Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tư tưởng triết học của nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.69 KB, 28 trang )

Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

HVTH: MAI THỊ

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Trang 1


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Tp,HCM
3/2010

LỜI MỞ ĐẦU
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 2


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong
nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hoá góp phần làm phong phú văn hoá
Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hoá Hán cùng với sự giao lưu
tiếp xúc văn hoá với các tộc người khác. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử mất
ngàn năm của Trung Quốc, Nho giáo được nhìn nhận hết sức khác nhau: có những


giai đoạn lịch sử, người ta đề cao Nho giáo, coi đó như là chuẩn mực để xây dựng đời
sống xã hội, lại có thời gian, người ta phê phán, bài bác, thậm chí phủ nhận Nho giáo.
Đương nhiên, khi đã coi Nho giáo như là một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá
trong các giai đoạn lịch sử cũng là việc làm bình thường.
Ở Việt Nam trong những thập niên gần đây việc tìm hiểu Nho giáo có chiều
hướng gia tăng. Bên cạnh nhiều bộ sách kinh điển Nho giáo được tái bản, nhiều công
trình nghiên cứu về Nho giáo lại càng trở nên càng thiết hơn, khi mà một số nước
trong khu vực vốn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm Nho giáo đang vươn lên thành những
“con rồng”. Hai cuộc toạ đàm về Nho giáo diễn ra tại Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn giữa các nhà khoa học Mỹ và các nhà khoa học Việt Nam cũng
không ngoài mục đích góp phần nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống Nho
giáo.
Nét đặc thù của triết học Trung Quốc nói chung hay Nho giáo nói riêng là có
xu hướng đi sâu vào giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội
có nội dung bao trùm là con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trị nước. Ngay từ khi xâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã nhanh chóng thích
nghi và phát triển mạnh mẽ, sự ảnh hưởng, tác động của nó đến đời sống người Việt
Nam rất sâu sắc không chỉ trong quá khứ mà vẫn còn tiếp tục phát huy đến ngày nay,
góp phần phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, đề tài: “tư tưởng triết
học của Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người
Việt” được thực hiện nhằm làm rõ hơn tư tưởng triết học chủ đạo của Nho giáo cũng
như tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó đến đời sống người Việt Nam trãi qua bao thế hệ.
MỤC LỤC
Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO........5
1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI.........................5
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 3



Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời:....................................................................................5
1.1.2. Đặc Điểm:..................................................................................................5
1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO...............................................5
1.2.1. Lịch sử hình thành:.....................................................................................5
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo:........................................................6
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO...................................7
2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO..........................................7
2.1.1. Ngũ Kinh:...................................................................................................8
2.1.2. Tứ Thư.......................................................................................................9
2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO.................................................11
2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy:.........................................11
2.2.2. Tư tưởng triết học của Nho giáo thể hiện qua quan niệm về Đạo Đức:....14
2.2.3. Tư tưởng triết học Nho giáo qua thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống:
........................................................................................................................... 16
Chương 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT.......................17
3.1. Tiến trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam...............................................17
3.2. Ảnh hưởng Nho Giáo đến đời sống văn hóa tinh thần Người Việt..................19
3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam...................................................19
3.2.2. Ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam............20
3.2.3. Tư tưởng triết học nho giáo - nét văn hóa đặc trưng trong việc xây dựng
đời sống gia đình mới Việt Nam ngày nay..........................................................21
3.3. KẾT LUẬN.....................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................27

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19


Trang 4


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
NHO GIÁO
1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI
1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời:
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á có hai con sông lớn
(Hoàng Hà & Trường Giang). Vào thế kỷ 21 TCN chỉ là một vùng đất nhỏ ở trung lưu
Hoàng Hà, lãnh thổ được mở rộng dần cho đến thế kỷ 18.
Cư dân phía Bắc Trường Giang là dân tộc Hán, có nguồn gốc Mông Cổ
(Hoa/Hạ) sống du mục, (thích săn bắn, chinh phục). Cư dân phía Nam Trường Giang
là các dân tộc Bách Việt, sống nông nghiệp (định canh, định cư) có nền văn hóa riêng
nhưng dần dần bị dân tộc Hán đồng hóa. Xã hội chia làm hai loại người (quân tử và
tiểu nhân)…
Lịch sử Trung Hoa cổ đại đầy biến động, với các vương triều khác nhau đã để
một nền văn hóa rực rỡ với nhiều trường phái triết học sâu sắc.
1.1.2. Đặc Điểm:


Nền triết học đồ sộ nhưng tập trung giải quyết các vấn đề do thực tiễn đạo đức,
chính trị, xã hội của thời đại đặt ra.




