Nam...............................................................................................60
2


4. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đến cách
mạng Việt Nam...............................................................................................62
5. Tác động của Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)......................64
IV. KHAI THÁC NỘI DUNG “MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI
VÀ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945” TRONG
GIẢNG DẠY......................................................................................................72
1. Hệ thống kiến thức.....................................................................................72
2. Các dạng câu hỏi........................................................................................73
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................85
1. Những vấn đề quan trọng của đề tài............................................................85
2. Đề xuất ý kiến.................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................91

3



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Lịch sử là gì? Đó là tiếng vọng của quá khứ trong tương lai và là ánh phản chiếu
của tương lai trên quá khứ” (Victor Hugo). Môn Lịch sử trong trường phổ thông là một
môn học quan trọng, không chỉ trang bị cho các em học sinh vốn kiến thức lịch sử của
dân tộc và tìm hiểu lịch sử thế giới mà còn góp phần to lớn trong việc phát triển các năng
lực và xây dựng niềm tin, lòng tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống dân tộc, chủ nghĩa
yêu nước, hình thành nhân cách và bản lĩnh con người Việt Nam để xây dựng đất nước và
hội nhập quốc tế.
Cũng như các môn học khác, mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử là vừa
phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện của học sinh trung học phổ thông, vừa phải
phát triển năng khiếu về môn học, để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài
năng thực sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử.
Sứ mệnh phát hiện, bồi dưỡng các tài năng khoa học lịch sử thuộc về trường trung
học phổ thông chuyên và các trường trọng điểm chất lượng cao của mỗi địa phương trong
cả nước. Đặc điểm của học sinh chuyên là những học sinh được tuyển chọn nghiêm túc
qua kì thi tuyển sinh vào các trường Trung học phổ thông chuyên, có sẵn tố chất và niềm
đam mê với môn học. Do vậy, phương pháp dạy học ở trường Trung học phổ thông
chuyên phải tiên tiến nhất, phù hợp với đối tượng học sinh này. Trong quá trình dạy học,
đặc biệt là trong nhiệm vụ bồi dưỡng các đội tuyển Học sinh giỏi quốc gia, vai trò của
người giáo viên lịch sử ở trường chuyên là phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều khiển
học sinh phát triển tư duy lịch sử, nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, tiến dần lên quá trình
tự học, tự nghiên cứu độc lập. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên phần lớn là
những vấn đề lịch sử tổng hợp, sâu rộng. Vì vậy, học sinh chuyên cần nắm vững, thông
hiểu một khối lượng lớn tri thức và biết vận dụng kiến thức để giải quyết được các vấn đề
đặt ra của môn học, thể hiện được tầm cao trí tuệ và bản lĩnh của bản thân, nỗ lực phấn
đấu đạt thành tích cao nhất trong kì thi chọn Học sinh giỏi quốc gia do Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức hàng năm.


4


Muốn đạt được những yêu cầu trên, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà
còn phải là sự chuyên sâu về kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ
thầy, cô giáo lịch sử dạy chuyên.
Phần Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 đến năm 1945 là một
giai đoạn quan trọng đối với tiến trình phát triển của loài người. Đây là thời kì diễn ra
nhiều sự kiện lớn có tính chất bước ngoặt. Trong Lịch sử thế giới đó là các sự kiện Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917, Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945),
… Lịch sử Việt Nam có các sự kiện như: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930,
Cách mạng tháng Tám năm 1945... Đây là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động thăng
trầm và cũng là giai đoạn khó học nhất đối với học sinh. Học sinh rất dễ nhầm lẫn, lạc đề
khi giải quyết các câu hỏi vận dụng phần kiến thức này. Điều đó, đòi hỏi người giáo viên
phải nghiên cứu, chọn lọc, cung cấp và hướng dẫn học sinh học hiểu đúng bản chất lịch
sử, mối quan hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 đến năm 1945.
Trên cơ sở đó, mỗi học sinh sẽ rút ra được những bài học, kinh nghiệm cho bản thân và
xác định được động lực phấn đấu.
Từ thực tiễn giảng dạy, nhóm giáo viên Lịch sử trường THPT chuyên Lương Văn
Tụy, tỉnh Ninh Bình đã tập hợp tài liệu, tiến hành nghiên cứu chuyên đề “Mối quan hệ
giữa Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945”. Chúng tôi hi
vọng rằng, chuyên đề sẽ là một tài liệu hữu ích để các đồng nghiệp, học sinh có thể tham
khảo, học tập. Trong quá trình biên soạn chuyên đề, dù rất cố gắng nhưng vẫn không thể
tránh khỏi khiếm khuyết, chúng tôi rất mong nhận được đóng góp ý kiến, bổ sung để
chuyên đề hoàn chỉnh hơn.
2. Mục đích của đề tài
Từ việc tập hợp, hệ thống và biên soạn nội dung chuyên đề cũng như hệ thống câu
hỏi - đáp án, chuyên đề Mối quan hệ giữa Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam từ năm
1919 đến năm 1945 nhằm mục đích:

* Về kiến thức: Chuyên đề tập trung làm rõ những vấn đề sau:
- Những sự kiện nổi bật của Lịch sử thế giới từ năm 1919 đến năm 1945.

5


- Những sự kiện nổi bật của Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945.
- Mối quan hệ của Lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm
1945.
- Xây dựng một số câu hỏi, bài tập giúp học sinh khắc sâu kiến thức cơ bản, nâng
cao cũng như kích thích tư duy, sự sáng tạo của học sinh, đáp ứng yêu cầu của cả hai kì
thi Trung học phổ thông quốc gia và thi học sinh giỏi.
Qua đó học sinh sẽ được trang bị kiến thức ở cả 4 mức độ: nhận biết, thông hiểu,
vận dụng thấp, vận dụng cao. Đồng thời, giúp giáo viên có thêm một nguồn tư liệu tham
khảo trong quá trình giảng dạy học sinh giỏi.
* Về kĩ năng: Việc học tập chuyên đề Mối quan hệ giữa Lịch sử thế giới và Lịch
sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945 sẽ giúp học sinh rèn luyện và củng cố thêm các
kĩ năng trình bày, phân tích, nhận định, đánh giá, so sánh, liên hệ các sự kiện, hiện tượng,
quy luật lịch sử,…
* Về thái độ: Chuyên đề góp phần bồi dưỡng thêm lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời khơi dậy trong các em ý thức làm chủ vận
mệnh đất nước cũng như trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ NĂM
1919 ĐẾN NĂM 1945

1. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội
của Liên Xô (1921 – 1941)
1.1. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
Cách mạng tháng Mười Nga là một cuộc cách mạng vĩ đại không chỉ với nước Nga
mà còn đối với Lịch sử nhân loại. Nó làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
từ kinh tế, chính trị và văn hóa nước Nga. Nó mở ra một thời đại mới cho nhân loại, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917 bùng nổ và thành công là do cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nước Nga đã có những
chuyển biến sâu sắc về chính trị, kinh tế.
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
- Tình hình kinh tế
Là một nước tư bản phát triển trung bình, nhưng ở nước Nga quá trình tập trung
sản xuất và hình thành các tổ chức độc quyền (xanhđica) đã phát triển nhanh chóng. Đầu
thế kỉ XX, ở Nga đã có 150 tổ chức độc quyền, lũng đoạn tất cả các ngành kinh tế quốc
dân.
Các tổ chức độc quyền không chỉ kiểm soát và chi phối nhiều lĩnh vực công nghiệp
quan trọng như dầu mỏ, luyện kim, than đá, đường sắt... mà còn kiểm soát cả trong lĩnh
vực ngân hàng - tín dụng. Năm 1890, các xí nghiệp có 100 công nhân chiếm 2% số xí
nghiệp nhưng đã sản xuất đến 50% tổng sản lượng công nông nghiệp.
Ở nước Nga đã xuất hiện sự lũng đoạn của tư bản tài chính trên cơ sở hợp nhất tư
bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chỉ 13
ngân hàng lớn ở Pêtécbua mà đã nắm trong tay 65% tổng số vốn của tư nhân và 72% số
tiền gửi vào ngân hàng. Do có thế lực kinh tế mạnh, tư bản độc quyền Nga đã giữ những
cương vị quan trọng trong Viện Đuma Quốc gia, trong các cơ quan nhà nước, câu kết chặt
chẽ với chính quyền Nga hoàng để chi phối chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước.
Tuy nhiên, khác với các nước đế quốc phương Tây, nước Nga bước sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc chưa hề trải qua một cuộc cách mạng tư sản. Tuy trong thời cận đại,

7



nước Nga có tiến hành hai cuộc cải cách (Cải cách nông nô 1861 và Cải cách của Xtôlpin
sau cách mạng 1905) nhưng mới chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
chưa xóa bỏ triệt để cơ cấu kinh tế - chính trị của chế độ phong kiến. Quan hệ sản xuất
phong kiến vẫn được duy trì bên cạnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Chế độ
sở hữu lớn về ruộng đất vẫn tồn tại. Hai phần ba ruộng đất nằm trong tay địa chủ, quý tộc
và nhà thờ, riêng gia đình Nga hoàng đã chiếm 7 triệu đềxiatin 1 ruộng đất, còn 30 nghìn
địa chủ chiếm 70 triệu đềxiatin ruộng đất, bằng số ruộng đất của 10,5 triệu nông nô.
Những tàn tích phong kiến - nông nô nói trên là nguyên nhân làm cho nền kinh tế
nước Nga lạc hậu và chậm phát triển.
Trước chiến tranh sản lượng công nghiệp Nga chỉ chiếm 4% sản lượng công
nghiệp thế giới, trong lúc đó Anh chiếm 13%, Mĩ 38%. Công nghiệp Nga đứng hàng thứ
năm trên thế giới sau Anh, Pháp, Đức và Mĩ. Chủ nghĩa tư bản ở Nga phát triển không
hoàn chỉnh, không có nền đại công nghiệp cơ khí do đó phải lệ thuộc vào các nước đế
quốc bên ngoài. Tư bản nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào nước Nga. Nước Nga trở thành
thuộc địa của các nước đế quốc, đặc biệt là Anh, Pháp. Đầu tư của nước ngoài vào Nga
trong lĩnh vực luyện kim chiếm 72%, trong lĩnh vực dầu mỏ chiếm 50%. Nga cung cấp
55% số sắt và 74,3% số than đá cho nhu cầu hàng năm của Pháp.
Như vậy, nền kinh tế Nga tuy còn lạc hậu nhưng nó đã chứa đựng nhiều mâu
thuẫn cần phải giải quyết: mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản với quan hệ sản
xuất phong kiến, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển độc lập của nền kinh tế Nga với
sự bóc lột và kìm hãm của chủ nghĩa tư bản nước ngoài. Tình hình kinh tế đã trở
thành một trong những tiền đề cho cách mạng.
- Tình hình chính trị - xã hội
Trên cơ sở nền kinh tế nói trên, một chế độ chính trị - xã hội Nga tồn tại có những
điểm khác với các nước đế quốc lúc bấy giờ. Nước Nga là một nước quân chủ chuyên
chế, mọi quyền lực chính trị nằm trong tay Nga hoàng. Câu kết chặt chẽ với giai cấp tư
sản, nền chuyên chính của giai cấp địa chủ mà Nga hoàng là đại diện không chỉ nắm giữ
mọi đặc quyền, đặc lợi về chính trị và kinh tế mà còn thẳng tay bóc lột và đàn áp nhân
1 Đơn vị đo lường ruộng đất của Nga, 1 đềxiatin = 1,09 ha.


8


dân lao động, tước đoạt các quyền tự do dân chủ tối thiểu của nhân dân. Bản chất của
chế độ Nga hoàng là chế độ phong kiến quân phiệt, đó là nên chuyên chính của bọn
địa chủ - chủ nông nô.
Nhân dân Nga không có một quyền tự do dân chủ nào. Các quyền tự do tối thiểu
như tự do trình bày ý kiến của mình, tự do hội họp cũng không có chưa nói gì đến quyền
tự do lập hội, tự do xuất bản báo chí.. 90% dân số mù chữ. Nhân dân bị nhiều tầng áp bức,
bóc lột, đời sống hết sức cùng cực.
Chế độ Nga hoàng còn là nhà tù của các dân tộc. Là một quốc gia có hơn 100 dân
tộc khác nhau, trong đó các dân tộc không phải Nga chiếm 57% dân số. Họ vừa bị bọn địa
chủ và tư sản địa phương áp bức bóc lột, vừa bị kì thị, gây chia rẽ dân tộc, nền văn hóa
truyền thống của dân tộc bị hủy hoại.
Trong khi đế quốc Nga đi xâm lược và áp bức các dân tộc nhỏ, lạc hậu, thì chính
nước Nga lại lệ thuộc vào các nước đế quốc phương Tây, trở thành thuộc địa chung cho
các nước đế quốc trong đó chủ yếu là Anh và Pháp.
Sự tồn tại đồng thời quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất
tiền tư bản đã làm cho nước Nga thành nơi tập trung những mâu thuẫn gay gắt của
chủ nghĩa đế quốc: mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, mâu thuẫn giữa địa chủ và nông
dân, mâu thuẫn giữa đế quốc Nga với các dân tộc bị áp bức và mâu thuẫn giữa đế
quốc Nga với các nước đế quốc khác. Những mâu thuẫn trên chồng chéo nhau và
ngày càng gay gắt, nhất là khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Nước Nga
trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc mà cách mạng
có thể chọc thủng. Những mâu thuẫn gay gắt nói trên cũng dẫn tới sự hình thành
những tiền đề khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội ở nước Nga.
- Tình hình nước Nga sau Cách mạng tháng Hai năm 1917
Sau Cách mạng 1905 - 1907, Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế đứng đầu
là Nga hoàng Ni-cô-lai II. Sự tồn tại của chế độ quân chủ và những tàn tích của chế độ

phong kiến không chỉ làm cho đời sống nhân dân Nga ngày càng khó khăn mà còn kìm
hãm nặng nề sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước này. Năm 1914, Nga hoàng tham
gia cuộc chiến tranh đế quốc, gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước: kinh tế

