Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945 su17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.16 KB, 27 trang )

CHUYÊN ĐỀ
“MỐI LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945”
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I - Lý do chọn đề tài
Nền giáo dục Việt Nam hiện đang trải qua những chuyển biến quan trọng theo
định hướng đổi mới căn bản và toàn diện. Trong bối cảnh đó, vị thế, nội dung, chương
trình, phương pháp dạy học môn Lịch sử đang đặt ra không ít vấn đề cả về lý luận và
thực tiễn. Tham gia giải quyết những vấn đề đó cũng là trách nhiệm của tất cả giáo viên
giảng dạy bộ môn Lịch sử nói chung và giáo viên ở các trường THPT chuyên trong cả
nước nói riêng, đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta cần phải trau dồi hơn nữa về kiến thức, tự
học, tự nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy để đạt được hiệu quả cao nhất trong
quá trình giảng dạy, ôn luyện trong kì thi THPTQG và thi HSG các cấp.
Thực tế hiện nay cho thấy, việc học tập, ôn thi ở trường THPT nói chung, bộ môn
Lịch sử nói riêng còn nặng tính thực dụng, nghĩa là “học để thi”. Việc “thi gì học nấy”
làm cho học sinh nắm kiến thức một cách rời rạc, không hiểu lịch sử, không rút ra được
mối liên hệ, tính quy luật, tác động của sự phát triển xã hội ... Học sinh tỏ ra lúng túng,
bị động, không ứng phó được với các dạng đề thi khác nhau, đặc biệt là khi gặp phải
những câu hỏi khó mang tích liên hệ, so sánh ...
Đối với môn Lịch sử, do mang tính đặc thù bộ môn và do các yếu tố khách quan mà
việc giảng dạy và bồi dưỡng HSG càng trở nên khó khăn và phức tạp. Trong những năm
qua tổ Lịch sử của chúng tôi đã nỗ lực hết sức nhằm nâng cao số lượng và chất lượng
học đại trà và thi HSG các cấp. Những thành quả mà chúng tôi đạt được tuy còn khiêm
tốn song đã mang tính khả quan: điểm trung bình bài thi môn Lịch sử trong tổ hợp
KHXH năm 2019 đạt 5.58; có nhiều HS thi khối C đạt điểm 9,10; thi HSG QG đạt 2 giải
nhất...
1


Qua quá trình giảng dạy, bồi dưỡng cho học sinh giỏi các cấp, tôi nhận thấy ngoài
việc dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của các bài học trong sách giáo khoa thì việc


dạy - học theo các chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cũng đang là vấn đề
rất cần thiết mà hiện nay các trường THPT đang tìm hướng giải quyết, trong đó việc tổ
chức Hội thảo của các trường THPT Chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ
được tổ chức hàng năm nhằm thảo luận, trao đổi kinh nghiệm dạy và học để nâng cao
trình độ chuyên môn và có được những phương pháp tối ưu nhất, hiệu quả nhất trong
công tác đào tạo nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước là hết sức thiết thực.
Lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam thời hiện đại có rất nhiều chuyên đề viết riêng và
độc lập về các vấn đề nổi bật… song tôi nhận thấy còn có một vấn đề được đặt ra và cần
làm sáng tỏ đó là “mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam trong giai đoạn
1919 - 1945”. Có thể thấy, đây là một nội dung quan trọng trong ôn thi THPTQG và thi
học sinh giỏi các cấp. Vì vậy, phương pháp dạy học và ôn tập cho học sinh cần được hết
sức chú trọng đặc biệt là kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình giảng
dạy tôi cũng như nhiều đồng nghiệp khác gặp khó khăn vì đây là nội dung khó, kiến thức
hàn lâm thì nhiều mà trong chương trình sách giáo khoa Lịch sử THPT không biên soạn
thành một bài hay một chương cụ thể mà nội dung nằm rải rác trong các mục nhỏ ở các
chương, bài với rất nhiều sự kiện chồng chéo… Do vậy, khi giảng dạy và bồi dưỡng đội
tuyển HSG, giáo viên phải tập hợp và hệ thống kiến thức, chọn lọc những nội dung liên
quan để làm rõ cho học sinh hiểu, đây chính là lí do tôi lựa chọn đề tài: “Mối liên hệ
giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945” tham gia vào Hội
thảo các trường THPT Chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ năm 2019.
2. Mục đích của đề tài
Với đề tài “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến
năm 1945” tôi đưa ra một số giải pháp trong việc lựa chọn nội dung giảng dạy làm sáng
tỏ mối liên hệ, sự ảnh hưởng và tác động của lịch sử thế giới đến Việt Nam trong giai
đoạn 1919 - 1945 đồng thời xây dựng hệ thống câu hỏi ôn tập để cung cấp cho học sinh
2


những kiến thức chuẩn, chuyên sâu, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập nhằm
góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử và trang bị kiến thức cần thiết cho học

sinh, hình thành cho học sinh niềm đam mê khi học Lịch sử. Từ đó, học sinh có thể tự
học, tự tìm hiểu một vấn đề lịch sử, phát huy tính năng động, sáng tạo của mình, đặc biệt
là học sinh khối chuyên Sử.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1945” là một vấn đề khó nên đề tài của tôi không thể tránh
khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các đồng
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

