Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Chuyên đề ôn thi HS giỏi sử mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử việt nam từ năm 1919 đến năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.29 KB, 55 trang )

CHUYÊN ĐỀ
“Mối liên hệ giữa Lịch sử thế giới với Lịch sử Việt Nam từ
năm 1919 đến năm 1945”

MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn chuyên đề
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các trường THPT Chuyên là công

tác phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi. Có thể nói đây là công việc
thường xuyên và cũng là nhiệm vụ đầy khó khăn của khối các trường THPT
Chuyên; ngược lại, số lượng và chất lượng giải học sinh giỏi là tiêu chí hàng đầu
đánh giá năng lực của các cá nhân và tập thể (các trường), các địa phương, các
vùng, miền… Bởi vậy, bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung, bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử nói riêng cho các kì thi chọn học sinh giỏi là vấn đề luôn được các cấp
quản lí, các giáo viên trực tiếp giảng dạy quan tâm và trăn trở.… Đối với bộ môn
Lịch sử, do mang tính đặc thù bộ môn và do các yếu tố khách quan mà nhiệm vụ bồi
dưỡng học sinh giỏi càng trở nên khó khăn và phức tạp. Để hoạt động bồi dưỡng
học sinh giỏi có hiệu quả thì phải tự đánh giá những thuận lợi và khó khăn, ưu điểm
và hạn chế; phải tìm được giải pháp, phải coi trọng yếu tố con người (thầy – trò),
trên cơ sở đó lựa chọn các phương pháp phù hợp.
Lịch sử Việt Nam là một bộ phận của lịch sử thế giới, vì vậy các sự kiện lịch
sử thế giới thường có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến lịch sử Việt Nam. Vì vậy
cách mạng Việt Nam luôn có mối quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới. Trong
giai đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945, có rất nhiều sự kiện to lớn
của thế giới có tác động đến cách mạng Việt Nam. Ở mỗi thời kì khác nhau trong
giai đoạn 1919 – 1945, khi tình hình thế giới có sự thay đổi, cách mạng Việt Nam
cũng phải thay đổi để thích ứng với bối cảnh lịch sử thế giới.
1



Tuy nhiên nội dung về mối liên hệ giữa Lịch sử thế giới với Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1919 – 1945 hiện nay vẫn chưa được biên soạn thành một bài hay một
chương trình cụ thể mà nằm rải rác ở các bài, các mục khác nhau, trong khi đây
cũng là một nội dung quan trọng. Bởi lẽ muốn hiểu được lịch sử Việt Nam thì phải
hiểu được tình hình thế giới cụ thể trong giai đoạn đó. Do vậy, khi giảng dạy và bồi
dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, đòi hỏi giáo viên phải tập hợp và hệ thống kiến thức
từ những bài, những mục trong sách giáo khoa, sách tham khảo để chọn lọc những
nội dung liên quan giữa Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam ở từng giai đoạn cụ
thể để làm rõ cho học sinh. Từ những lí do trên tôi lựa chọn đề tài : “Mối liên hệ
giữa Lịch sử thế giới với Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945”làm nội
dung chuyên đề trong Hội thảo Khoa học các trường THPT chuyên khu vực Duyên
hải và Đồng bằng Bắc Bộ lần thứ XII.
2.Mục đích nghiên cứu
Nội dung của đề tài này không nằm ngoài mục đích đưa ra một số giải pháp
thực hiện việc lựa chọn nội dung giảng dậy, xây dựng hệ thống câu hỏi ôn tập trong
dạy học Lịch sử chuyên đề “Mối liên hệ giữa Lịch sử thế giới với Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1945” để nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức
chuẩn, chuyên sâu và có hệ thống về những tác động của tình hình thế giới đến cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn này.
Thông qua chuyên đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập
của học sinh, nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Sử, góp phần quan trọng
trong việc trang bị kiến thức cần thiết cho học sinh; hình thành cho học sinh niềm
yêu thích khi học Lịch sử từ đó có thể tự học tự tìm hiểu một vấn đề lịch sử, qua đó
phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh đặc biệt là khối học sinh chuyên sử.
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Giáo viên nắm được kiến thức xung quanh chuyên đề từ đó có phương pháp


truyền đạt kiến thức tối ưu đến học sinh. Sử dụng đa dạng các phương pháp ôn
luyện. Hình thành cho các em kĩ năng giải bài dành cho đối tượng học sinh giỏi.
2


4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng: học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ mối liên hệ,tác động của của những sự kiện lịch sử thế
giới tới cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1919 - 1945.
- Đưa ra hệ thống các câu hỏi liên quan đến chuyên đề.
6. Cấu trúc chuyên đề
Để thực hiện chuyên đề “Mối liên hệ giữa Lịch sử thế giới với Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1945”, đề tài triển khai thành hai chương:
Chương 1. Những sự kiện lớn của thế giới có tác động, ảnh hưởng trực tiếp
đến cách mạng Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945.
Chương 2. Một số câu hỏi ôn luyện học sinh giỏi chuyên đề “Mối liên hệ giữa Lịch
sử thế giới với Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945”.

3


A.

NỘI DUNG

Chương 1. Những sự kiện lớn của thế giới có tác động, ảnh hưởng trực
tiếp đến cách mạng Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945
1.


Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của
Quốc tế Cộng sản năm 1919
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
Năm 1917, cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi, đã

xóa bỏ ách thống trị của phong kiến và tư sản Nga, thành lập chính quyền Xô Viết,
đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước. Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga
không chỉ là cuộc cách mạng vô sản mà còn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Thắng lợi đó đã mở ra con đường giải phóng cho giai cấp công nhân và các dân tộc
thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga làm cho phong trào cách mạng ở phương
Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đông có mối quan hệ mật thiết với
nhau vì cùng chống một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam:
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã tác động sâu sắc đến những người
yêu nước Việt Nam trên con đường tìm chân lí cứu nước, mà trước hết là đối với
Nguyễn Ái Quốc. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười mà Nguyễn Ái
Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn –
con đường cách mạng vô sản.
+ Dưới tác động của Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc đấu tranh của cách
mạng Pháp và phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa của Pháp
(trong đó có Việt Nam) có mối liên hệ mật thiết với nhau vì cùng chống kẻ thù
chung là đế quốc Pháp.
Sự thành lập Quốc tế Cộng sản
Do sự phát triển của phong trào cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa,
nhiều tổ chức cộng sản lần lượt thành lập ở các nước châu Âu. Trước yêu cầu mới
của sự nghiệp cách mạng, tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập ở
Mátxcơva.
Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920) đã thông qua một loạt cương lĩnh
và văn kiện quan trọng nhằm xác định đường lối chiến lược và sách lược của
phong trào cách mạng thế giới, trong đó đặc biệt là bản Luận cương về vấn đề dân