9


suy sụp, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi... Quân đội liên tiếp thua trận. Mọi nỗi khổ đè nặng
lên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân, công nhân Nga và hơn 100 dân tộc khác
trong đế quốc Nga. Phong trào phản đối chiến tranh, đòi lật đổ chế độ Nga hoàng lan rộng
khắp trong nước. Chính phủ Nga hoàng ngày càng tỏ ra bất lực, không còn khả năng tiếp
tục thống trị như cũ được nữa. Nước Nga đã tiến sát tới một cuộc cách mạng.
Nội bộ giai cấp thống trị Nga mâu thuẫn sâu sắc. Nga hoàng Nicôlai II thấy nguy
cơ trực tiếp từ giai cấp tư sản nên một mặt tập trung quân đội, cảnh sát để chống giai cấp
tư sản, giải tán Viện Đuma cùng các tổ chức kinh tế, chính trị của giai cấp tư sản; mặt
khác, đàm phán bí mật và âm mưu kí hòa ước riêng rẽ với Đức để có thể rảnh tay đối phó
với phong trào cách mạng. Giai cấp tư sản Nga chống lại việc kí hòa nước và chủ trương
theo đuổi cuộc chiến tranh đến cùng. Được sự hậu thuẫn của các nước đế quốc Anh, Pháp
và chỗ dựa trong nước là lực lượng Mensêvích và Xã hội cách mạng, giai cấp tư sản dự
định tiến hành “một cuộc đảo chính cung đình” để lật đổ Nga hoàng Nicôlai II.
Tình thế cách mạng đã hình thành. Quần chúng nhân dân do bị áp bức và phải chịu
hậu quả của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nên khi được sự lãnh đạo kịp thời của
Đảng Bônsêvích đã xuống đường tham gia cuộc Cách mạng tháng Hai năm 1917.
Tháng 2 – 1917 (theo lịch Nga)2 cuộc cách mạng dân chủ tư sản bùng nổ ở Nga.
Sự kiện mở đầu là cuộc biểu tình của 9 vạn nữ công nhân ở Thủ đô Pê-tơ-rô-grát (nay là
Xanh Pê-téc-bua)3. Phong trào nhanh chóng lan rộng toàn thành phố và chuyển từ tổng
bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở, bắt giam
các bộ trưởng và tướng tá của Nga hoàng. Chế độ quân chủ chuyên chế sụp đổ.
Tin thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Thủ đô đã lan nhanh khắp trong nước. Trong
vòng 8 ngày trên phạm vi cả nước, quần chúng nhân dân đã vùng dậy lật đổ chế độ cũ,

bầu ra các xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Giai cấp tư sản thành lập
Chính phủ lâm thời. Nước Nga trở thành nước Cộng hòa.
Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai thắng lợi. Tuy nhiên, một tình hình chính trị
phức tạp chưa từng có đã diễn ra ở nước Nga. Đó là tình trạng hai chính quyền song song
2 Ở Nga, trước tháng 3 – 1918 dùng lịch Nga, so với dương lịch chậm 13 ngày. Chuyên đề ghi những sự kiện trước
tháng 3 – 1918 theo lịch Nga, có ghi chú phần tính theo dương lịch trong ngoặc đơn.
3 Từ tháng 3 – 1918, Mát-xcơ-va trở thành Thủ đô của nước Nga.

10


tồn tại: Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính.
Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng
tồn tại lâu dài. Trước tình hình đó, Lê-nin và Đảng Bônsêvích đã chuẩn bị kế hoạch tiếp
tục làm cách mạng, lật đổ Chính phủ tư sản lâm thời.
Tháng 4 – 1917, Lê-nin có bản báo cáo quan trọng trước Trung ương Đảng
Bônsêvích (sau này đã đi vào Lịch sử với tên gọi Luận cương tháng tư), chỉ ra mục tiêu
và đường lối chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trải qua 8 tháng đấu tranh, từ đấu tranh hoà bình nhằm tập hợp lực lượng quần
chúng đông đảo để đủ sức lật đổ giai cấp tư sản, Đảng Bônsêvích đã chuyển sang khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đầu tháng 10 – 1917, không khí cách mạng bao trùm
khắp nước Nga. Ngày 7- 10 (20 – 10), Lê-nin bí mật rời Phần Lan về Pê-tơ-rô-grát, trực
tiếp chỉ đạo cách mạng. Các đội Cận vệ đỏ ra đời. Trung tâm Quân sự cách mạng được
thành lập để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước.
1.1.2. Diễn biến cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
Cuộc khởi nghĩa bắt đầu đêm 24 – 10 (6 - 11). Các đội Cận vệ đỏ đã nhanh chóng
chiếm được những vị trí then chốt ở Thủ đô. Đêm 25 – 10 (7 – 11), quân khởi nghĩa
chiếm Cung điện Mùa Đông. Toàn bộ Chính phủ tư sản lâm thời (trừ Thủ tướng Kê-renxki) bị bắt. Ngày 25 – 10 (7 – 11) trở thành ngày thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười. Tiếp theo, khởi nghĩa thắng lợi ở Mát-xcơ-va, đầu năm 1918, cách
mạng giành được thắng lợi hoàn toàn trên đất nước Nga rộng lớn.

1.1.3. Ý nghĩa
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thắng lợi đã làm rung chuyển cả thế giới mở ra
một thời kỳ mới cho lịch sử loài người. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga có ý
nghĩa lịch sử trọng đại không chỉ đối với nước Nga mà còn đối với cả thế giới.
* Trước hết là đối với nước Nga:
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa tư bản
và chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở nước Nga mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử nước
Nga. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một đất nước rộng lớn chiếm 1/6 diện tích thế
giới giai cấp công nhân, nhân dân lao động được giải phóng thoát khỏi mọi xiềng xích nô

11


lệ đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình bắt tay vào công cuộc xây dựng
chế độ mới.
* Đối với thế giới: Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tiến trình lịch sử và cục diện thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã đánh đổ chủ nghĩa tư bản ở một khâu
quan trọng nhất của nó là Đế quốc Nga, làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là hệ thống
duy nhất trên toàn thế giới nữa. Trên thế giới hình thành 2 hệ thống xã hội đối lập là tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế
giới chỉ ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước con đường đấu tranh để
tự giải phóng mình. Nhờ có Cách mạng tháng Mười Nga mà phong trào công nhân ở các
nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông có sự
gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi cũng để lại nhiều bài học kinh nghiêm quý
báu: Bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, bài học về khởi nghĩa vũ trang, về
xây dựng chính quyền mới...Được sự cổ vũ của Cách mạng tháng Mười Nga phong trào
cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ trong những năm 1919- 1923 đã làm lung lay nền

thống trị của giai cấp tư sản ở nhiều nước.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời kỳ mới cho Lịch sử thế giới:
thời kỳ Lịch sử thế giới hiện đại.
Đây chính là sự kiện tác động mạnh mẽ nhất đến Lịch sử Việt Nam sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất.
1.2. Công cuộc xây dựng CNXH của Liên Xô (1921 – 1941)
Năm 1921, nước Nga Xô viết bước vào thời kì hoà bình xây dựng đất nước trong
hoàn cảnh cực kì khó khăn. Nền kinh tế quốc dân bị tàn phá nghiêm trọng tình hình chính
trị không ổn định, các lực lượng phản cách mạng điên cuồng chống phá, gây bạo loạn ở
nhiều nơi. Trong bối cảnh đó, tháng 3 - 1921, Đảng Bônsêvich Nga quyết định thực hiện
Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lê-nin đề xướng, bao gồm các chính sách chủ yếu
về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và tiền tệ. Bằng việc thực hiện Chính sách