B. PHẦN NỘI DUNG
3


Phần I - LỰA CHỌN NỘI DUNG KHI GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ “MỐI LIÊN
HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN
NĂM 1945”
Lịch sử Việt Nam không thể tách rời dòng chảy chung của lịch sử thế giới mà nó phát
triển đồng thời, tác động qua lại, ảnh hưởng, hỗ trợ thậm chí chi phối lẫn nhau. Trong
giới hạn của chuyên đề “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm
1919 đến năm 1945” tôi xin được đề cập đến những sự kiện cơ bản của lịch sử thế giới
tác động đến Việt Nam để thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa lịch sử thế giới với lịch
sử Việt Nam trong giai đoạn này.
I - NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ TRÊN THẾ GIỚI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ NHẤT (1914 – 1918)
1. Hội nghị Véc xai và sự hình thành trật tự thế giới mới
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước thắng trận họp ở Véc xai để phân chia lại
thế giới, thiết lập một trật tự thế giới mới. Thực chất, đây là sự phân chia khu vực cai trị,
bóc lột giữa các nước đế quốc.
- Tháng 6/1919, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc

gửi đến hội nghị Vecxai bản yêu sách đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do dân
chủ, quyền bình đẳng, quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Mặc dù bản yêu sách đó
không được chấp nhận nhưng đó là đòn tấn công trực diện đầu tiên của những người
Việt nam yêu nước đối với các nước đế quốc, tạo nên tiếng vang lớn tại Pháp và Việt
Nam.
2. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
- Năm 1917, cuộc Cách mạng XHCN tháng Mười Nga thắng lợi, đã xoá bỏ ách thống trị
của phong kiến và tư sản Nga, thành lập Chính quyền Xô viết, đưa nhân dân lao động
lên làm chủ đất nước. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là cuộc cách mạng vô
sản mà còn là cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi đó đã mở ra con đường giải
phóng cho giai cấp công nhân và các dân tộc thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga làm
cho phong trào cách mạng ở phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở phương
Đông có mối quan hệ mật thiết với nhau vì cùng chung một kẻ thù là CNĐQ.
4


=> Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam:
+ Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã tác động đến những người yêu nước Việt
Nam trên con đường đi tìm chân lý cứu nước, mà trước hết là đối với Nguyễn Ái Quốc.
Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: con đường CM vô sản.
+ Dưới tác động của Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc đấu tranh của cách mạng Pháp
và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa của Pháp - trong đó có Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với nhau vì cùng chống kẻ thù chung là ĐQ Pháp.
3. Sự thành lập và hoạt động của Quốc tế cộng sản (1919)
- Do sự phát triển của phong trào cách mạng ở các nước TBCN, nhiều tổ chức cộng sản
lần lượt thành lập ở các nước châu Âu. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng,
tháng 3-1919 Quốc tế Cộng sản được thành lập ở Matxcova.
- Tại Đại hội II (1920), Quốc tế Cộng sản thông qua cương lĩnh và những văn kiện quan
trọng nhằm xác định đường lối chiến lược và sách lược của phong trào cách mạng thế
giới, trong đó đặc biệt là bản Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin. Bản luận cương này đã được Nguyễn Ái Quốc đọc và Người đã tìm thấy con đường

cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta là cách mạng vô sản
-Tháng 12 - 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Xã hội
Pháp họp tại thành phố Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên, sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng
chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản.
Nó mở ra cho cách mạng Việt Nam một giai đoạn mới mới – giai đoạn gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo
con đường cách mạng vô sản .
4. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở châu Á.
- Đảng Cộng sản Trung Quốc (7/1921) được thành lập đã tạo điều kiện thuận lợi cho
viêc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào cách mạng nước ta.
=> Như vậy, các sự kiện trên đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cơ bản để truyền bá sâu
rộng chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ đó, hình
thành một khuynh hướng cách mạng mới ở Việt Nam: khuynh hướng cách mạng vô sản.

5


II - SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN HỆ QUỐC TẾ (1929 – 1933) ĐẾN TÌNH HÌNH
CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
1. Tác động của phong trào cách mạng thế giới đến Việt Nam
+ Những năm 1929 – 1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng
trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề, làm cho những mâu thuẫn trong lòng
xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng lao
động dâng cao.
+ Trong khi đó, Liên Xô đang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, hoàn thành công
nghiệp hóa và đang tiến hành tập thể hóa nông nghiệp. Quảng Châu công xã (Trung
Quốc) thắng lợi.
+ Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới có ảnh hưởng tích cực đến cách mạng

Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam.
- Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và sai phát triển gay gắt
+ Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đối với Việt Nam là làm
cho đời sống của mọi tầng lớp xã hội gặp nhiều khó khăn. Thực dân Pháp tăng cường vơ
vét bóc lột để bù đắp những tổn thất của cuộc khủng hoảng ở chính quốc. Vì thế mà nền
kinh tế Việt Nam phải gánh chịu hậu quả của cuộc khủng hoảng ở nước Pháp ...
+ Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo đã
bị thất bại. Chính quyền thực dân tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man những
người yêu nước.
+ Tình hình kinh tế, chính trị trên đây đã làm cho mâu thuẫn giữa mọi tầng lớp nhân dân
ta với đế quốc Pháp và tay sai phản động trở nên gay gắt. Đây là nguyên nhân sâu xa và
trực tiếp dấn tới phong trào đấu tranh của quần chúng trong những năm 1930 - 1931.
2. Sự xuất hiện và bành trướng của chủ nghĩa phát xít và ảnh hưởng của nó đến
Việt Nam
Đầu những năm 30 của thế kỉ XX, chủ nghĩa phát xít hình thành. Bọn phát xít lên
cầm quyền ở một số nước Đức, Italia, Nhật Bản và có âm mưu gây chiến. Vì vậy, nền
6


hòa bình anh ninh thế giới bị đe dọa nghiêm trọng. Tháng 7/1935, Quốc tế Cộng sản tiến
hành Đại hội VII tại Mátxcơva đã đề ra đường lối đấu tranh mới.
- Tháng 6 năm 1936, ở nước Pháp Mặt trận nhân dân lên cầm quyền và ban hành nhiều
chính sách tự do dân chủ, trong đó có những chính sách được áp dụng ở thuộc địa, tạo
điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh dân chủ ở Đông Dương.
Trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã kịp thời đề ra chủ trương mới làm dấy lên một phong trào đấu tranh công khai rộng
lớn. Phong trào đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Đây là phong trào quần chúng
có mục tiêu, hình thức đấu tranh mới mẻ ở nước ta và rất hiếm có ở một nước thuộc địa.

3. Sự ảnh hưởng của tình hình thế giới đến cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
1939 - 1945
* Ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) đến cách mạng
Việt Nam
- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng: ngày 1 – 9 – 1939,
phát xít Đức tiến công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng
6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, chính phủ phản động Pê tanh lên cầm
quyền. Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi. Ở Châu Á –
Thái Bình Dương, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tién sát biên giới Việt – Trung.
Tháng 9/1940, Nhật vào Đông Dương.
- Ở Đông Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy, thủ tiêu các quyền tự do,
dân chủ; thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp đầu
hàng Nhật và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho
nhân dân Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức.
- Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai phát triển
vô cùng gay gắt. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết.
* Chủ trương của Đảng
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939
7


+ Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hang đầu; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng
đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô
cao, lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công – nông – binh bằng khẩu
hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hòa.
+ Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực
tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang
hoạt động bí mật, bất hợp pháp.
+ Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân
chủ Đông Dương, nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc.

=> Ý nghĩa: Đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng, dương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, đưa nhân dân bước vào giai đoạn trực tiếp vận động cứu nước.
- Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941)
+ Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất,
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức thiết
nhất”; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu giảm
tô, giảm tức, chia lại ruộng công.
+ Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.
+ Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có
đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đũng thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa.
=> Ý nghĩa:
+ Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939.
+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương
Chính trị tháng 10 – 1930.

8


+ Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách mạng cho thắng lợi của Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.
* Chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Trên cơ sở lực lượng cách mạng được nuôi dưỡng từ trước, bước vào giai đoạn trực tiếp
vận động cứu nước 1939 – 1945, việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt được đẩy mạnh.
- Chuẩn bị lực lượng chính trị

+ Gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của Việt Minh (bao gồm các đoàn thể
quần chúng mang tên “cứu quốc”). Chương trình của Việt Minh đáp ứng nguyện vọng
cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh ngày càng phát triển mạnh.
+ Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các hội “Cứu quốc” trong mặt trận
Việt Minh. Đến năm 1942 khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội cứu quốc trong đó có 3
châu “hoàn toàn” (Hoà An, Hà Quảng và Nguyên Bình). Trên cơ sở đó, Uỷ ban Việt
Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được
thành lập.
+ Bắc Sơn – Võ Nhai cũng là một trung tâm chuẩn bị khởi nghĩa. Sự ra đời và hoạt động
của lực lượng vũ trang Bắc Sơn làm cho các tổ chức cứu quốc được xây dựng rộng khắp.
+ Tháng 2 – 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc
Yên), vạch ra kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang. Ở hầu
khắp các vùng nông thôn và thành thị, các đoàn thể Việt Minh, hội Cứu quốc được xây
dựng và củng cố.
+ Năm 1943 bản Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời. Năm 1944, Đảng dân chủ Việt
Nam và Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam được thành lập, đứng trong hàng ngũ Việt
Minh.
+ Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội
Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít.
+ Báo chí của Đảng và của mặt trận Việt Minh đã góp phần vào việc tuyên truyền đường
lối chính sách của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng đông đảo nhất, một lực lượng cơ bản, giữ
vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Việt Minh là nơi tổ chức,
9


giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị, đồng thời tạo điều kiện để xây dựng lực lượng
vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
- Chuẩn bị lực lượng vũ trang
+ Cùng với quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, Đảng từng bước chỉ đạo xây dựng lực