4


tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương này được Nguyễn Ái Quốc
đọc và Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc là con đường
cách mạng vô sản.
Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội XVIII của Đảng xã
hội Pháp ở Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này
đã đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập
trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Nó mở ra cho cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn mới – giai đoạn gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con
đường Cách mạng tháng Mười Nga đó là con đường cách mạng vô sản.
2. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918)và cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ hai của thực dân Pháp (1919 – 1929)
Là một nước thắng trận, nhưng Pháp bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất với những tổn thất nặng nề trên nhiều lĩnh vực. Hơn 1,4 triệu người chết
và thiệt hại về vật chất đã lên tới 200 tỉ phơrăng. Những vùng giàu có nhất nước
Pháp, đặc biệt các vùng công nghiệp phát triển bị tàn phá nặng nề, nhiều ngành
công nghiệp bị đình trệ. Đồng thời nước Pháp trở thành con nợ lớn, tính đến năm
1920 tổng số nợ của nước Pháp đã lên tới 300 tỷ phơrăng.
Tình hình trên đã thôi thúc chính quyền Pháp tìm biện pháp vừa thúc đẩy
nhanh nền sản xuất trong nước đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất là ở
Đông Dương, nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi nền
kinh tế và khôi phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trường quốc tế. Chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ hai thực hiện ở Đông Dương do viên Toàn quyền
Đông Dương Anbe Xarô vạch ra.
Về mục tiêu, giống như cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cuộc khai thác
thuộc địa lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm: bòn rút thuộc địa để làm

giàu cho chính quốc nhưng không cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính
quốc.
5


Về thời gian, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai được bắt đầu từ năm 1919
đến năm 1929.
Về cơ cấu vốn đầu tư, đã có sự thay đổi căn bản, nếu như trước Chiến tranh
thế giới thứ nhất chủ yếu là vốn tư bản nhà nước thì trong cuộc khai thác thuộc địa
lần này vốn đầu tư của tư bản tư nhân đứng vị trí hàng đầu.
Về cường độ, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với cường độ mạnh.
Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp vào
Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh, chủ yếu là Việt
Nam lên đến 4 tỉ phơrăng.
Về lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi vị trí rất lớn. Nếu như trong khai thác
thuộc địa lần thứ nhất, khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu thì trong cuộc khai thác
thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nông nghiệp.
- Về kinh tế
+ Nông nghiệp là ngành được thực dân Pháp chú trọng đầu tư lớn nhất. Năm
1924, tổng số vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phơrăng, đến năm 1927 đã
lên đến 400 triệu phơrăng. Diện tích các đồn điền trồng lúa, cao su, cà phê…được
mở rộng. Nhiều công ty trồng cao su ra đời như Công ty Đất đỏ, Công ty Mi-sơlanh…
+ Công nghiệp: Pháp chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ, trước hết là mỏ than.
Nhiều công ty than mới được thành lập như công ty than Hạ Long – Đồng Đăng,
Công ty than và kim khí Đông Dương, Công ty than Tuyên Quang…Ngoài than,
các cơ sở khai thác mỏ thiếc, kẽm, sắt đều được bổ sung thêm vốn, tăng thêm nhân
công và đẩy mạnh tiến độ khai thác. Các nhà máy tơ sợi Hải phòng, nam Định, nhà
máy rượu Hà Nội, Nam Định…được mở rộng quy mô.
+ Thương nghiêp, trước hết làngoại thương có sự phát triển hơn trước. Trước
chiến tranh, hàng hóa Pháp nhập vào Đông Dương mới chiếm 37% đến những

6


năm 1929 – 1930 đã lên đến 63% tổng số hàng nhập. Giao lưu buôn bán nội địa
được đẩy mạnh.
+ Giao thông vận tải phát triển nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận
chuyển vật liệu, lưu thông hàng hóa trong và ngoài nước.
+ Bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống kinh tế Đông Dương là hệ thống
ngân hàng, đứng đầu là Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dươngnắm
trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, phát hành tiền giấy và cho vay lãi, góp
vốn thành lập các công ty, các đồn điền, các nhà máy.
+ Cùng với chính sách khai thác nông, công, thương nghiệp…thực dân Pháp
còn thi hành biện pháp tăng thu thuế nên ngân sách Đông Dương thu năm 1930
tăng gấp 3 lần so với 1912.
-

Chính sách chính trị,văn hoá, giáo dục của thực dân Pháp
Sau chiến tranh chính sách thống trị của Pháp ở Đông Dương vẫn không thay

đổi mà còn được tăng cường hơn. Bộ máy quân sự, cảnh sát, mật thám, nhà tù
được tăng cường và hoạt độn ráo riết.
Thực dân Pháp cho thi hành một vài cải cách chính trị - hành chính để đối
phó với những biến động đang diễn ra ở Đông Dương như tăng thêm số người Việt
trong các phòng thương mại và canh nông ở các thành phố lớn, lập viện Dân biểu
Trung Kì (1926), Viện Dân biểu Bắc Kì (1926).
Văn hóa giáo dục cũng có những thay đổi. Hệ thống giáo dục Pháp – Việt
được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Các cơ sở
xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp chí Pháp và
chữ Quốc ngữ. Pháp sử dụng báo chí, văn hóa…để phục vụ công cuộc khai thác và
thống trị của chúng.