12


kinh tế mới, chỉ sau một thời gian ngắn, nền kinh tế quốc dân của nước Nga Xô viết đã có
những chuyển biến rõ rệt. Chính sách kinh tế mới là sự chuyển đổi kịp thời từ nền kinh tế
do Nhà nước nắm độc quyền về mọi mặt sang nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng vẫn
đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Với chính sách này, nhân dân Xô viết đã vượt qua
được những khó khăn to lớn, phấn khởi sản xuất và hoàn thành công cuộc khôi phục kinh
tế. Cho đến nay, Chính sách kinh tế mới còn để lại nhiều kinh nghiệm đối với công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước trên thế giới.
Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, nhân dân Liên Xô bước vào thời
kì xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiệm trọng tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá theo đường lối ưu tiên triển công nghiệp
nặng: công nghiệp chế tạo máy móc và nông cụ, công nghiệp năng lượng (điện, than, dầu
mỏ...), công nghiệp khai khoáng, công nghiệp quốc phòng... Trong 2 năm đầu (1926 1927), Liên Xô đã từng bước giải quyết thành công các vấn đề về vốn đầu tư, đào tạo cán
bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề...
Công cuộc công nghiệp hoá ngày càng mở rộng đòi hỏi phải có những kế hoạch

dài hạn với những mục tiêu cụ thể cho từng thời kì. Đó là những kế hoạch 5 năm phát
triển kinh tế - xã hội. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 – 1932) và kế hoạch 5 năm lần
thứ hai (1933 - 1937) đều được hoàn thành trước thời hạn. Từ năm 1937, nhân dân Liên
Xô tiếp tục thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, nhưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội tạm thời bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức.
Công cuộc xây dựng CNXH của Liên Xô (1921 – 1941) thành công đã đưa Liên
Xô từ một nước nông nghiệp trở thành một cường quốc công nghiệp, với nền công nghiệp
hùng hậu, một nền nông nghiệp được cơ giới hóa. Bộ mặt đất nước Xô Viết có sự thay đổi
sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao.
Liên Xô trở thành một cường quốc hùng mạnh, đã phá bỏ thế bao vây của các nước tư
bản, là một quốc gia lớn mà các nước tư bản không thể xem thường, buộc họ phải lần lượt
từ bỏ chính sách cô lập, bao vây Liên Xô. Từ những năm 1924 - 1925 trở đi, các nước tư
bản phải lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Liên Xô có đủ sức
mạnh về vật chất và tinh thần để đánh bại chủ nghĩa phát xít trong cuộc chiến tranh vệ

13


quốc vĩ đại (1941-1945). Những thành công trong công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô
đã góp phần cổ vũ phong trào cách mạng thế giới, giúp những nhà yêu nước ở các thuộc
địa trong đó có Việt Nam tin tưởng và đi theo con đường cách mạng vô sản.
2. Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế (1919 – 1945)
2.1. Hoạt động của Quốc tế Cộng sản (1919 – 1943)
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, cao trào cách mạng bùng nổ ở nhiều nước châu
Âu, dẫn tới các Đảng Cộng sản được thành lập ở nhiều nước Đức, Áo, Ba Lan, Phần
Lan... Lúc này, các Đảng Cộng sản còn non yếu về tư tưởng, lí luận tổ chức, đòi hỏi phải
có một tổ chức quốc tế để tập hợp lực lượng và chỉ đạo phong trào theo một đường lối
đúng đắn. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự tồn tại của nhà nước Xô viết
là điều kiện thuận lợi để thực hiện yêu cầu đó. Nhờ sự cố gắng bền bỉ của Lênin và một số
nhà hoạt động cách mạng quốc tế, tổ chức Quốc tế Cộng sản đã được thành lập ngày 2-31919 tại Mát-xcơ-va. Từ khi thành lập đến lúc giải tán, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành 7

đại hội; trong đó, những đại hội có tác động đến Việt Nam là: Đại hội II và Đại hội VII.
Đại hội II (1920): thông qua một loạt Cương lĩnh và văn kiện quan trọng nhằm
xác định đường lối chiến lược và sách lược của phong trào cách mạng thế giới (Luận
cương về vai trò của Đảng Cộng sản trong cách mạng vô sản, 21 điều kiện gia nhập Quốc
tế Cộng sản, Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa...). Đại hội II có ý nghĩa sâu sắc
đối với cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa đã quyết định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản.
Đại hội VII (1935): Trước sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến
tranh thế giới bùng nổ, Quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân
dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà
là chủ nghĩa phát xít. Chủ nghĩa phát xít là nền chuyên chính khủng bố công khai của
những phần tử phản động nhất, số vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính.
Đại hội nêu nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giành dân chủ và
bảo vệ hòa bình. Nêu rõ vấn đề về tổ chức: thiết lập liên minh công nhân và nông dân,
trên cơ sở đó thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản
Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu cùng tham dự đại hội. Căn cứ vào chủ trương

14


của Quốc tế Cộng sản và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể, Đảng Cộng sản Đông Dương
phát động cuộc đấu tranh dân chủ công khai trong những năm 1936 – 1939.
Quốc tế Cộng sản ra đời năm 1919 đã đóng góp nhiều công lao to lớn cho cách
mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản đã đoàn kết giai cấp công nhân và nhân dân các nước tư
bản chính quốc, các nước thuộc địa, phụ thuộc chống chủ nghĩa đế quốc. Quốc tế Cộng
sản trở thành cơ quan lãnh đạo của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới, có vai trò trong chỉ đạo cách mạng thế giới với đường lối đúng đắn thống nhất. Để
lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân
và các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam.
2.2. Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế (1919 – 1945)

- Giai đoạn 1919 – 1923:
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã tác động rất lớn đến phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế: một mặt cổ vũ tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân trong
các nước tư bản và các dân tộc bị áp bức, mặt khác soi sáng cho họ con đường đấu tranh
chống giai cấp tư sản.
Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, liên tục và rộng
khắp với nội dung phong phú ở các nước Hunggari, Đức, Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc,…
đưa đến sự thành lập của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước như: Hunggari, Đức (1918);
Anh, Pháp (1920); Mĩ, Trung Quốc (1921), …. Sự kiện này có tác dụng cổ vũ nhân Việt
Nam đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
`

- Giai đoạn 1924 - 1929:
Sau khi vượt qua được giai đoạn khủng hoảng, từ năm 1924, CHỦ NGHĨA TƯ