lượng vũ trang.
+ Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (11 – 1940), lực lượng vũ trang Bắc Sơn được duy trì để
làm vốn quân sự cho cách mạng. Bước sang năm 1941 những đội du kích ở khu căn cứ
Bắc Sơn – Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất thành Trung đội cứu quốc quân I
(14/2/1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng
7/1941 đến tháng 2/1942). Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc quân II ra đời.
+ Ở Cao Bằng, trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển mạnh, các đội tự vệ cứu quốc ra
đời. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị thành lập đội tự vệ gồm 12 chiến sĩ, làm
các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc.
Người biên soạn nhiều tài liệu để huấn luyện cán bộ quân sự như Cách đánh du
kích, Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh nghiệm du kích Tàu…
+ Ngày 22 – 12 – 1944, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân được thành lập, lúc đầu có 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên Giáp chỉ
huy. Ba ngày sau, đội đánh thắng hai trận liên tiếp ở Phai Khắt và Nà Ngần.
+ Tháng 4 – 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì quyết định thống nhất lực lượng
vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng 7 chiến khu trong cả nước.
+ Ngày 15 – 5 – 1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
+ Lực lượng bán vũ trang cũng được xây dựng rộng khắp, ở cả nông thôn và thành thị,
gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu.
Lực lượng vũ trang tuy còn ít về số lượng, thiếu thốn về trang bị, non yếu về trình độ tác
chiến, nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động vũ trang tuyên truyền, góp phần
phát triển lực lượng chính trị; tiến công quân sự ở một số nơi gây thanh thế cho cách
mạng, đồng thời là lực lượng xung kích, lực lượng nòng cốt, hỗ trợ quần chúng nổi dậy
tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.

10


Cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều là cơ sở của bạo lực cách mạng, là điều

kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong tổng khởi nghĩa toàn
dân, đập tan chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.
- Xây dựng căn cứ địa
+ Để tiến hành khởi nghĩa phải xây dựng căn cứ địa. Đó là nơi giải quyết vấn đề tiềm lực
của cách mạng.
+ Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Vùng Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng
thành một trung tâm căn cứ địa, gắn liền với sự ra đơì và hoạt động của lực lượng vũ
trang Bắc Sơn.
+ Năm 1941 Nguyển Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chọn Cao
Bằng làm nơi đầu tiên để xây dựng căn cứ địa. Từ đó, căn cứ địa cách mạng ngày càng
mở rộng, phát triển thành căn cứ Cao – Bắc – Lạng.
+ Năm 1943, Uỷ ban Việt Minh Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban “xung phong
Nam tiến” để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
+ Trong những vùng căn cứ cách mạng diễn ra các hoạt động sản xuất, xây dựng,
chiến đấu, hoạt động của các đoàn thể cứu quốc và lực lượng vũ trang. Ngày 16 – 4
– 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng các cấp.
+ Tháng 5 – 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tuyên Quang. Người chọn Tân Trào
làm trung tâm chỉ đạo cách mạng.
+ Tháng 6 – 1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập, thực hiện 10
chính sách lớn của Việt Minh. Đó là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, là hình
ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong tương lai. Tân Trào là thủ đô Khu giải phóng.
Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập.
+ Công cuộc chuẩn bị lực lượng được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng
đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.
* Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
- Tác động của tình hình thế giới đến tiến trình khởi nghĩa từng phần (tháng
3/1945 đến giữa tháng 8/1945)

11



+ Từ khi Nhật vào Đông Dương (9 – 1940), Nhật và Pháp hoà hoãn với nhau, nhưng đó
chỉ là sự hoà hoãn tạm thời, vì hai tên đế quốc không thể chung một xứ thuộc địa.
+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân
Liên Xô giải phóng các nước Đông Âu và tiến vào nước Đức. Quân Anh – Mĩ giải
phóng nước Pháp, rồi tiếp tục tiến công vào Đức từ phía Tây. Ở mặt trận châu Á – Thái
Bình Dương, quân Đồng minh phản công, giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề.
Sau khi Mĩ chiếm lại Philipin, đường biển của Nhật đi xuống các căn cứ ở phía Nam bị
cắt đứt, chỉ còn đường bộ duy nhất qua Đông Dương. Vì thế Nhật cần độc chiếm Đông
Dương bằng mọi giá.
+ Sau khi nước Pháp được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, lực lượng Pháp ở
Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào đánh Nhật, thì sẽ khôi phục lại
quyền thống trị của mình như trước tháng 9 – 1940.
+ Để trừ hậu hoạ bị đánh sau lưng và giữ Đông Dương làm cầu nối đi từ Trung Quốc
xuống các căn cứ phía Nam, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm
Đông Dương. Sự kiện đó tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương.
+ Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt biện pháp nhằm củng cố quyền
thống trị của chúng ở Đông Dương.
+ Ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Từ Sơn (Bắc Ninh) để đánh
giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, xác định phát xít Nhật
là kẻ thù chính; thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật”; chủ trương “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”, đồng thời sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi
nghĩa khi có đủ điều kiện.
=> Ý nghĩa
- Cao trào kháng Nhật cứu nước thể hiện tinh thần nỗ lực đấu tranh giành độc lập của
nhân dân Việt Nam; đồng thời góp sức cùng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
- Làm cho kẻ thù ngày càng suy yếu, thúc đẩy thời cơ tổng khởi nghĩa mau đến.
- Qua cao trào kháng Nhật, lực lượng cách mạng được tăng cường, trận địa cách mạng