7


=> Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp làm cho
kinh tế và xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, cụ thể:
- Những chuyển biến mới về kinh tế
Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của tư bản Pháp ở Đông
Dương có bước phát triển mới. Nền kinh tế tư bản Pháp tiếp tục được mở rộng và
bao trùm lên nền kinh tế phong kiến Việt Nam. Trong quá trình đầu tư vốn và mở
rộng khai thác thuộc địa, thực dân Pháp có đầu tư kĩ thuật và nhân lực song rất hạn
chế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam có chuyển biến ít nhiều, song chỉ có tính chất cục bộ
ở một số vùng, còn phổ biến vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Kinh tế Đông
Dương ngày càng bị cột chặt vào kinh tế Pháp và Đông Dương vẫn là thị trường
độc chiếm của tư bản Pháp.
- Sự chuyển biến mới về giai cấp xã hội ở Việt Nam
+ Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn và chính
sách thống trị của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam có những
chuyển biến mới:
+ Giai cấp địa chủ tiếp tục bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt là tiểu địa
chủ, trung địa chủ và đại địa chủ. Một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ
tham gia phong trào dân tộc dân chủ chống thực dân Pháp và thế lực phản động
tay sai.
+ Giai cấp nông dân bị đế quốc, phong kiến thống trị, tước đoạt ruộng đất, bị
bần cùng, không có lối thoát. Mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam với đế quốc
phong kiến tay sai hết sức gay gắt. Nông dân là một lực lượng cách mạng to lớn
của dân tộc.
+ Giai cấp tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng, họ có tinh thần dân tộc
chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt bộ phận học sinh, sinh viên, trí thức là
8



tầng lớp thường nhạy cảm với thời cuộc và tha thiết canh tân đất nước, nên hăng
hái đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
+Giai cấptư sản ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Phần đông họ là
những người trung gian làm thầu khoán, cung cấp nguyên liệu hay hàng hóa…cho
tư bản Pháp. Khi kiếm được số vốn khá, họ đứng ra kinh doanh riêng và trở thành
những nhà tư sản như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu… Giai cấp tư sản Việt
Nam mới ra đời đã bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thế lực kinh
tế yếu, không thể đương đầu với sự canh tranh của tư bản Pháp. Dần dần họ phân
hóa thành hai bộ phận: tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với đế quốc
nên câu nên cấu kết chặt chẽ với chúng và tầng lớp tư sản dân tộc có xu hướng
kinh doanh độc lập, ít nhiều có khuynh hướng dân tộc và dân chủ.
+ Giai cấp công nhânngày càng phát triển, số lượng tăng lên nhanh chóng đến
1929 có trên 22 vạn người. Giai cấp công nhân Việt Nam bị giới tư sản, nhất là
bọn đế quốc thực dân, áp bức bóc lột nặng nề, có quan hệ gắn bó với nông dân,
được thừa hưởng truyền thống yêu nước dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu
cách mạng vô sản, trở thành động lực của phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh
hướng cách mạng tiên tiến của thời đại.
Như vậy,sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam có những biến đổi
quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam
ngày càng sâu sắc, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với thực dân Pháp và bọn phản động tay sai. Cuộc đấu tranh dân tộc chống đế
quốc và tay sai tiếp tục diễn ra phong phú về nội dung và hình thức.
3. Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn đến khuynh

hướng cách mạng Việt Nam
- Tôn Trung Sơn (1866-1925) còn có tên là Tôn Văn, Tôn Dật Tiên, người huyện
Hương Sơn (nay là Trung Sơn) tỉnh Quảng Đông. Ông là nhà cách mạng dân chủ vĩ
đại của Trung Quốc. Sớm giác ngộ tư tưởng dân tộc – dân chủ, nên sau khi tốt

9


nghiệp trường Y khoa Bác Tế (Quảng Châu), ông đã dấn thân vào con đường hoạt
động cứu dân cứu nước. Năm 1894, ông thành lập Hưng Trung Hội ở Hônôlulu
(Mĩ), đây là tổ chức cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc đề ra Cương
lĩnh hoạt độn: “Phú quốc cường binh”, “Chấn hưng Trung Hoa”, “Duy trì quốc thể”.
Mục tiêu đấu tranh là đánh đổ chính quyền Mãn Thanh và thiết lập chính thể dân
chủ. Hội đã thu hút nhiều nhân sĩ và thanh niên Trung Quốc yêu nước tham gia,
quyên góp kinh phí, mua sắm vũ khí chuẩn bị các cuộc khởi nghĩa Quảng Châu
(1895), Huệ Châu (1898) dự định kết hợp với phong trào phản đế của Nghĩa Hòa
Đoàn ở miền Bắc, nhưng đã không thành công, ông lại phải lưu vong ra nước ngoài.
- Ngày 10/8/1905, Hưng Trung Hội của Tôn Trung Sơn, Hoa Hưng Hội của
Hoàng Hưng (tức Hoàng Khắc Cường) cùng với các Hội đảng khác họp tại Tokyo
(Nhật Bản) lập ra một tổ chức cách mạng thống nhất lấy tên “Trung Quốc Đồng
Minh Hội” gọi tắt là Đồng Minh Hội. Cương lĩnh chính trị của Đồng Minh Hội được
xây dựng theo học thuyết tam dân của Tôn Trung Sơn “dân tộc độc lập, dân quyền
tự do,dân sinh hạnh phúc”.
- Từ đó, phong trào cách mạng tiến mạnh hơn trước. Các cuộc khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc ngày càng lan rộng và
đến ngày 10-10-1911, khởi nghĩa Vũ Xương thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi thành
công đãlật đổ chế độ phong kiến hàng nghìn năm thống trị Trung Quốc. Chính phủ
Dân quốc lâm thời ra đời do Tôn Trung Sơn làm Tổng thống, thủ đô đặt tại Nam
Kinh.
- Nhưng chẳng bao lâu sau, mọi thành quả cách mạng lại bị rơi vào tay bọn thế
lực quân phiệt phản động Viên Thế Khải. Tôn Trung Sơn lại phải trải qua một
chặng đường đấu tranh mới đầy gian lao khổ ải. Năm 1912, ông cải tổ Đồng Minh
Hội thành Quốc dân Đảng, đề ra cương lĩnh mới, hướng Trung Quốc phát triển
theo con đường dân chủ tư sản phương Tây.
- Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi (1917) đã ảnh hưởng lớn đến Tôn