BẢN khôi phục được nền kinh tế và bước vào giai đoạn ổn định (1924-1929). Các tư bản
tư bản Âu - Mĩ thực hiện việc hợp lí hóa sản xuất, áp dụng nhiều phương pháp tổ chức lao
động hợp lí, tăng cường bóc lột công nhân. Trên cơ sở sự phồn vinh kinh tế, chính quyền
các nước TBCN đã sử dụng những người dân chủ - xã hội như là công cụ chống lại phong
trào công nhân. Mặt khác, sự phồn vinh về kinh tế, mức sống tăng lên, nạn thất nghiệp
giảm đã tạo ra một ảo tưởng về sự “ưu việt” của chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó,
phong trào cách mạng vô sản giảm sút, đi vào thoái trào. Tuy vậy, những cuộc đấu tranh

15


của các Đảng Cộng sản nhằm thống nhất giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản vẫn
nổ ra.
Ở Đức, Đảng Cộng sản đứng đầu là E. Ten-lơ-man đã lãnh đạo phong trào quần
chúng công nhân phản đối giai cấp tư sản áp dụng phương pháp tăng cường độ lao động,

kêu gọi công nhân đấu tranh thành lập mặt trận thống nhất chống tư bản.
Ở Pháp, bên cạnh phong trào chống hợp lí hóa sản xuất, ngày 1 – 8 - 1929, Đảng
Cộng sản phát động chiến dịch chống nguy cơ chiến tranh thu hút hàng vạn người lao
động tham gia.
- Đảng Cộng sản ở Ba Lan, Anh, Italia, cũng lãnh đạo giai cấp công nhân đấu tranh
thu được nhiều thắng lợi. Những người cộng sản Ba Lan đã giành được gần 1 triệu phiếu
trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1928. Cuộc bãi công của công nhân Anh vào tháng 51926 đã lôi cuốn gần 5 triệu người tham gia.
- Giai đoạn 1929 - 1945:
Chủ nghĩa tư bản đã lâm vào cuộc khủng hoảng hoảng kinh tế trầm trọng và đưa
đến những hậu quả rất nặng nề. Khủng hoảng đã làm cho những mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc thêm. Mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản trong các nước
tư bản dẫn tới những cuộc đấu tranh giai cấp mới ngày càng mạnh mẽ. Thời kì ổn định
tạm thời của chủ nghĩa tư bản đã kết thúc, các nước tư bản đang tìm lối thoát bằng con
đường phát xít hóa bộ máy nhà nước và chuẩn bị chiến tranh. Trong tình hình đó, phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản bùng nổ với
một sức mạnh mới.
Nước Đức là điển hình của khủng hoảng và là nơi xuất hiện chủ nghĩa phát xít và
nguy cơ chiến tranh. Năm 1933, Hitle lên làm Thủ tướng Đức, thi hành đường lối phát xít
và xúc tiến chuẩn bị gây chiến tranh thế giới.
Ngay từ những năm 1930-1931, Đảng Cộng sản Đức đã công bố hai cương lĩnh,
Cương lĩnh giải phóng nhân dân và Cương lĩnh ruộng đất, nhằm tìm ra con đường cách
mạng để thoát khỏi sự khủng hoảng và chia ruộng đất cho nông dân. Khi Hitle lên cầm
quyền, E. Tenlơman đã đề nghị các lãnh tụ Đảng Xã hội - Dân chủ và các công đoàn hãy
phối hợp bãi công để chống lại nguy cơ phát xít, nhưng bị từ chối.

16


Tại Brucxen (Bỉ), tháng 10-1935, Đảng Cộng sản Đức đã họp đại hội vạch ra
nhiệm vụ trung tâm của Đảng là thống nhất hành động trong các bộ phận của giai cấp

công nhân và thành lập mặt trận nhân dân chống phát xít nhằm xây dựng một nước Cộng
hòa dân chủ. Trong hai năm 1935-1936 phong trào công nhân vẫn nổ ra, riêng năm 1935
đã có 25.000 công nhân tham gia bãi cong.
Ở Pháp, trong các năm 1930-1932, nhiều cuộc bãi công liên tiếp nổ ra.
Ở Anh, bên cạnh quá trình đấu tranh giành quyền lãnh đạo phong trào quần chúng
lao động từ năm 1929, cuối năm 1930, phong trào đấu tranh cho Hiến chương công nhân
đã đưa ra những yêu sách về kinh tế và tiếp theo là các yêu sách về chính trị như chống
chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên Xô, trả lại độc lập cho các nước thuộc địa, rút quân đội
ra khỏi Ấn Độ, trả tự do cho tù chính trị,..
Trước tình hình thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là sự phát triển của phong
trào Cộng sản và công nhân quốc tế và sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít. Tháng 7 –
1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva (Liên Xô). Đại hội đã
quyết nghị nhiều vấn đề quan trọng như: xác định kẻ thù là chủ nghĩa phát xít và nhiệm
vụ trước mắt của giai cấp công nhân là chống chủ nghĩa phát xít, mục tiêu đấu tranh là
giành dân chủ, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng
Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội. Tháng 6 – 1936,
Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một
số chính sách tiến bộ ở thuộc địa trong đó có Việt Nam.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản, công nhân và
nhân dân thế giới đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát
xít và ngăn chặn chiến tranh thế giới, giúp đỡ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước phụ thuộc và thuộc địa cũng như đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh đòi tự
do dân chủ trong các nước tư bản.
3. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)
3.1. Hoàn cảnh Lịch sử
Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, sự phát triển không đồng đều giữa các nước tư
bản về kinh tế và chính trị đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng giữa các nước đế

17



quốc. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa đã dẫn đến các cuộc chiến
tranh đế quốc đầu tiên: Chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1895); Chiến tranh Mĩ - Tây Ban
Nha (1898); Chiến tranh Anh - Bôơ (1899 – 1902); Chiến tranh Nga – Nhật (1904 –
1905), đây được xem là bước dạo đầu của chiến tranh thế giới. Chính mâu thuẫn giữa các
nước đế quốc về vấn đề thuộc địa chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chiến tranh.
Để chuẩn bị một cuộc chiến tranh lớn tranh giành thị trường, thuộc địa, các nước
đế quốc đã thành lập hai khối quân sự đối lập: Khối Liên minh (1882) gồm: Đức, Áo –
Hung. Khối Hiệp ước (1907): Anh, Pháp, Nga. Cả hai khối đều tích cực chạy đua vũ trang
nhằm chia lại thế giới. Ngày 28 – 6 - 1914, thái tử Áo – Hung bị ám sát, lợi dụng sự kiện
này phe Đức, Áo – Hung chớp thời cơ gây chiến tranh.
Ngày 28 – 7 – 1914, Áo – Hung tuyên chiến với Xéc-bi. Từ ngày 1 đến ngày 3 – 8
– 1914, Đức tuyên chiến với Nga, Pháp. Ngày 4 - 8 Anh tuyên chiến với Đức. Chiến
tranh thế giới bùng nổ.
3.2. Diễn biến
Chiến tranh thế giới thứ nhất chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (1914 - 1916): Giai đoạn này, Đức tập trung lực lượng về phía
Tây nhằm thôn tính Pháp. Do Nga tấn công Đức ở Phía Đông nên Pháp được cứu nguy.
Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Đức thất bại. Năm 1916 hai phe chuyển sang thế
cầm cự. Hai phe lôi kéo nhiều nước tham gia, sử dụng nhiều vũ khí hiện đại dẫn đến hàng
triệu người chết và bị thương. Trong giai đoạn thứ nhất của chiến tranh, gánh nặng của
của chiến tranh đã làm cho đời sống nhân dân lao động ở các nước ngày càng khốn cùng.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng
nhân dân phát triển nhanh chóng. Tình thế cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nước châu Âu.
Giai đoạn thứ hai (1917 – 1918): Tháng 2 – 1917, cách mạng Dân chủ tư sản ở
Nga diễn ra, phong trào cách mạng thế giới dâng cao buộc Mĩ tham chiến và đứng về phe
Hiệp ước (4-1917). Phe Liên minh liên tiếp thua trận. Trong năm 1917 hai phe vẫn ở thế
cầm cự. Tháng 11 - 1917, dưới sự lãnh đạo của Lê-nin và Đảng Bônsêvích, nhân dân Nga
đứng lên làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Xô viết ra đời, thông qua Sắc
lệnh Hòa bình, kêu gọi các nước tham chiến kết thúc chiến tranh. Từ tháng 7 -1918, Mĩ đổ