Xuất phát từ quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân mà chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm xung đột nhau xung quanh vấn đề cội nguồn, số phận, bản
tính,..của con người; nhằm xây dựng một quan niệm nhân sinh vững chắc,
giúp con người vươn lên trong điều kiện xã hội đầy phức tạp và biến động.



Các trường phái triết học khác nhau, vừa phê phán xung đột, vừa hấp thụ tư
tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng tư tưởng biện chứng trong kinh dịch.

1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1.2.1. Lịch sử hình thành:
Khổng giáo (Nho giáo) là một giáo lý đạo đức cơ bản xuất xứ ở Trung Quốc vào
thế kỷ thứ 5 và 6 trước CN. Dựa trên những cơ cấu và sự tu tập nó đã phổ biến lâu đời
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 5


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

trong xã hội Trung Quốc, chẳng hạn hệ thống gia tộc và sự thờ cúng ông bà, tổ tiên
của nó, Khổng giáo đã trở thành hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất Trung
Quốc, cùng tồn tại với Lão giáo (đạo) và Phật giáo qua nhiều thế kỷ. Người sáng lập
ra nó đức Khổng Phu Tử (551-479 trước CN) một nhà cải cách chính trị cũng là một
nhà giáo dục, ngài bất mãn với sự suy đồi đạo đức trong thời đại của mình và tìm
cách khôi phục lại những giá trị mà ngài cho là những phong tục tốt đẹp của thời đại

Hoàng Kim. Những tư tưởng triết lý, đạo lý và tín ngưỡng đặt nền tảng cho một hệ
thống đạo đức đã tồn tại qua nhiều thời gian thử thách.
Trãi qua hơn hai nghìn năm, tư tưởng nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc
không chỉ về chính trị, văn hóa mà còn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy
của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả còn xem nho giáo là tư tưởng tôn giáo
của Trung Quốc. Trong thực tế, nho giáo là một trong rất nhiều trường phái thời cổ
Trung Quốc, nó là tư tưởng triết học chứ không phải là tôn giáo và được coi là tư
tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và có
ảnh hưởng tới một số nước ở Châu Á .
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo:
Nho giáo nguyên thủy (tiền Tần/Khổng –Mạnh): Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã
san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ,
Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn
năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông
tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của - Khổng Tử
là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép
thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên
thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng
KhổngMạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia
mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang
tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành
giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 6



Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về
tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai
cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị”.
Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và
cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ thư và ngũ kinh là kinh điển
nho giáo. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy
(thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn
Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống
nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc
bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo
giáo phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị).

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO
Để hiểu được tư tưởng triết học của nho giáo lúc bấy giờ, cần điểm qua các tác
phẩm kinh điển của Nho giáo gồm 02 (hai) bộ Ngũ Kinh và Tứ Thư. Đây là hai bộ
sách nổi tiếng mà hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 7