được mở rộng, tạo ra đầy đủ những điều kiện chủ quan cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
12


- Là một cuộc tập dượt vĩ đại, làm cho toàn đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động tiến lên
chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.
* Tác động khách quan của tình hình thế giới đến cuộc Tổng khởi tháng Tám năm
1945 ở Việt Nam
+ Sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân
Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống các
thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản. Ngày 9 – 8 – 1945, Hội đồng tối coa
chiến tranh của Nhật họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxđam. Ngày
14 – 8 – 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản thông qua quyết định
đầu hàng. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện.
Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, lo sợ đến cực
điểm. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến. Thời cơ cách mạng
xuất hiện.
+ Tuy nhiên, một nguy cơ mới đang dần đến. Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa
đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Những thế lực phản
động trong nước cũng đang tìm cách thay thầy đổi chủ. Chính vì thế, vấn đề giành chính
quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh mà nhân dân
Việt Nam không thể chậm trễ.
- Đảng kịp thời phát động khởi nghĩa:
+ Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Uỷ ban khởi
nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh số 1,
chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, thông qua
kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
+ Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán thành
chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt minh, cử ra Uỷ

ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (2/9/1945)
+ Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và
cả thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập. Bản Tuyên ngôn đã:
13


+ Khẳng định quyền độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm mà mọi dân
tộc phải được hưởng trong đó có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
+ Nêu rõ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh
đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”
+ Khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết giữ nền độc lập tự do vừa giành
được: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”3.
* Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Chiến thắng của quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít tạo cơ hội
thuận lợi cho nhân dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa.
+ Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc
đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông
Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu
nước, cứu nhà.
+ Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đã đề ra
đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng đã có quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo, rút kinh
nghiệm qua thực tiễn đấu tranh, đặc biệt là lãnh đạo chuẩn bị lực lượng chính trị, lực
lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn vận động giải phóng dân tộc
1939 – 1945. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung ương đến địa phương linh hoạt,

sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính
quyền.
- Ý nghĩa lịch sử
+ Đối với trong nước:




Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích
nô lệ của Pháp hơn 80 năm và Nhật gần 5 năm, chấm dứt chế độ phong kiến, lập
nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân
nắm chính quyền, làm chủ đất nước.
14


Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trở
thành một Đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Nhân dân Việt Nam từ địa vị
nô lệ, bước lên địa vị người làm chủ đất nước.
+ Đối với thế giới:





Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít; chọc thủng
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực
tiếp đến cách mạng Lào và Campuchia./.
PHẦN II


MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI KHI GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ “MỐI
LIÊN HỆ GIỮA LỊCH SỬ THẾ GIỚI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945”
Ngoài các dạng câu hỏi nhận biết, thông hiểu về những vấn đề cụ thể của lịch sử thế
giới và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945, trong chuyên đề này tôi xin phép được
đưa ra một số câu hỏi và gợi ý trả lời về mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1945 như sau:
I - DẠNG CÂU HỎI TỰ LUẬN (DÀNH CHO THI HSG CÁC CẤP)
Câu 1: Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917? Thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười đã ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam?
*Ý nghĩa lịch sử:
- Đập tan ách áp bức bóc lột của CNTB và chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở nước Nga.
Mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử nước Nga : giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, đúng lên làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình....
- Cách mạng tháng Mười đã làm thay đổi cục diện thế giới, trong đó chủ nghĩa tư bản
không còn là hệ thống duy nhất; cổ vũ mạnh mẽ và để lại nhiều bài học quý báu cho

15


phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới....
- Để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho c/m thế giới...
* Ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam:
- Năm 1920, sau khi đọc bản “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra được con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam- con đường
cách mạng vô sản...

- Sáng lập Đảng kiểu mới của nhân dân lao động (3/2/1930)...
- Lãnh đạo toàn dân đánh đổ ĐQ, PK làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945...
Câu 2 : Về Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)
a. Làm rõ nguyên nhân, tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai.
b. Sự kiện nào trong tiến trình Chiến tranh đã tác động sâu sắc nhất đến cách
mạng Việt Nam? Vì sao?
a. Làm rõ nguyên nhân, tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai.
- Nguyên nhân:
+ Sâu xa: là do mâu thuẫn giữa các nước đế quốc từ sau hệ thống Vecxai – Oasinhtơn
được thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất...
+ Trực tiếp: cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 làm cho mâu thuẫn trên
thêm sâu sắc, dẫn đến việc lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít ở một số nước với ý đồ
gây chiến tranh chia lại thị trường thế giới; chính sách nhượng bộ, thỏa hiệp của Mĩ,
Anh, Pháp đã tạo điều kiện cho khối phát xít phát động chiến tranh.
- Tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Từ tháng 9/1939 đến 22/6/1941: chiến tranh mang tính chất đế quốc phi nghĩa (vì diễn
ra giữa các nước phát xít với các nước đế quốc nhằm mang lại lợi ích cho bọn tư bản,
còn nhân dân phải chịu hậu quả nặng nề). Tuy nhiên trong thời gian này cũng có yếu tố
chính nghĩa đó là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít của các dân tộc bị áp bức
16