18


bộ vào châu Âu nhờ đó phe Hiệp ước liên tiếp mở các cuộc tấn công làm cho đồng minh
của Đức lần lượt đầu hàng. Ngày 11 – 11 – 1918, Đức đầu hàng vô điều kiện. Chiến
tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe Đức, Áo-Hung.
3.3. Hậu quả
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) là một cuộc chiến tranh phi nghĩa,
cuộc chiến tranh đầu tiên có quy mô toàn cầu, thu hút nhiều nước tham gia và nhiều loại
vũ khí hiện đại, thiệt hại về người và của rất nặng nề. Gánh nặng của chiến tranh đổ lên
đầu nhân dân lao động ở các nước tư bản, đế quốc cũng như ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
Pháp là nước bị thiệt hại nặng nề nhất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (hơn 1,4
triệu người chết, thiệt hại về vật chất lên gần 200 tỉ phrăng). Để bù đắp thiệt hại do chiến
tranh gây ra Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương, làm cho
nền kinh tế, xã hội Việt Nam có những chuyển biến sâu sắc.
4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933).
Tháng 10 - 1929 cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra ở nước Mĩ sau đó lan sang hầu
hết các nước tư bản, lan sang các nước thuộc địa, kéo dài đến 1933. Đây là cuộc khủng
hoảng kinh tế có quy mô lớn nhất, kéo dài nhất và gây ra những hậu quả nặng nề nhất
trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản.
*Nguyên nhân: Trong những năm 1924 - 1929 các nước tư bản bước vào thời kỳ
ổn định về chính trị và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế
diễn ra không đồng đều giữa các nước tư bản. Hơn nữa sự phát triển kinh tế mạnh mẽ
nhưng thiếu kế hoạch, không tương xứng với sự cải thiện đời sống của đa số nhân dân dẫn
tới khủng hoảng kinh tế (hàng hóa ế thừa cung vượt quá cầu gây ra khủng hoảng thừa).
* Cuộc khủng hoảng diễn ra từ tháng 10 - 1929, kéo dài đến năm 1933 bắt đầu
từ Mĩ sau đó lan sang các nước tưbản khác: Đức, Anh, Pháp…trong đó trầm trọng nhất là
năm 1932.

* Hậu quả: Cuộc khủng hoảng đã gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính
trị, xã hội

19


Về kinh tế: Cuộc khủng hoảng đã tàn phá nặng nề nền kinh tế thế giới, làm cho
mức sản xuất ở các nước tư bản giảm sút tới 42%. Cuộc khủng hoảng diễn ra ở tất cả các
nghành công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, ngân hàng… Mọi hoạt động sản xuất đều bị
ngừng trệ. Để giữ giá hàng hóa, giai cấp tư sản các nước đã phá hủy đi một khối lượng
lớn hàng hóa cùng với các cơ sở sản xuất. Hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, nông
dân phá sản…đời sống người lao động hết sức khó khăn.
Về xã hội: Để bù đắp những thiệt hại do cuộc khủng hoảng gây ra, giai cấp tư sản
tăng cường vơ vết, bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nước và tìm cách
trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng lên nhân dân các nước thuộc địa làm cho mâu thuẫn
giữa nhân dân lao động với giai cấp tư sản, giữa các dân tộc thuộc địa với chính quốc
ngày càng gay gắt, phong trào cách mạng có điều kiện phát triển.
Về Chính trị: Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã đe dọa nghiêm trọng sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Các cuộc biểu tình liên tục diễn ra ở các nước tư bản. Các
nước đế quốc có nhiều thuộc địa như Anh, Pháp, Mĩ đã tiến hành những cải cách về kinh
tế, xã hội: đổi mới quá trình quản lý, tổ chức lại sản xuất, trút gánh nặng khủng hoảng lên
nhân dân các nước thuộc địa. Còn những nước đế quốc có ít thuộc địa như Đức, Italia,
Nhật lại tiến hành phát xít hóa bộ máy nhà nước dẫn tới sự xuất hiện của chủ nghĩa phát
xít. Chủ nghĩa phát xít ra đời đã ra sức chạy đua vũ trang đe dọa nghiêm trọng đến nền
hòa bình và an ninh thế giới.
5. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)
5.1. Hoàn cảnh lịch sử
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu thuẫn về quyền lợi,
về lãnh thổ hết sức gay gắt giữa các nước đế quốc với nhau. Sự phân chia thế giới theo Hệ
thống Vécxai - Oasinhtơn chứa đựng những mẫu thuẫn không thể dung hoà được giữa các

nước đế quốc. Những mâu thuẫn đó đã dẫn tới một cuộc chiến tranh mới giữa các nước đế
quốc để phân chia lại thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm sâu sắc thêm những mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, dẫn đến việc lên cầm quyền của các thế lực phát xít ở Đức,
Italia, Nhật Bản. Các nước Đức, Italia, Nhật Bản tăng cường chạy đua vũ trang, chuẩn bị