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo


GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã
hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
2.1.1. Ngũ Kinh:
Giáo lý của Khổng Tử dựa trên sáu quyển sách cổ: Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc Và
Xuân Thu. Bốn trong sáu quyển này được đề cao với từ “Kinh”- Kinh Dịch, Kinh
Thư, Kinh Thi, Nhạc Kinh vào thế kỷ thứ 2 trước CN, do bởi sách nhạc mất đi, năm
cuốn còn lại được đặt tên là Ngũ Kinh.
Kinh Thi là người bạn đồng hành của ngài. Chắc hẳn ông ta đã thuộc lòng nó và
hát nó. Ngài đề cập hoặc trích dẫn nó khoảng 20 lần trong Luận Ngữ. Kinh thi có 305
bài hát, bao gồm các bài hát ca tụng triều đại được hát ở triều đình nhà Chu và những
bài dân ca khác biệt với những phần của đế chế nhà Chu. Theo truyền thống, nhà vua
phái các quan lại đi khắp nơi để thu thập các bài dân ca để ông ta có thể tìm hiểu về
những gì người dân nghĩ suy nơi sự cai trị của mình.
Khổng Tử giới thiệu Kinh Thi cho các môn sinh của ngài với một vài lý do.
Đầu tiên giúp cho họ hiểu được các phong tục, tập quán quốc gia khác nhau. Thứ hai,
giúp cho họ sống hòa thuận với người khác. Thứ ba, nó là phương tiện hòa giải tình
cảm của họ. Cuối cùng, nó sẽ đưa họ đến với muôn thú và cỏ cây.
Về “Kinh Thư” là sách ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có
trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các
minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
“Kinh Dịch” là một cẩm nang về sự tiên đoán có từ đời nhà Chu và sau đó được
các nhà uyên bác của đạo Khổng mở rộng. Bằng cách vận dụng các cây que bằng
cọng cỏ thì có thể tạo ra 64 ngôi sao sáu cánh, liên kết tất cả các cấu trúc này và biến
đổi thành vũ trụ.
Không còn cốn sách “Lễ” nào tồn tại vào thời Khổng Tử. Tuy vậy, cuốn Lễ ký
chứa đựng các tư liệu vào đầu thời kỳ nhà Chu nhưng thực tế nó được biên soạn sau
này, đưa ra tình huống cổ điển. Cuốn sách này quan trọng của Lễ Nghi cũng như tạo
cho nó có sự phù hợp với thời thế. Ví dụ, khi một người trị vì qua đời, các quan lại và

hầu thiếp đều bị chôn theo để linh hồn họ tiếp tục đi theo hầu hạ. Sách lễ đã phản đối
việc đó bằng cách dùng hàng mã thay thế, vừa đáp ứng cho mục tế lễ, vừa thể hiện
tình cảm người sống dành cho người chết.
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 8


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

“Kinh Xuân Thu” ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông
chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc
vua chúa. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân
và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra).
2.1.2. Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà
Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo. Chúng bao gồm:
Đại Học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
“Đại học” là sách dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc
đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của
Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái
đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện.
Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri, thành ý, chính
tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”.
Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu

thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của
mình làm gốc”)
“Trung Dung” là sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng
Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung
dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa,
không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho
thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận
Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
“Luận Ngữ” là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 9


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta
hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra
là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng
trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời
cho mỗi người mỗi cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của
Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
“Mạnh Tử” Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của

ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều
đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với
những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc
Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: tâm học và chính trị
học.
Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự
giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để
phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người.
Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi
cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương
tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra
bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần
của người đã hợp nhất với Trời.
Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh
hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm
của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng,
dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước
phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo
giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi
hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất
hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được.
Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 10


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo


GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy:
Là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về Đạo làm người quân tử và cách thức
trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình bày trong một hệ thống
các tư tưởng về đạo đức – chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của xã hội, cơ sở của gia đình không
phải là những quan hệ kinh tế - xã hội mà là những quan hệ đạo đức - chính trị tam
cương là ba quan hệ vua –tôi, cha – con, chồng – vợ . Các quan hệ này được Nho Gia
gọi là Đạo. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra
cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ ; thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và
ngược lại. Xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi,
kỹ cương phép nước lỏng lẽo là do ba quan hệ này rối loạn, do danh – thực oán trách
nhau, nghĩa là vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con;
chồng chẳng ra chồng, vợ chẳng ra vợ. Vì vậy muốn cải loạn thành trị, muốn thực
hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó và Nho gia nguyên thủy đã
lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh.
Bên cạnh việc giáo dục để xây dựng một xã hội đại đồng, Khổng Tử và Mạnh
Tử còn tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận đạo đức của mình qua thuyết Thiên Mệnh.
Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, vạn vật không ngừng
biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng tận cùng là Thiên
Mệnh và hiểu biết được Thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành người hoàn
thiện.
Dựa trên thuyết Thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: “ thiên mệnh chi vị tính, xuất
tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và tính tương cận, tập tương viễn. Điều này có
nghĩa là: con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản
là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống,do điều kiện, hoàn cảnh, môi
trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác

xa người kia. Vậy, tập là nguyên nhân làm biến tính con người, mất đi bản tính trời
phú, làm cho con người vô đạo, thiên hạ vô đạo. Vì vậy, muốn giữ được tính người
phải lập đạo, làm cho thiên hạ hữu đạo.