(như: Trung Quốc chống lại sự xâm lược của Nhật Bản), nhưng bao trùm lên vẫn là
tính chất đế quốc phi nghĩa.
+ Từ tháng 6/1941 đến hết chiến tranh: Việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi tính
chất chiến tranh thế giới, không còn là cuộc chiến tranh phi nghĩa nữa mà nó trở thành
cuộc chiến tranh chống phát xít giữa một bên là lực lượng dân chủ tiến bộ do Liên Xô
đứng đầu với một bên là chủ nghĩa phát xít.
b. Sự kiện tác động sâu sắc nhất đến cách mạng Việt Nam: ngày 15/8/1945 phát xít Nhật

đầu hàng Đồng minh.
- Vì: phát xít Nhật đầu hàng, quân Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu,
chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim hoang mang cực độ... Đây là điều kiện khách quan
vô cùng thuận lợi để nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền...
Câu 3: Trình bày nguyên nhân và hệ quả cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp ở
Đông Dương (9-3-1945).
a. Nguyên nhân:
- Vì bản chất của Nhật và Pháp đều là đế quốc: Khi Nhật mới vào Đông Dương, Nhật và
Pháp hoà hoãn và cấu kết với nhau. Tuy nhiên, đó chỉ là sự hoà hoãn tạm thời vì hai tên đế
quốc không thể chung một xứ thuộc địa, cũng như hai con thú dữ không thể chung một
miếng mồi ngon.
- Do Đông Dương trở thành vị trí chiến lược có ý nghĩa sống còn đối với Nhật: Chiến
tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, quân Đồng minh phản công thắng lợi
ở khắp nơi. Sau khi Mĩ vào Philippin, đường biển của Nhật đi xuống các thuộc địa ở
Đông Nam Á bị cắt đứt, chúng chỉ còn đường bộ duy nhất từ Trung Quốc qua Đông
Dương. Vì thế, Nhật cần phải chiếm giữ Đông Dương bằng mọi giá.
- Vì Nhật biết Pháp có mưu đồ khôi phục quyền thống trị ở Đông Dương: Sau khi nước
Pháp được giải phóng khỏi ách chiếm đóng phát xít, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị, chờ
quân Đồng minh vào đánh Nhật ở Đông Dương, Pháp sẽ đánh Nhật để khôi phục quyền

17


thống trị. Mâu thuẫn Nhật – Pháp trở nên gay gắt. Để trừ hậu hoạ, ngày 9-3-1945, Nhật
tiến hành cuộc đảo chính, lật đổ Pháp.
b. Hệ quả của cuộc đảo chính:
- Pháp đầu hàng, quân Nhật hoàn toàn độc chiếm Đông Dương, trở thành kẻ thù chính
của nhân dân Đông Dương. Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành nhiều biện
pháp nhằm củng cố quyền thống trị của chúng ở Đông Dương...
- Tạo ra tình trạng khủng hoảng chính trị sâu sắc ở Đông Dương... Ban Thường vụ Trung

ương Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu
nước./.
Câu 4: Thời kì 1930 - 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định kẻ thù của
cách mạng qua mỗi giai đoạn lịch sử như thế nào? Vì sao khi Chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ (tháng 9/1939), Đảng Cộng sản Đông Dương có sự thay đổi trong
việc xác định kẻ thù cách mạng?
* Kẻ thù cách mạng qua mỗi giai đoạn lịch sử Việt Nam:
Thí sinh có thể nêu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kì nhưng cần xác định đúng kẻ
thù cần đánh đổ của cách mạng (theo các Hội nghị của Đảng xác định). Thí sinh cũng
có thể dùng từ đối tượng thay cho kẻ thù.
- Giai đoạn 1930 – 1931:
+ Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (đầu năm 1930) xác định kẻ thù của các
mạng là đế quốc Pháp, bọn phong kiến và phản cách mạng.
+ Trong Luận cương chính trị (10/1930): xác định kẻ thù của cách mạng là phong kiến
và đế quốc.
- Giai đoạn 1936 – 1939:
+ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (7/1936) xác định kẻ thù của cách mạng
Đông Dương lúc này chưa phải là thực dân Pháp nói chung, mà là đế quốc phát xít, bọn
phản động thuộc địa (lực lượng không chịu thực hiện những chính sách mà Chính phủ
Mặt trận Nhân dân Pháp ban hành) và tay sai của chúng.
18


- Giai đoạn 1939 – 1945:
+ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939 xác
định kẻ thù cách mạng là đế quốc và tay sai phản động.
+ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 của Đảng (5/1941) xác định kẻ thù của
cách mạng là đế quốc Pháp – Nhật và tay sai.
+ Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945) xác định kẻ
thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật.