Trung Sơn, rồi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập (1921) tạo nên bước ngoặt
10


trong tư tưởng và hành động của ông. Tôn Trung Sơn đã kết hợp với Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất cách mạng, đề ra “ba
chính sách lớn: Liên Nga, Liên Cộng, Phù trợ Nông Công”. Tháng 1 năm 1924,
được sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đại hội lần
thứ nhất của Quốc dân Đảng được triệu tập ở Quảng Châu. Đại hội thông qua
cương lĩnh mới, điều lệ mới và nhiều biện pháp cụ thể nhằm cải tổ Quốc dân
Đảng. Chủ nghĩa Tam dân được giải thích lại bằng chủ nghĩa Tam dân mới. Chủ
nghĩa Tam dân mới về nguyên tắc cơ bản giống với cương lĩnh thời kì cách mạng
dân chủ tư sản của Đảng Cộng sản Trung Quốc và trở thành cơ sở chính trị cho
việc hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản. Đại hội I của Quốc dân Đảng
đã đánh dấu sự hình thành liên minh hợp tác giữa Đảng Cộng Sản và Quốc dân
đảng cùng nhau đấu tranh tiêu diệt các tập đoàn quân phiệt phương Bắc Trung
Quốc. Sau Đại hội, với sự ủng hộ của Liên Xô và những người cộng sản Trung
Quốc, Tôn Trung Sơn đã xây dựng chính quyền ở Quảng Châu và vùng phụ cận,
tiếp tục phát triển lực lượng. Trường Quân sự Hoàng Phố được thành lập nhằm đào
tạo những lớp sĩ quan đầu tiên để xây dựng quân đội cách mạng, lực lượng trấn áp
những cuộc phiến loạn phản cách mạng và củng cố chính quyền cách mạng ở
Quảng Châu.
- Ngày 12/3/1925, trong chuyến đi công cán, Tôn Trung Sơn lâm bệnh và từ
trần tại Bắc Kinh. Nhân dân Trung Quốc và những người cộng sản đánh giá rất cao
những đóng góp của Tôn Trung Sơn đối với phong trào cách mạng Trung Quốc.
=>Tôn Trung Sơn và những tư tưởng dân chủ tiến bộ của ông có ảnh hưởng
sâu sắc dến nhiều nhà yêu nước ở Châu Á, trong đó có Việt Nam. Cụ thể:
- Trong những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu – một nhà chí sĩ yêu nước
tiêu biểu của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc đường lối cách mạng và tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Mô hình “Trung Hoa

dân quốc”, đảng cách mạng đã lôi cuốn ông và ông đã hoàn toàn vứt bỏ những gì
còn là tư tưởng phong kiến, chuyển hướng sang theo tư tưởng dân chủ tư sản và trở
11


thành người cộng hòa. Năm 1912, ông về Quảng Đông, tập hợp lực lượng cách
mạng và tháng 2 năm đó, tại nhà Lưu Vĩnh Phúc ông đã tuyên bố thành lập Việt
Nam Quang phục hội, đề ra tôn chỉ duy nhất là “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục
Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam”. Phan Bội Châu được bầu
làm Tổng lý, cơ cấu tổ chức và chức viên của Hội cũng gần giống như Đồng Minh
Hội của Tôn Trung Sơn, cũng có ba bộ: Bộ Tổng vụ, Bộ Bình nghi và Bộ Chấp
hành”. Hội cũng có “đội quân Quang phục”, đề ra “phương lược” chế định quốc kỳ,
quân kỳ, phát hành quân dụng phiếu… Trong “Lời phi lộ của Việt Nam Quang phục
hội” nhấn mạnh ý nghĩa:
“Gần thì bắt chước theo Tàu (tức theo Tôn Trung Sơn),
Xa thì người Mỹ người Âu làm thầy”.
- Đến năm 1924, trước sự kiện hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản ở
Trung Quốc, Phan Bội Châu đã bàn bạc với các đồng chí của mình cải tổ cải tổ
Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng phỏng theo tổ chức Quốc dân
Đảng của Tôn Trung Sơn.
- Điều đó, đã góp phần khiến cho cách mạng Việt Nam từ sau chiến tranh thế
giới thứ nhất đến năm 1930 xuất hiện hai khuynh hướng chính trị cùng song song
tồn tại: phong trào yêu nước của tư sản và tiểu tư sản phát triển theo khuynh hướng
dân chủ tư sản và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân
dân khác phát triển theo khuynh hướng vô sản. Đây là nội dung lớn nhất của phong
trào yêu nước Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930. Hai khuynh hướng chính trị
nói trên đã diễn ra cuộc đấu tranh nhằm giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Kết quả đến năm 1930, khuynh hướng tư sản đã thất bại với sự tan rã của Việt Nam
Quốc dân Đảng (cùng với thất bại của Khởi nghĩa Yên Bái tháng 2/1930). Khuynh
hướng vô sản đã giành quyền lãnh đạo cách mạng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam

ra đời (đầu năm 1930).
- Bên cạnh đó những tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn không chỉ ảnh hưởng
đến Phan Bội Châu mà còn có cả Nguyễn Ái Quốc. Cuối năm 1924, khi Nguyễn Ái
Quốc, phái viên của Quốc tế Cộng sản từ Liên Xô về hoạt động ở Trung Quốc,
chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã từng tìm hiểu cách mạng
12


Trung Quốc, nên nhân dịp kỷ niệm ngày sinh Tôn Trung Sơn (13/11/1926) Người đã
viết những dòng về các sự kiện ở Trung Quốc đầy xúc động với lòng tôn phục như
sau: “Chúng tôi không thể không nêu nhiệt tình của dân chúng Quảng Châu và cả
tỉnh Quảng Đông khi họ kỷ niệm ngày sinh của Tôn Dật Tiên. Sự nồng nhiệt của
nhân dân chứng tỏ người Trung Quốc biết ơn dường nào vị lãnh tụ vĩ đại quá cố
khơi dậy nơi họ ý chí tự giải phóng khỏi ách áp bức về ngoại giao mà bây giờ không
có thể biện hộ được”. Chính Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ hoạt động ở Quảng Châu
cũng đã giới thiệu nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam vào học trường quân sự
Hoàng Phố để học tập quân sự và có học cả lý luận chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn .
- Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường ca ngợi tình hữu
nghị lâu đời giữa hai nước Việt- Trung và không quên tôn vinh chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn. Ngày 12/10/1945, nhân danh Chủ tịch nước, Người đã ký
sắc lệnh số 49 về việc ghi rõ quốc hiệu Việt Nam Dân chủ cộng hòa trên các công
văn, điện văn, công điện, trát, đơn từ, báo chí, chúc từ…và sau đó chúng ta lại thấy
phía dưới dòng tiêu đề: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xuất hiện trang trọng ba cặp
tiêu ngữ: Độc lập- Tự do- Hạnh phúc phản ánh niềm khát vọng muôn đời của biết
bao thế hệ con dân nước Việt Nam yêu quý. Ba tiêu ngữ này hẳn là “tác phẩm” của
chủ tịch Hồ Chí Minh vốn có nguồn gốc từ ba chủ nghĩa “Dân” của Tôn Trung Sơn
được Người tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo ở Việt Nam trong cả quá trình
đấu tranh giải phóng giành dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.