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 11


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Đạo phải đi cùng với giáo mới sâu sắc, vững bền. Hữu đạo là thể hiện mối quan
hệ giữa người với người, giữa người với trời đất – vạn vật một cách đúng đắn phù
hợp với Thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm dương, nếu
lập đạo của đất thì nói về cương nhu, còn lập đạo của người thì nói đến nhân nghĩa.
Quan niệm về nhân nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức nho gia nguyên thủy.
Chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo đức của phái
này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng.
• Quan niệm về Nhân:
-

Theo Khổng Tử: nhân là lòng hương người (ái nhân). Muốn thực hiện đạo làm
người tức muốn thực hiện đức nhân cần phải: điều gì mà mình không muốn thì
cũng đừng đem áp dụng cho người khác; mình muốn lập thân thì cũng giúp
người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt;
khống chế mình theo đúng lễ…người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn
cung, khoan, tín mẫn, huệ (cung kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng
rãi)…, bên trong gia đình luôn hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường nhịn)…


-

Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp, Ông cho rằng chỉ có
người quân tử, kẻ cai trị mới có được đức nhân.

• Quan niệm về nghĩa:
-

Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức nhân dùng để đối xử với
người và tạo ra người, thì nghĩa là dạ thủy chung, đức nghĩa dùng để đối xử
chính và tạo ra ta. Đức nhân thể hiện trong mối quan hệ với người thì đức
nghĩa thể hiện trong mối quan hệ với mình. Khi làm việc gì hoặc nói điều gì ta
thấy tâm thảnh thơi, thoải mái và hứng thú thì đó là làm điều nghĩa và nói điều
nghĩa. Vậy, nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm bất
kể điều đó có đem đến lợi ích cho người thực hiện việc đó hay không.

-

Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp mà khổng Tử cho rằng, bậc quân tử
tin tường việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ việc lợi. Tiểu nhân và quân tử là hai
loại người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa vị xã hội mà chủ yếu là
phẩm chất đạo đức.

• Quan niệm về Lễ:

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 12



Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo
-

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Để đạt được nhân, lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương cho xã hội Khổng Tử
chủ trương phải dùng lễ. lễ xác định được vị trí, vai trò của từng người, phân
định trật tự, kỷ cương trong gia đình và ngoài xã hội; loại trừ những tật xấu và
tạo ra những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi.

-

Theo Khổng Tử lễ được hiểu ở hai khía cạnh. Thứ nhất, lễ được hiểu là lễ giáo
phong kiến như những phong tục, tập quán; những qui tắc, qui định về trật tự
xã hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế lễ, luật lệ, hình
pháp…; thứ hai, lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi
ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội trước lễ nghi, trật
tự, kỹ cương phong kiến.

-

Nhân và lễ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khổng tử cho rằng trên đời này
không tồn tại người có nhân mà vô lễ.
Ngoài Nhân, Lễ, Nghĩa, Nho gia còn nói đến trí là sự sáng suốt để nhận thức

mọi vấn đề, hiểu đạo trời, hiểu đạo người, hiểu cả thiên hạ và biết sống với nhân; tín
tức là nói đến lòng ngay, dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau.
Nếu Khổng Tử chú trọng đến Tam Đức (nhân, trí, dũng) thì Mạnh Tử xem Tứ
Đức (nhân, lễ, nghĩa, trí) là những chuẩn mực đạo đức hoàn thiện hơn. Dựa vào

thuyết Thiên Mệnh Người cho rằng: “ nhân chi sỏ, tính bản thiện” – con người sinh ra
đã có sẳn tính thiện trong người, do người có nhân, lễ, nghĩa & trí. Tâm là cội nguồn
tính thiện trong con người. Vì vậy, con người phải trường kỳ tâm dưỡng kỳ tính nghĩa
là giữ gìn cái tâm thiện ấy. Mặc dù vậy, trong cuộc sống vẫn tồn tại cái ác mê hoặc
lòng người, làm đảo điên trật tự, kỹ cương của xã hội. Để giữ được trật tự kỹ cương
phải thực hành đường lối nhân nghĩa.
Tất cả những điều nêu trên là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Nho giáo mà người
quân tử phải biết tu thân để đạt đạo. Người quân tử phải đạt được chín điều: nhìn cho
minh bạch, nghe cho rõ ràng, sắc mặt phải ôn hòa, tướng mạo phải trang nghiêm, khi
tức giận phải nghĩ hậu quả, nói năng trung thận, làm việc phải trọng tín cẩn, nghi
hoặc phải hỏi han, khi thấy lợi phải nghĩ đến nghĩa. Đó là những chuẩn mực xây dựng
nên mẫu người quân tử trong xã hội.
Không riêng bậc quân tử mới biết tu thân, đạt đạo và hành đạo để trở thành mẫu
người chuẩn mực. Quan niệm về người phụ nữ trong tư tưởng Nho giáo ràng buộc bởi
Tam tòng, Tứ đức.
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 13