20


cho cuộc chiến tranh thế giới. Chủ nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên là thủ phạm gây ra
Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trật tự thế giới được hình thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất vốn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn và bất ổn. Do mâu thuẫn về quyền lợi (thị trường, thuộc địa) giữa các
nước đế quốc đã dần dần hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: khối Đồng minh Anh
– Pháp - Mĩ và khối phát xít Đức – Italia - Nhật Bản. Tuy nhiên, chính sách hai mặt của
các cường quốc phương Tây đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến.
Chiến tranh thế giới thứ hai còn gắn liền mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với
chủ nghĩa xã hội và âm mưu tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Khối các nước đế quốc mặc dù có mâu thuẫn với khối phát xít nhưng đều thống nhất với
nhau trong âm mưu chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới.
5.2. Diễn biến
Chiến tranh thế giới thứ hai chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ thắng 9 – 1939 đến tháng 6 – 1941, chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ và lan rộng ở châu Âu.
Từ tháng 9 – 1939 đến tháng 9 – 1940 phát xít Đức tấn công Ba Lan và xâm chiếm
châu Âu. Rạng sáng 1 - 9 – 1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và
Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Với ưu thế
tuyệt đối về sức mạnh quân sự, quân Đức áp dụng chiến lược “Chiến tranh chớp nhoáng”
và chiếm được Ba Lan sau gần một tháng. Trong khi đó, liên quân Anh – Pháp dàn trận ở
biên giới phía tây nước Đức, nhưng không tấn công Đức và không có hành động quân sự

nào chi viện cho Ba Lan. Tháng 4 - 1940, quân Đức chuyển hướng tấn công từ phía đông
sang phía tây, chiếm hầu hết các nước tư bản châu Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan,
LúcXăm-bua và đánh thẳng vào nước Pháp. Ngày 10 – 6 – 1940, Chính phủ Pháp rời Pari chạy về Tua. Quân Đức tràn vào nước Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần chiến đấu
và phải kí Hiệp định đình chiến ngày 22 - 6 – 1940. Theo đó, Đức chiếm đóng 3-4 lãnh
thổ Pháp (bao gồm cả Thủ đô Pa-ri). Tại vùng phía nam nước Pháp không bị chiếm đóng,
Chính phủ Pháp, do Pê-tanh làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức.
Tháng 7- 1940, quân Đức thực hiện kế hoạch tiến đánh nước Anh. Tuy nhiên, do ưu thế

21


về không quân và hải quân của Anh, đồng thời do sự viện trợ của Mĩ dành cho Anh bắt
đầu từ tháng 9 – 1940, kế hoạch đổ bộ lên nước Anh của Đức không thực hiện được.
Từ tháng 9 - 1940 đến tháng 6 – 1941, phe phát xít bành trướng ở Đông và Nam
Âu. Tháng 9 – 1940, nhằm củng cố khối liên minh phát xít, Hiệp ước Tam cường Đức - Ita-li-a- Nhật Bản được kí kết tại Béc-lin. Hiệp ước quy định, nếu một trong ba nước bị đối
phương tấn công thì hai nước kia phải lập tức trợ giúp nước đó về mọi mặt; công khai về
việc phân chia thế giới: Đức, I-ta-li-a ở châu Âu, Nhật Bản ở Viễn Đông. Từ tháng 10 –
1940, Hít-le chuyển sang thôn tính các nước Đông và Nam châu Âu. Các nước Ru-ma-ni,
Hung-ga-ri, Bun-ga-ri trở thành chư hầu của Đức và bị quân Đức chiếm đóng. Bằng vũ
lực, quân Đức thôn tính Nam Tư và Hi Lạp. Đến mùa hè năm 1941, phe phát xít đã thống
trị phần lớn châu Âu. Phát xít Đức đã chuẩn bị xong mọi điều kiện cần thiết để tấn công
Liên Xô.
Giai đoạn thứ hai: Từ tháng 6 – 1941 đến tháng 11 - 1942, chiến tranh lan rộng
khắp thế giới.
Phát xít Đức tấn công Liên Xô. Ngay từ tháng 12 – 1940, Hít le đã thông qua kế
hoạch tấn công Liên Xô với chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”, đánh nhanh thắng
nhanh, tận dụng ưu thế về trang thiết bị kĩ thuật và yếu tố bất ngờ. Ngày 22 - 6 – 1941,
phát xít Đức tấn công Liên Xô. Ba đạo quân Đức gồm 5,5 triệu người đồng loạt tấn công
trên suốt dọc tuyến biên giới phía tây Liên Xô. Trong những tháng đầu tiên của cuộc
chiến tranh, nhờ ưu thế về vũ khí và kinh nghiệm tác chiến, quân Đức tiến sâu vào lãnh

thổ Liên Xô. Đạo quân phía bắc bao vây Lê-nin-grát (tức Xanh Pê-téc-bua), đạo quân
trung tâm tiến tới ngoại vi Thủ đô Mát-xcơ-va, đạo quân phía nam chiếm Ki-ép và phần
lớn U-crai-na. Quân đội và nhân dân Liên Xô kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 12 - 1941, Hồng quân Liên Xô do tướng Giu-cốp chỉ huy đã phản công quyết liệt,
đẩy lùi quân Đức ra khỏi cửa ngõ Thủ đô. Chiến thắng Mát-xcơ-va đã làm phá sản chiến
lược “chiến tranh chớp nhoáng” của Hít-le. Sau thất bại ở Mát-xcơ-va, quân Đức chuyển
mũi nhọn tấn công xuống phía nam nhằm chiếm vùng lương thực và dầu mỏ quan trọng
nhất của Liên Xô. Mục tiêu chủ yếu của quân Đức là nhằm đánh chiếm Xta-lin-grát (nay

22


là Von-ga-grát), thành phố được mệnh danh là “nút sống” của Liên Xô. Cuộc chiến đấu
kéo dài hơn 2 tháng, nhưng quân Đức không thể chiếm được thành phố này.
Ở Mặt trận Bắc Phi, ngay từ tháng 9 – 1940 quân đội I-ta-li-a đã tấn công Ai Cập.
Cuộc chiến ở đây diễn ra trong thế giằng co, không phân thắng bại giữa liên quân Đức - Ita-li-a với liên quân Anh – Mĩ. Tháng 10 – 1942, liên quân Anh - Mĩ giành thắng lợi trong
trận En A-la-men (Ai Cập), giành lại ưu thế ở Bắc Phi và chuyển sang phản công trên
toàn mặt trận.
Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Trong khi chiến tranh thế giới diễn ra ở
châu Âu thì ở châu Á, Nhật Bản đã ráo riết chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến. Tháng 9 –
1940, khi quân Nhật kéo vào Đông Dương, Mĩ đã kiên quyết phản đối hành động này của
Nhật. Quan hệ Nhật - Mĩ ngày càng căng thẳng, khiến Nhật Bản quyết định tiến hành
chiến tranh với Mĩ. Ngày 7 - 12 – 1941, quân Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu cảng - căn
cứ hải quân chủ yếu của Mĩ ở Thái Bình Dương. Hạm đội Mĩ bị thiệt hại nặng nề. Mĩ
tuyên chiến với Nhật Bản và sau đó là với Đức và I-ta-li-a. Chiến tranh lan rộng ra toàn
thế giới. Sau trận tập kích thắng lợi vào Trân Châu cảng, Nhật Bản mở một loạt cuộc tấn
công vào các nước ở Đông Nam Á và bành trướng ở khu vực Thái Bình Dương. Chỉ trong
vòng 6 tháng (từ tháng 12 – 1941 đến tháng 5- 1942), quân Nhật đã chiếm được một vùng
rộng lớn, bao gồm Thái Lan, Mã Lai, Xin-ga-po, Phi-líp-pin, Miến Điện, In-đô-nê-xi-a và
nhiều đảo ở Thái Bình Dương. Đến năm 1942, quân phiệt Nhật đã thống trị khoảng 8 triệu

km2 đất đại với 500 triệu dân ở Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương.
Khối Đồng minh chống phát xít hình thành. Hành động xâm lược của phe phát xít
đã thúc đẩy các quốc gia trên thế giới cùng phối hợp với nhau trong một liên minh chống
phát xít. Đồng thời, việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị và
quân sự của cuộc chiến. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô đã cổ vũ
mạnh mẽ phong trào kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng. Các
chính phủ Anh, Mĩ đã phải dần dần thay đổi thái độ, bắt tay với Liên Xô trong cuộc chiến
chống chủ nghĩa phát xít, khôi phục chủ quyền của các dân tộc bị phát xít nô dịch. Khối
Đồng minh chống phát xít được hình thành. Ngày 1-1- 1942, tại Oa-sinh-tơn, 26 quốc gia
(đứng đầu là ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh) đã ra một bản tuyên bố chung gọi là