4.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và phong trào cách mạng
1930 – 1931

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và tác động đến Việt Nam
- Tháng 10 năm 1929, khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mĩ, sau đó lan ra
toàn bộ thế giới tư bản, chấm dứt thời kì ổn định và tăng trưởng của ch ủ
nghĩa tư bản. Đây là cuộc khủng hoảng “thừa” do sản xuất ồ ạt, ch ạy đua theo
lợi nhuận trong những năm 1924 - 1929. dẫn đến tình trạng hàng hóa ế th ừa
13


trong khi người lao động không có tiền mua. Cuộc kh ủng hoảng kéo dài g ần 4
năm, trầm trọng nhất là năm 1932, chẳng những tàn phá n ặng n ền n ền kinh
tế của các nước tư bản mà còn gây ra những hậu quả nghiêm tr ọng v ề chính
trị, xã hội. Hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, nông dân m ất ru ộng đ ất,
sống trong cảnh nghèo đói, túng quẫn. Nhiều cuộc đấu tranh, bi ểu tình c ủa
những người thất nghiệp đã diễn ra ở khắp các nước.
- Khủng hoảng kinh tế đã đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của ch ủ
nghĩa tư bản. Để cứu vãn tình thế, các nước tư bản buộc ph ải xem xét lại con
đường phát triển của mình. Trong thế giới tư bản hình thành hai h ướng gi ải
quyết khủng hoảng, đó là: nhóm các nước có nhiều vốn, thuộc đ ịa, th ị tr ường
và nhân công như Mĩ, Anh, Pháp tiến hành những cải cách kinh t ế xã h ội đ ể
khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng và đổi mới quá trình t ổ ch ức qu ản
lí, còn các nước Đức, Italia, Nhật Bản là nh ững n ước có ít th ị tr ường, thu ộc đ ịa,
nhân công đã tìm lối thoát bằng việc phát xít hóa bộ máy chính quy ền, thi ết
lập chế độ độc tài phát xít – nền chuyên chính khủng bố công khai c ủa nh ững
thế lực phản động nhất, hiếu chiến nhất. Hệ quả nghiêm trọng nh ất là hình
thành ba lò lửa chiến tranh thế giới ở Đức, Italia, Nhật Bản. Sự xuất hiện c ủa

chủ nghĩa phát xít khiến cho nền hòa bình thế giới bị đe dọa nghiêm trọng.
- Trong khi thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên
quy mô lớn, thì Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những
thành tựu đáng kể, hoàn thành công nghiệp hóa và đang tiến hành tập thể hóa nông
nghiệp. Quảng châu công xã (Trung Quốc) cũng giành thắng lợi. Sự phát triển của
phong trào cách mạng thế giới là điều kiện quan trọng, cổ vũ sự bùng nổ của phong
trào cách mạng ở Đông Dương.
- Đông Dương là một thuộc địa lớn của thực dân Pháp, nên cũng chịu tác động
của cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, làm cho đời sống nhân dân hết sức
khó khăn.

14


- Thực dân Pháp lại tăng cường vơ vét, bóc lột để bù đắp những tổn thất do
khủng hoảng gây ra ở chính quốc. Vì thế Đông Dương phải gánh chịu cả những hậu
quả của cuộc khủng hoảng ở nước Pháp. Chính phủ Đông Dương đã áp dụng hàng
loạt biện pháp kinh tế - tài chính nhằm tăng cường bóc lột, cướp đoạt tài sản của
nhân dân Việt Nam để chống đỡ với tai họa của cuộc khủng hoảng. Chẳng hạn,
chúng dùng tiền ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản Pháp có
nguy cơ phá sản. Chúng đặt thêm nhiều thứ thuế mới, tăng các mức thuế đã có và
phát hành công trái.
- Dưới tác động của cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam trở nên tiêu điều
thảm hại. Lúa gạo sụt giá, ruộng đất bị bỏ hoang. Trong công nghiệp sản lượng hầu
hết các ngành đều suy giảm. Xuất nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, đắt đỏ.
Sự phân cực giàu – nghèo càng sâu sắc hơn. Hậu quả của cuộc khủng hoảng là vô
cùng tàn khốc đối với mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là công nhân và nông dân.
Một phần ba công nhân thất nghiệp. Riêng miền Bắc có đến 25.000 công nhân bị sa
thải, trong số đó gần một nửa là công nhân ngành mỏ. Những công nhân còn việc
làm chỉ được lương 70%, thậm chính bằng một nửa mức lương so với trước khủng

hoảng. Nông dân phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm làm ra phải
bán với giá thấp. Ruộng đất bị địa chủ người Pháp và người Việt chiếm đoạt. Nông
dân ngày càng bị bần cùng hóa. Các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không
tránh khỏi tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế. Thợ thủ công bị thất nghiệp,
nhà buôn nhỏ phải đóng cửa hiệu, viên chức bị sa thải, số đông tư sản dân tộc gặp
nhiều khó khăn trong kinh doanh.
- Có thể nói cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã đụng chạm trực
tiếp hầu hết đến các tầng lớp trong xã hội Việt Nam, làm cho những mâu thuẫn vốn
có trong xã hội càng trở nên sâu sắc hơn, trong đó nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân
với địa chủ phong kiến. Đó chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm
bùng nổ cao trào cách mạng Việt Nam 1930 – 1931 trên quy mô toàn quốc.