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

“Tam Tòng” là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: ”tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”. Nghĩa là người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,lúc lấy
chồng phải theo chồng, chồng mất phải theo con.
“Tứ Đức” muốn nói đến bốn tính nết tốt mà người phụ nữ phải có, gồm: công
dung, ngôn, hạnh. Người phụ nữ phải khéo léo trong việc làm, hòa nhã trong sắc diện,
mềm mại trong lời nói và nhu mì trong tính nết.

Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu
chuẩn của người quân tử, muốn trở thành người quân tử phải biết tu thân. Để tu thân
cần phải đạt đạo, đạo chính là con đường phải theo, là quan hệ mà con người phải
biết ứng xử trong cuộc sống. Đó chính là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ. Bên
cạnh đó còn phải đạt đức là những phẩm chất tốt đẹp mà con người thể hiện trong
cuộc sống. Người quân tử còn phải biết: thi, thư, lễ, nhạc.
Tóm lại, xuyên suốt quan điểm đạo đức – chính trị - xã hội của Khổng Mạnh là
xây dựng mẫu người quân tử. Người quân tử phải biết tam cương, ngũ thường, tam
tòng, tứ đức nghĩa là phải biết tu thân và không chỉ có tu thân mà còn phải biết hành
động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn hành động hiểu quả phải thực hành đường
lối nhân trị - cai trị bằng tình người, yêu thương và xem như bản thân mình; và chính
danh.
Nho giáo nguyên thủy đã khát khao biến xã hội từ loạn thành trị. Điều này toát
lên tính nhân bản sâu sắc. Nó đòi hỏi người cai trị - người quân tử là người có vốn
văn hóa toàn diện. Nho giáo nguyên thủy xây dựng xã hội đại đồng không dựa trên
nền tảng kinh tế - xã hội, không xuất phát từ nền sản xuất vật chất mà chủ yếu dựa
trên mối quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội thông qua việc rèn luyện, giáo dục nhân
cách cá nhân cho tầng lớp thống trị. Dùng tâm, đạo, dùng nhân, nghĩa để thu phục
lòng người, để trị quốc, an dân.
Mặc dù nó mãi là lý tưởng chính trị cao đẹp của tầng lớp phong kiến thống trị xã hội
Trung Quốc nhưng Nho giáo nguyên thủy Khổng – Mạnh toát lên giá trị nhân bản và
tinh thần biện chứng sâu sắc.
2.2.2. Tư tưởng triết học của Nho giáo thể hiện qua quan niệm về Đạo Đức:
Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người của
Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết trong xã
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 14



Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con người, phẩm hạnh
của con người trong mối quan hệ với người khác và trong mối quan hệ với nhà nước,
Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử.
Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc
này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường trái
ngược hẳn nhau” (Enghen). Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không
phải là vĩnh cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa
bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Suy đến
cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa. Khổng Tử giảng chữ Nhân cho
học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng
thương người và cũng chính là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, không
thi hành với người những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn
nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì
cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho
người xấu đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải, đường hay, việc đúng.
Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của người”; (Cáo Tử
thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” (Lâu ly
thượng); “ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của đại nhân là thế
đó” (Tồn Tâm Thương).
Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải làm
nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người xung quanh có
cái nghĩa đối với quốc gia xã hội. Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa
vào ngũ thường. Tam cương ngũ thường trở thành giềng mối trụ cột của lễ giáo phong
kiến. Sang Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trừu tượng hoá. Các nhà Tống nho
căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ “nhân nghĩa” một màu
sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người có “tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4

điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh; đức của người có nhân, nghĩa, lễ trí. Bốn đức của người
tương cảm với 4 đức của trời.
Hệ thống hoá lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân nghĩa” ở một số thời điểm phát
triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “nhân nghĩa” của Nho giáo là
khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt những căn bản
vẫn là những lễ giáo phong kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buộc con
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 15