23


Tuyên ngôn Liên hợp quốc. Các nước tham gia Tuyên ngôn cam kết cùng nhau tiến hành
cuộc chiến đấu chống phát xít với toàn bộ lực lượng của mình.
Giai đoạn thứ ba: Từ tháng 11 – 1942 đến tháng 8 – 1945 quân Đồng minh
chuyển sang phản công, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
Từ tháng 11 – 1942 đến tháng 6 – 1944 quân Đồng minh chuyển sang phản công.
Ở Mặt trận Xô - Đức, trận phản công tại Xta-lin-grát (từ tháng 11 – 1942 đến tháng
7- 1943) của quân đội Liên Xô đã tạo nên bước ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới. Trong
trận đánh vĩ đại này, Hồng quân Liên Xô đã tấn công, bao vây, chia cắt để tiêu diệt và bắt
sống toàn bộ đội quân tinh nhuệ của Đức gồm 33 vạn người do Thống chế Phôn Pao-lút
chỉ huy. Bắt đầu từ đây, Liên Xô và phe Đồng minh chuyển sang tấn công đồng loạt trên
các mặt trận. Tiếp đó, Hồng quân đã nhanh chóng bẻ gãy cuộc phản công của quân Đức
tại vòng cung Cuốc-xcơ (từ ngày 5 - 7 đến ngày 23 - 8- 1943), đánh tan 30 sư đoàn địch,
loại khỏi vòng chiến đấu 50 vạn quân của chúng. Hồng quân liên tục tấn công, cho đến
tháng 6 – 1944 đã giải phóng phần lớn lãnh thổ Liên Xô.
Ở Mặt trận Bắc Phi, quân Anh (từ phía đông) và quân Mĩ (từ phía tây) phối hợp
phản công (từ tháng 3 đến tháng 5 – 1943), quét sạch liên quân Đức - I-ta-li-a khỏi lục địa

châu Phi.
Ở I-ta-li-a, quân Đồng minh đổ bộ đánh chiếm đảo Xi-xi-li-a (7 – 1943). Tại
Rôma, Mút-xô-li-ni bị tống giam, chính phủ mới được thành lập, đầu hàng Đông minh.
Fila XIL I-ta-li-a sụp đổ. Nhưng quân Đức đã đối phó kịch liệt, giải thoát cho Mút-xô-lini và lập lại chính phủ phát xít ở miền Bắc I-ta-li-a. Hơn 30 sư đoàn quân Đức được điều
sang I-ta-li-a, chống cự kéo dài hơn 2 năm, mãi tới tháng 5 - 1945 mới chịu khuất phục.
Ở Thái Bình Dương, việc quân đội Mĩ đánh bại quân Nhật trong trận Gu-a-đan-canan (từ tháng 8 – 1942 đến tháng 1 – 1943) đã tạo ra bước ngoặt trên toàn mặt trận này.
Mĩ chuyển sang phản công và lần lượt đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương.
Phát xít Đức bị tiêu diệt, Nhật Bản đầu hàng, chiến tranh thế giới kết thúc.
Đầu năm 1944, cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô diễn ra với 10 chiến
dịch lớn nối tiếp nhau trên toàn mặt trận nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ

24


nước mình. Tiếp đó, Liên Xô tiến quân vào giải phóng các nước ở Đông Âu. Cuộc tổng
tấn công đại thắng đã đưa Hồng quân tiến sát biên giới nước Đức.
Mùa hè năm 1944, Mĩ - Anh và quân Đồng minh mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu
bằng cuộc đổ bộ tại Noóc-măng-đi (miền Bắc Pháp). Phong trào khởi nghĩa vũ trang của
nhân dân Pháp nổi lên khắp nơi, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, làm chủ Pa-ri. Chính
phủ lâm thời của nước Cộng hoà Pháp được thành lập. Nước Pháp được giải phóng khỏi
ách phát xít. Tiếp sau, quân Đồng minh tiến vào giải phóng các nước Bỉ, Hà Lan, Lúcxăm-bua và chuẩn bị tấn công nước Đức. Từ tháng 1- 1945, Hồng quân Liên Xô cũng bắt
đầu cuộc tấn công nước Đức ở Mặt trận phía Đông.
Trước khi kết thúc chiến tranh với Đức, Hội nghị giữa nguyên thủ của ba nước
Liên Xô, Mĩ, Anh được tổ chức tại I-an-ta (Liên Xô) tháng 2 – 1945, Hội nghị đã phân
chia khu vực chiếm đóng nước Đức và châu Âu, đề ra đường lối tổ chức lại thế giới sau
chiến tranh... Liên Xô cam kết sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật sau khi nước Đức đầu
hàng.
Cuộc tấn công quân Đức ở Mặt trận phía Tây của quân Đồng minh bắt đầu từ
tháng 2 – 1945. Hồng quân Liên Xô bắt đầu mở cuộc tấn công Béc-lin từ giữa tháng 4 1945 và đập tan sự kháng cự của hơn 1 triệu quân Đức. Quân đội Anh, Mĩ đã gặp Hồng
quân Liên Xô ở Tóoc-gâu (bên bờ sông Enbơ). Ngày 30 – 4, lá cờ đỏ búa liềm của Liên

Xô được cắm trên nóc nhà Quốc hội Đức. Hít-le tự sát dưới hầm chỉ huy. Ngày 9 – 5 1945, nước Đức kí văn bản đầu hàng không điều kiện, chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.
Ở Mặt trận Thái Bình Dương, từ năm 1944, liên quân Mĩ - Anh đã triển khai các
cuộc tấn công đánh chiếm Miến Điện và quần đảo Phi-líp-pin. Quân Mĩ tăng cường uy
hiếp, đánh phá các thành phố lớn của Nhật Bản bằng không quân.
Cuối tháng 7 - 1945, nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh họp tại Pốtxđam để giải quyết các vấn đề sau chiến tranh ở châu Âu và việc tiêu diệt hoàn toàn phát
xít Nhật.
Ngày 6 – 8 – 1945, Mĩ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hi-rô-sima làm 8 vạn người chết. Ngày 8 - 8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản và tấn công đạo
quân Quan Đông gồm 70 vạn quân Nhật ở Mãn Châu. Ngày 9 – 8, Mĩ ném tiếp quả bom

25


×