15


- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã giáng những đòn nặng nề
vào tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Đời sống các tầng lớp nhân dân lao động
hết sức điêu đứng. Thêm vào đó, các vụ bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân
diễn ra tàn bạo trên khắp cả nước, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Quốc
dân Đảng. Bầu không khí chính trị Việt Nam càng trở nên ngột ngạt. Vào thời điểm
đó, ngọn cờ giải phóng dân tộc được giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng
sản Việt Nam giương cao. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh
đạo phong trào đấu tranh của quần chúng công nông rộng khắp cả nước.
Phong trào cách mạng 1930 – 1931
- Từ tháng 2 đến tháng 4/1930, nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và
nông dân. Mục tiêu đấu tranh là đòi cải thiện đời sống: công nhân đòi tăng lương,
giảm giờ làm; nông dân đòi giảm sưu thuế... bên cạnh đó cũng xuất hiện những
khẩu hiệu chính trị như “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến!”, “thả tù
chính trị”…

- Nhân ngày Quốc tế lao động 1/5/1930, cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu
tranh, đây là bước ngoặt của phong trào cách mạng. Lần đầu tiên công nhân Việt
Nam biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân
dân lao động trong nước và thể hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao
động thế giới.
- Trong các tháng 6,7,8 liên tiếp nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động khác trên phạm vi cả nước.
- Tháng 9/1930 phong trào đấu tranh dâng cao, nhất là ở hai tỉnh Nghệ An và
Hà Tĩnh. Những cuộc biểu tình của nông dân có vũ trang tự vệ với hàng nghìn
người tham gia kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu, giảm thuế. Các cuộc đấu
tranh này được công nhân ở Vinh - Bến Thủy hưởng ứng.
- Tiêu biểu là biểu tình của nông dân Hưng Nguyên ngày 12/9/1930, khiến
cho hệ thống chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều thôn xã.
16


Nhiều lí trưởng, chánh tổng bỏ trốn. Trong tình hình đó, nhiều cấp ủy Đảng ở thôn,
xã đã lãnh đạo nhân dân đứng lên tự quản lí đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội ở địa phương, làm chức năng của chính quyền, gọi là “Xô viết”.
Xô viết Nghệ - Tĩnh
- Tại Nghệ An, Xô viết ra đời tháng 9/1930 ở các xã thuộc huyện Thanh
Chương, nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu.
Ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương
Khê vào cuối năm 1930 – đầu năm 1931. Các Xô viết đã thực hiện quyền làm chủ
của quần chúng, điều hành mọi mặt đời sống xã hội:
+ Về chính trị: quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể
cách mạng, tự do hội họp. Các đội tự vệ đỏ và tòa án nhân dân được thành lập.
+ Về kinh tế thi hành các biện pháp như: chia ruộng đất công cho dân cày
nghèo, bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối, xóa nợ cho người nghèo.
Đắp đê, phòng lụt, sửa chữa cầu đường. Lập các tổ chức để nông dân giúp đỡ nhau

sản xuất.
+ Về văn hóa, xã hội: chính quyền cách mạng mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho
các tầng lớp nhân dân; các tệ nạn xã hội như tệ nạn mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ
bạc, trộm cắp…bị xóa bỏ; trật tự trị an giữ vững, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau
được xây dựng.
- Có thể thấy, những chính sách của chính quyền Xô Viết đem lại lợi ích cho
nhân dân, chứng tỏ bản chất ưu việt của một chính quyền mới đó là chính quyền
nhân dân. Xô viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 – 1931.
Tuy chỉ tồn tại được 4 – 5 tháng, nhưng đó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng
nhân dân trong cả nước.

17


- Trước tác động của phong trào, thực dân Pháp tập trung lực lượng tiến hành
khủng bố dã man. Chính quyền Xô Viết sụp đổ, từ giữa năm 1931, phong trào cách
mạng trong cả nước tạm thời lắng xuống.
=>Phong trào cách mạng 1930 – 1931 được đánh giá cao trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản
Đông Dương là một bộ phận độc lập, trực thuộc Quốc tế Cộng sản.Phong trào có ý
nghĩa như cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng cho Tổng khởi nghĩa
tháng Tám sau này.
5.

Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản và phong trào dân chủ 1936 – 1939
Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản và tác động đến Việt Nam
- Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, thế lực phát xít cầm quyền ở Đức,

Italia, Nhật Bản đã tiến hành chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới. Sự
xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đã đe dọa nền hòa bình thế

giới, vì thế nhiệm vụ của tất cả các dân tộc trên thế giới lúc này là chống phát xít,
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh.
- Trước tình hình đó, tháng 7/1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ
VII tại Mátxcơva (Liên Xô), đã quyết nghị nhiều vấn đề quan trọng như: xác định
kẻ thù là chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là là
chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh, mục tiêu đấu tranh là giành dân
chủ, bảo vệ hòa bình, thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng
cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội.
- Tháng 6/1936, Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã
cho thi hành một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa. Đối với Đông Dương, chính phủ
Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền mới, sửa đổi đôi chút luật
bầu cử vào viện Dân biểu, ân xá một số tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí…
- Lúc này ở Việt Nam nhiều đảng phái chính trị hoạt động, trong đó có đảng
cách mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động… các đảng tận dụng cơ
18


hội đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Tuy nhiên chỉ có
Đảng Cộng sản Đông Dương là chính đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và có
chủ trương rõ ràng.
- Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), thực dân Pháp ở Đông
Dương tập trung đầu tư khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế “chính
quốc”:
+ Về nông nghiệp: chính quyền thực dân tạo điều kiện cho tư bản Pháp chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho 2/3 nông dân không có ruộng hoặc chỉ có ít
ruộng. Phần lớn đất nông nghiệp độc canh trồng lúa. Các đồn điền của tư bản Pháp
chủ yếu trồng cao su, sau đó là cà phê, chè, đay, bông, gai...
+ Về công nghiệp: Pháp đẩy mạnh ngành khai mỏ, sản lượng các ngành dệt,
sản xuất xi măng, chế cất rượu tăng. Các ngành điện, nước, cơ khí, đường, giấy,
diêm…ít phát triển.