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến.
Trong quá trình phát triển càng ngày nó càng bị trừu tượng hoá trên quan điểm siêu
hình. Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích cực.
Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo
chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế
nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho
kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học, truyền
thống khí tiết của kẻ sĩ không thể bảo là di sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực.
2.2.3. Tư tưởng triết học Nho giáo qua thái độ của Nho giáo đối với cuộc
sống:
Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời và tìm
thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo cho cuộc đời là bể
khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan như
vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”.
Chỉ có đạo Nho là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi đời

để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa không “Người muốn biết người
chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện đó không phải là chuyện cần kíp bây giờ, rồi
sau biết” (Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến
chuyện quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện của
con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết! “Phải vụ lấy việc
nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà xa ta” (Luận ngữ) khi khoa học chưa phát
triển, các tôn giáo còn thịnh hành, những chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc
người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy
chưa thoát ra được cái “thiện đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi
quỷ thần, trời mặc dù ông vẫn trong việc tế trị.
Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui đời, sống có ích cho đời cho xã
hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta định sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó:
“Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ
việc đời là trái đạo con người. Sống là hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử
chính là tấm gương cho các nhà Nho đời sau noi theo. Ông không tìm thú vui ở chỗ
ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành động, hành đạo. Khổng Tử đi chu
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 16


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách thực hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm.
Không ai dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của
mình. Đây có thể nói là điểm sáng nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và
có lẽ chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài
của lịch sử.


Chương 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT
Nho giáo của Khổng Tử được du nhập vào Việt Nam tư thời Bắc thuộc và ảnh
hưởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Cùng với Phật giáo, Lão giáo, Nho
giáo của Khổng tử đã tác động, chi phối nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
3.1. Tiến trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam.
Hoàn cảnh du nhập của Nho học ở Việt Nam có khác với nước khác. Nếu với
Nhật Bản thì sự du nhập là gián tiếp, từ Triều Tiên truyền sang và sau đó là sự tiếp thu
trực tiếp, các lưu học sinh Nhật Bản sang Trung Quốc học Nho học và truyền bá lúc
đầu mang tính áp đặt. Người Hán xâm lược Việt Nam, đưa Nho học vào để tăng
cường sự thống trị. Vì vậy, thái độ đầu tiên của người Việt Nam là phản ứng, chống
lại. Thái độ trên có sự chuyển biến là mãi về sau, khi nền kinh tế xã hội Việt Nam có
nét giống với nền kinh tế - xã hội phong kiến Trung Quốc, khi người Việt Nam có sự
quen thuộc ít nhiều với Nho học.

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 17


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Thái độ đối với Nho học của người Việt Nam có bước ngoặc là khi người Việt
Nam giành được độc lập dân tộc từ tay người Hán ở thế kỷ X, lúc này, người ta thấy ở
học thuyết này là một lý luận và một nghệ thuật của đạo trị nước, cần thiết phải nắm
lấy để xây dựng đất nước mình. Các triều đại phong kiến Việt Nam tự mình thấy phải

du nhập và phát triển Nho học. Các vua của triều Lý Việt Nam ở thế kỷ XI đã xây
dựng văn miếu để tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền nhà Nho, đã mở trường Quốc Tử
Giám cho con hoàng tộc và con cái các nhà quyền quý vào học tập Nho học, đã tổ
chức ra các kỳ thi Nho học để chọn ra các nhân tài kiểu nhà Nho.
Khi nói đến vấn đề du nhập Nho học vào Việt Nam, nhiều người chỉ thấy hoạt
động đó ở giai đoạn đầu, giai đoạn đầu Bắc thuộc. Thực ra sự du nhập đó diễn ra
nhiều lần và ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. Ngoài sự diễn ra ở đầu công
nguyên, Nho học còn được tiếp tục truyền vào Việt Nam ở các giai đoạn sau. Có thể
nói, thời nào cũng có hiện tượng du nhập, giai đoạn nào của Nho học Trung Quốc
cũng muốn truyền sang Việt Nam. Thời Bắc thuộc là Hán Nho, thời Đinh, Lê, Lý,
Trần, là Đường Nho, thời Lê Sơ là Tống Nho, thời Lê Mạt và Nguyễn là Thanh Nho.
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia liền nhau, việc giao lưu không gì cản trở,
hơn nữa, tư tưởng và học thuật thì không có biên giới ngăn cách.
Sau khi chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc bằng chiến công trên sông Bạch
Đằng năm 938, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Thời điểm này
là thời kỳ hưng thịnh của Phật Giáo. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô,
Đinh, Lê đều theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây
dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta. Cũng từ đây, Nho
giáo được quan tâm, chú ý. Bên cạnh sự đóng góp của các nhà sư trong việc ổn định
và xây dựng đất nước thì xu hướng Nho giáo giữ vai trò ngày càng quan trọng và dần
dần thay thế Phật giáo ngày càng rõ. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu
thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên
bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó
về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh
vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính
quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo
dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy,
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19