* Có sự thay đổi là do:
- Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chỉ sau một thời gian ngắn, nước
Pháp đã bị phát xít Đức chiếm đóng. Ở Đông Dương, Pháp tăng cường đàn áp, khủng bố
cách mạng, truy bắt những người yêu, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân
dân….
- Đến 1940, phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng quân
Nhật, Nhật – Pháp câu kết với nhau để đàn áp, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận
xương tủy…
- Mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu, yêu cầu cứu nước, giải phóng dân tộc được đặt ra
cấp thiết, vì thế Đảng ta đã chuyển hướng đấu tranh nhằm thực hiện nhiệm vụ giải phóng
dân tộc./.
Câu 5: Nêu tóm tắt diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai từ tháng 09-1939 đến
tháng 06 - 1941. Những sự kiện trên tác động như thế nào đến chủ trương của
Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời gian đó?
Gợi ý:
* Nêu tóm tắt diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai từ tháng 09 - 1939 đến
tháng 06 - 1941.
- Ngày 1-9-1939, quân Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh- Pháp tuyên chiến với
Đức, chiến tranh thế giới bùng nổ...

19


- Tháng 4 -1940, Phát xít Đức tấn công các nước Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Hà Lan, Bỉ.
Đến 22-6-1940 Pháp kí hiệp ước đình chiến với Đức....
- Tháng 9-1940, quân Nhật đã xâm nhập Đông Dương buộc chính quyền thực dân Pháp
phải nhượng bộ...
- Sau đó quân Đức tấn công các nước Đông Nam Âu, chiếm một loạt các nước Ru-mani, Hung –ga- ri, Bun- Ga ri...Đến giữa năm 1941, phe trục đã thống trị phần lớn châu
Âu.
- Ngày 22-6-1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô bằng một cuộc chiến tranh chớp

nhoáng, quân Đức chia làm 3 mũi tấn công với 5,5 triệu quân...
* Những sự kiện trên tác động như thế nào đến chủ trương của Đảng ta trong thời
gian đó.
- Trước tình hình đó, BCH TƯ Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệu tập Hội nghị tháng
11-1939 với nhiều quyết định quan trọng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu...; thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất... Hội nghị đánh dấu mốc chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng...
- Tháng 6-1941, Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi... Trong bối cảnh
đó, BCH TƯ Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệu tập hội nghị lần thứ 8(tháng 5/ 1941):
Tiếp tục giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thành lập mặt trận Việt
Minh; xác định hình thái khởi nghĩa đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi
nghĩa ....Những quyết định quan trọng của hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 8 đánh dấu
bước hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta đề ra tại Hội
nghị tháng 11/1939...
II - DẠNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Từ chuyên đề “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm 1919
đến năm 1945” khi vận dụng cho đề thi THPT Quốc gia, tôi mạnh dạn đưa ra một số
câu hỏi dạng đề trắc nghiệm như sau :

20


Câu 1 : Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, sự kiện nào của thế giới có tác động
mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam ?
A. Cách mạng tháng Mười Nga thành công.
B. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.
C. Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập.
D. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dâng cao ở châu Mĩ, châu Phi.
Câu 2 : Ảnh hưởng lớn nhất của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đối với
cách mạng Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là

A. cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh để giải phóng dân tộc.
B. chỉ ra kẻ thù chính cho cách mạng Việt Nam.
C. để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá.
D. chỉ ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Câu 3 : Người đã tiếp thu đầu tiên và vận dụng tư tưởng của Cách mạng tháng
Mười Nga vào cách mạng Việt Nam là
A. Lê Hồng Phong.

B. Trần Phú.

C. Hà Huy Tập.

D. Nguyễn Ái Quốc

Câu 4: Yếu tố nào không thể hiện đúng điều kiện xã hội và tâm lí làm nảy sinh,
thúc đẩy phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu
thế kỉ XX?
A. Ảnh hưởng tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga (1917).
B. Tân thư, Tân báo của Trung Hoa cổ động cho tư tưởng dân chủ tư sản.
C. Sự xuất hiện tầng lớp tư sản và tiểu tư sản.
D. Những đổi mới của Nhật Bản sau cuộc Duy tân Minh Trị (1868).
Câu 5: Hành động cách mạng nào sau đây của Nguyễn Ái Quốc chứng minh: từ
một người yêu nước chân chính, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản?
A. Đọc Luận cương của Lê Nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa (1920).
B. Bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản (1920).
C. Gửi yêu sách đến hội nghị Vecxai (1919).
21


D. Tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919).

Câu 6: Sự kiện nào biểu hiện: “Tư tưởng cách mạng tháng Mười Nga đã thấm sâu
hơn vào giai cấp công nhân và bắt đầu biến thành hành động của giai cấp công nhân
Việt Nam”?
A. Cuộc bãi công của thợ máy xưởng Ba Son - Sài Gòn (8/1925).
B. Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của V.I Lênin (7/1920).
C. Năm 1920, công nhân Sài Gòn – Chợ lớn thành lập Công hội (bí mật) do Tôn Đức
Thắng đứng đầu.
D. Tiếng bom của Phạm Hồng Thái vang dội ở Sa Diện - Quảng Châu (6/1924).
Câu 7: Hoạt động cách mạng nào của Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền tảng đầu tiên cho
mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới?
A. Tham gia bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế III.
B. Thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.
C. Tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa.
D. Thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Câu 8: Từ hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam rút ra bài học gì
trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền hiện nay?.
A. Giải quyết tranh chấp, xung đột bằng biện pháp hòa bình.
B. Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
C. Liên kết các cường quốc lớn để tranh thủ sự ủng hộ quân sự.
D. Chạy đua vũ trang, tăng cường sức mạnh quân sự.
Câu 9: Sự kiện quốc tế nào tác động trực tiếp đến đường lối, phương pháp đấu
tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương (1936 - 1939)?
A. Tình hình thế giới đang có những diễn biến phức tạp.
B. Thực dân Pháp soạn thảo, ban hành chính sách thời chiến.
C. Nghị quyết của Đại hội VII (7/1935) chỉ đạo cho cách mạng các nước.
22


D. Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp thi hành một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa

(1936).
Câu 10: Đảng Cộng sản Đông Dương chuyển hướng chỉ đạo sách lược trong thời kì
1936 – 1939 dựa trên cơ sở nào?
A. Tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
B. Tình hình thế giới và Việt Nam có sự thay đổi.
C. Chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền ở một số nước.
D. Đảng Cộng sản Đông Dương phục hồi và hoạt động mạnh.
Câu 11: Thời cơ “ngàn năm có một” để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa
giành chính quyền năm 1945 kết thúc khi
A. quân Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.
B. thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược trở lại Việt Nam.
C. Nhật cùng thực dân Anh chống phá chính quyền cách mạng.
D. Nhật giao Đông Dương cho quân Trung Hoa Dân quốc.
Câu 12: Sự kiện nào trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động trực tiếp
đến cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam?
A. Nhật đầu hàng quân đồng minh không điều kiện.
B. Đức tấn công Liên Xô.
C. Mặt trận đồng minh chống phát xít được thành lập.
D. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít.

23


C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Kết luận
Trong nhiều năm qua, do điều kiện khách quan và chủ quan chi phối mà chất lượng
bộ môn Lịch sử có nhiều biểu hiện giảm sút. Để nâng cao chất lượng dạy - học môn Lịch
sử và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử là một việc làm không dễ, nó đòi hỏi nhiều
vấn đề như phải có những học sinh thực sự say mê, có hứng thú học tập, phải có những
giáo viên có năng lực, yêu nghề, tâm huyết với công tác giảng dạy, phải có những cơ chế

phù hợp đảm bảo quyền lợi của học sinh và giáo viên ...
Là người trực tiếp giảng dạy, tôi hiểu rằng bản thân cũng luôn cần phải cố gắng hoàn
thiện về phẩm chất và năng lực chuyên môn, tâm huyết với công việc, tạo mọi điều kiện
và yêu thương học trò ... bởi phẩm chất, uy tín và năng lực của người giáo viên sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Một trong những yếu tố
cần và đủ để tạo nên sự thành công trong đào tạo học sinh giỏi chính là “Thầy giỏi”.
Dixecvec đã từng nói “Người thầy bình thường mang chân lí đến cho trò còn người thầy
giỏi dạy cho trò cách đi tìm chân lí”.
Với đề tài “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến
năm 1945” tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp thực hiện việc lựa chọn nội dung giảng
dạy làm sáng tỏ mối liên hệ, sự ảnh hưởng và tác động của lịch sử thế giới đến Việt Nam
trong giai đoạn 1919 - 1945 đồng thời xây dựng hệ thống câu hỏi ôn tập để cung cấp cho
học sinh những kiến thức chuẩn, chuyên sâu, phát huy tính tích cực, chủ động trong học
tập nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử và trang bị kiến thức cần thiết
cho học sinh, hình thành cho học sinh niềm đam mê khi học Lịch sử. Từ đó, học sinh có
thể tự học, tự tìm hiểu một vấn đề lịch sử, phát huy tính năng động, sáng tạo của mình,
đặc biệt là học sinh khối chuyên Sử.
II. Kiến nghị
Để thực hiện tốt công tác giảng dạy, nâng cao trình độ của giáo viên, học sinh và
bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp, tôi nhận thấy chúng ta cần:
24


- Tổ chức nhiều hơn nữa những cuộc Hội thảo về các chuyên đề lịch sử như Hội thảo
các trường THPT Chuyên khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc Bộ.
- Hàng năm có chương trình đào tạo nâng cao trình độ cho giáo viên.
- Các tổ chuyên môn xây dựng ngân hàng đề thi HSG cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc
gia để mọi thành viên có thể học tập lẫn nhau và cập nhật thông tin.
- Tham khảo nhiều sách báo tài liệu có liên quan, giao lưu học hỏi các bạn đồng nghiệp
có nhiều kinh nghiệm, các trường có bề dày thành tích…

- Phổ biến các sáng kiến kinh nghiệm cho giáo viên làm công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chuyên đề “Mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với
lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945” là một đề tài khó nên tôi không thể tránh
khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các đồng
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn./.

25


×