+ Về thương nghiệp: chính quyền thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu,
muối thu được lợi nhuận rất cao. Nhập khẩu máy móc và hàng công nghiệp tiêu
dùng. Hàng xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản, nông sản.
Nhìn chung 1936-1939, kinh tế Việt Nam có phục hồi và phát triển nhưng vẫn
lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp. Đời sống các tầng lớp nhân dân vẫn gặp khó khăn
do chính sách tăng thuế của chính quyền thuộc địa. Số công nhân thất nghiệp vẫn
còn nhiều. Những người có việc làm được nhân mức lương chưa bằng thời kì trước
khủng hoảng. Nông dân không đủ ruộng cày, họ còn chịu mức địa tô cao và nhiều
thủ đoạn bóc lột khác của địa chủ, cường hào… Tư sản dân tộc có ít vốn nên chỉ lập
được những công ty nhỏ, phải chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép. Nhiều người
trong giới tiểu tư sản trí thức thất nghiệp. Công chức nhận được mức lương thấp.
Các tầng lớp lao động khác phải chịu thuế khóa nặng nề, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, nên
họ hăng hái tham gia đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình.
19


=>Trước tác động của bối cảnh thế giới, tháng 7/1935, Hội nghị Ban chấp hành
trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc)do Lê
Hồng Phong chủ trì. Hội nghị dựa trên Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế
Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối và phương
pháp đấu tranh:
- Tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp”, “Đông Dương hoàn toàn độc
lập”, “tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”.
- Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là
chống đếquốc và chống phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt của cách mạng
Đông Dương là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít,
chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
- Kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn phản động Pháp ở thuộc địa và bè lũ tay
sai của chúng.

- Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương ( đến tháng 3/1938 đổi
thành Mặt trận dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp các giai cấp, tầng lớp, đảng
phái và cá nhân … thực hiện nhiệm vụ trên.
- Các tổ chức quần chúng của Mặt trận đều thay đổi cho phù hợp: Công hội,
Nông hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản được thay bằng Hội Cứu tế, Hội Ái hữu,
Đoàn Thanh niên dân chủ.
- Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp
pháp và bất hợp pháp.
Phong trào dân chủ 1936 – 1939
- Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình
hình ở Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân họp bàn về
các yêu cầu tự do, dân chủ để thảo ra các bản “dân nguyện” gửi tới phái đoàn, tiến
tới triệu tập Đông Dương Đại hội (8/1936).
- Đảng kêu gọi thành lập các Ủy ban hành động ở khắp nơi để tập hợp lực
lượng. Quần chúng nhân dân sôi nổi tham gia các cuộc mít tinh, hội họp. Khắp
20


Bắc, Trung, Nam, các Ủy ban hành động đã được thành lập. Đến tháng 9/1936, ở
Nam Kì có 600 Ủy ban hành động.
- Ngày 15/9/1936, chính quyền thực dân ra lệnh giải tán các Ủy ban hành
động, cấm các cuộc hội họp của nhân dân.
- Mặc dù phái đoàn của Quốc hội Pháp không sang, phong trào Đông Dương
Đại hội bị cấm hoạt động, song đông đảo quần chúng lao động đã thức tỉnh, được
giác ngộ về quyền lợi giai cấp mình, được tập hợp, tổ chức và rèn luyện ý thức
đoàn kết, tinh thần đấu tranh được nâng cao. Đảng đã tích lũy được một số kinh
nghiệm lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp. Chính quyền thực dân đã giải
quyết một phần yêu sách của nhân dân như nới rộng quyền xuất bản báo chí, tự do
đi lại, thả một số tù chính trị…
- Đầu năm 1937, phái viên của Chính phủ Pháp là G.Gôđa sang điều tra tình

hình Đông Dương và Brêviê nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Lợi dụng sự
kiện này, Đảng tổ chức quần chúng mít tinh “đón rước”, nhưng thực chất là biểu
dương lực lượng. Trên đường Gôđa đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến đâu nhân dân
cũng biểu tình đến đâu nhân dân cũng biểu tình đưa yêu sách về dân sinh, dân chủ.
- Trong những năm 1937 – 1939, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ
ngày càng phát triển mạnh. Từ tháng 1 đến tháng 11/1938 có 135 cuộc bãi công
của công nhân, 125 cuộc đấu tranh của nông dân. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, trên
25000 người mít tinh ở Hà Nội với những khẩu hiệu lớn: “Đi tới Mặt trận dân chủ
Đông Dương !”, “Ủng hộ Mặt trận bình dân Pháp!”, “Chống nạn thất nghiệp !”,
“Thi hành triệt để luật xã hội !”… Thực dân Pháp rất căm tức những cuộc mít tinh
lớn có sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng nhưng chúng bất lực.
- Đấu tranh Nghị trường:trong cuộc bầu cử vào Viện dân biểu Trung Kì
(1937), Viện dân biểu Bắc Kì, Hội đồng kinh tế lí tài Đông Dương (1938) và Hội
Đồng Quản hạt Nam Kì (1939), Đảng vận động để đưa người của Mặt trận dân chủ
Đông Dương ra ứng cử. Đồng thời Đảng sử dụng báo chí để tuyên truyền, vận
động cử tri bỏ phiếu cho những ứng viên này. Đảng chủ trương tham gia đấu tranh
công khai trên nghị trường nhằm mục đích mở rộng lực lượng của Mặt trận dân
21


chủ và vạch trần chính sách phản động của bọn thực dân và tay sai, bênh vực
quyền lợi của nhân dân lao động.
- Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí: Đảng đã xuất bản nhiều tờ báo công khai ở
các thành phố lớn trong nước như Tiền phong, Dân chúng, Lao động, Tin tức…
Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích trong những phong trào lớn của cuộc
vận động dân sinh, dân chủ thời kì 1936 – 1939. Trong thời gian này, nhiều chính
sách chính trị - lí luận, các tác phẩm văn học hiện thực phê phán, thơ cách mạng đã
được xuất bản.
- Phong trào dân chủ 1936 – 1939 thu được nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Thực dân Pháp đã phải nhượng bộ, cải thiện

phần nào quyền dân sinh, dân chủ(thực dân Pháp đã phải ban hành luật lao động,
ngày làm việc 8 giờ, tuần 6 ngày, 5 ngày nghỉ phép/năm). Thắng lợi lớn nhất là
qua phong trào đấu tranh, quần chúng được tổ chức và giác ngộ, cán bộ của Đảng
được tôi luyện, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong công tác xây dựng mặt trận
thống nhất dân tộc.
=>Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 thực sự là một phong trào dân tộc dân
chủ rộng lớn. Qua phong trào, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và ăn
sâu trong nhân dân. Chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính sách của Đảng và
Quốc tế Cộng sản được phổ biến rộng rãi. Sách báo hợp pháp của Đảng và Mặt
trận dân chủ Đông Dương đã có tác dụng rộng lớn trong việc động viên, giáo dục,
tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu
tuyên truyền xuyên tạc và những hoạt động phá hoại của bè lũ phản động khác,
làm cho chúng càng bị cô lập.Việc Đảng lợi dụng được những khả năng hợp pháp
để hoạt động, kể cả hoạt động ở các Viện dân biểu và Hội đồng quản hạt là một
thắng lợi lớn của những người cộng sản ở một nước thuộc địa.Qua phong trào đòi
hỏi tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, Đảng đã động viên giáo dục và xây
dựng được một “đội quân chính trị quần chúng” đông hàng triệu người ở cả thành
thị và nông thôn.Đồng thời Đảng đã bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ đông đảo.

22


Có thể thấy, phong trào cách mạng 1936 – 1939 là cuộc diễn tập lần thứ 2, chuẩn
bị tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945.
6.

Chiến tranh thế giới thứ hai và phong trào cách mạng 1939 - 1945
- Ngày 1/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, quân đội

phát xít Đức kéo vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, thực hiện

chính sách thù địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách
mạng các nước thuộc địa.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, bọn Pháp ở Đông Dương tiến hành
phát xít hóa bộ máy nhà nước, tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân và đàn áp cách
mạng, đẩy nhân dân ta vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Viên
toàn quyền Catơru ra lệnh tổng động viên nhằm cung cấp cho “mẫu quốc” tiềm lực
tối đa của Đông Dương về quân sự, nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu.
- Trước tình hình đó, tháng 11/1939, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương họp ở Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng bí thư
Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
+ Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng
Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương,
làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
+ Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân
tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông binh được
thay thế bằng khẩu hiệu lập Chính phủ dân chủ cộng hòa.
+ Về mục tiêu, phương pháp đấu tranh, Đảng quyết định chuyển từ đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ
hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật.
+ Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
(gọi tắt là Mặt trận Phản đế Đông Dương) thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
23


- Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 11/1939,
đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng của Đảng- đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.
- Tháng 9/1940, quân Nhật Bản vượt biên giới Việt – Trung tiến vào miền Bắc
Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy

thống trị của thực dân Pháp, dùng nó để vơ vét kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến
tranh và đàn áp phong trào cách mạng. Dưới ách thống trị của Nhật – Pháp, ở Việt
Nam lúc này không chỉ có những đảng phái chính trị thân Pháp mà còn cả những
đảng phái thân Nhật như Đại Việt, Phục quốc…
- Phát xít Nhật ra sức tuyên truyền lừa bịp về sức mạnh của Nhật, tìm cách hất
cẳng Pháp khỏi Đông Dương, các đảng phái chính trị thân Nhật ra sức hoạt động.
Pháp – Nhật tăng cường cướp đất đai, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay và
thầu dầu phục vụ chiến tranh.
- Pháp ở Đông Dương cũng bị Nhật ép chia sẻ quyền lợi: phải đương đầu với
cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương ngày càng cao. Pháp thực hiện chính sách
“Kinh tế chỉ huy” và ra lệnh tổng động viên để vơ vét cạn sức người và của ở Đông
Dương phục vụ cho cuộc chiến tranh thế giới và đáp ứng yêu cầu của Nhật.
- Chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng
cực. Tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội nước ta, trừ bọn tay sai đế quốc, đại địa chủ
và tư sản mại bản, đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của Pháp – Nhật. Nhiệm
vụ giải phóng dân tộc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nhiều cuộc đấu tranh của
nhân dân nổ ra: khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, Binh Biến Đô Lương song đều thất
bại.
- Trước bối cảnh đó, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương (11/1940) xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp
– Nhật; quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn để xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng, tiến tới thành lập căn cứ địa cách mạng; quyết định đình chỉ khởi nghĩa Nam
Kì vì thời cơ chưa chín muồi.
24


- Có thể thấy đến năm 1941, Đông Dương đang rên xiết dưới hai tầng áp bức
bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với thực dân
Pháp và phát xít Nhật ngày càng gay gắt. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc từ
Trung Quốc về Cao Bằng. Trước tình hình thế giới ngày càng khẩn trương, Người

đã cùng Đảng quyết định triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó
(Cao Bằng), Hội nghị đã đưa ra những quyết định quan trọng như sau:
+ Giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: “Trong lúc
này, quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc
thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc phải mãi chịu kiếp ngựa trâu mà quyền
lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
+ Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm
thuế, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ,
sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
+ Để phát huy sức mạnh của mỗi dân tộc ở Đông Dương, cần phải giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông Dương:
Ở mỗi nước Campuchia, Lào, Việt Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất
riêng. Đồng thời các dân tộc Đông Dương cũng phải đoàn kết chống kẻ thù chung
là Pháp - Nhật, liên hệ mật thiết với Liên Xô và phe dân chủ chống phát xít.
Ở Việt Nam, Mặt trận lấy tên là “Việt Nam độc lập đồng minh” (Việt Minh)
được thành lập vào ngày 19/5/1941 bao gồm các tổ chức quần chúng mang tên
Cứu quốc, nhằm đoàn kết tập hợp lực lượng chống kẻ thù là đế quốc, phát xít Pháp
– Nhật và tay sai, giành độc lập dân tộc.
Mặt trận Việt Minh thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc nhằm triệt để
phân hóa, cô lập kẻ thù. Đồng thời có nhiệm vũ giúp đỡ, đoàn kết với các dân tộc
Lào và Campuchia.

25


×