Trang 18


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không
thấm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong
những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm. Nho giáo thống lĩnh tư
tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn.
Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn
giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá
trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng
là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất
và độc đáo của văn hóa Việt Nam,
3.2. Ảnh hưởng Nho Giáo đến đời sống văn hóa tinh thần Người Việt.
3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam.
Qua các thời đại lịch sử của dân tộc ta, không phải bất cứ ai cũng thấu đáo được
hết ý nghĩa của đạo Nho, phân tích thành hệ thống theo yêu sách của trường ốc, bác
học. Hơn thế nữa, cũng có những cách hiểu, cách áp dụng đạo Nho lấy "dụng" làm
"thể", nên có những hiện tượng phản kháng nếp sống cao ngạo, giả tạo và khắt khe
của lớp "quan lại hủ nho", những cách đối xử thiếu tình nghĩa trong gia đình và ngoài
xã hội, những lễ nghi rườm rà, bất nhân... Sứ điệp nào, tôn giáo nào cũng gặp nguy cơ
như thế khi tiếp cận với lịch sử xã hội. Nhưng đằng sau những hiện tượng xã hội tiêu
cực trên đây, hồn của đạo Nho vẫn thấm nhập vào nếp sống sinh hoạt của mỗi một
người con dân Việt; và đôi khi chính cái hồn đó là sức mạnh tố giác những hình thức
nhiêu khê, giả tạo của nếp sống "nho nhã" giả hình.
Từ triều đình đến cuộc sống làng mạc, từ cách cư xử bạn bè, thân quyến đến nếp

sống gia đình... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín được đề xuất như những mẫu mực tạo một
trật tự nhân sinh tình nghĩa. Từ vua chúa đến thứ dân, từ người có học đến người dân
quê không biết đọc biết viết..., thì "lễ", là sự kính trọng kẻ khác, luôn được cảm nhận
như giềng mối của các tương quan xã hội.
Từ ý thức nghĩa làm người, dân Việt Nam đã anh dũng đẩy lui, tố giác... những
hành vi bạo ngược vi phạm đến tự do và sự sống an bình của đồng bào họ. Và chưa
có ai, sử gia nào Việt Nam, dám viết rằng những năm tháng bị ngoại bang đô hộ, vua

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 19


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

quan hà hiếp dân chúng... dầu có ổn định bên ngoài từng trăm năm, là những năm
tháng hòa bình cả.
Vì tự thâm sâu nơi tâm hồn người Việt Nam, hòa bình chân thật là nỗ lực xây
dựng con người và xã hội trong Ðạo lý, một nền hòa bình vốn không phải do bất cứ
ai, bất cứ phe nào suy nghĩ ra và áp đặt theo sở thích của mình. Nhưng hòa bình chân
thật trong khuôn khổ Trung và Hòa của Nho học có căn nguồn vững bền nơi Tâm
Duy Vi, xuất phát từ đáy lòng của mỗi người.
3.2.2. Ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của dân tộc
Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và nhiều
câu chuyện nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua những hạn chế của Nho
giáo ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí

Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng
trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ
Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở
Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế
độ phong kiến và lật đổ nhà vua.
Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt
và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi
nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối
đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành lấy độc lập và
xây dựng tổ quốc.
Người đã sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm: “lấy dân làm gốc”
làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng nước va giữ nước. Người cũng coi
đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương việc nước.
Qua 2 cuộc kháng chiến Người đã nhắc nhở rất nhiều câu chữ của Nho giáo để
giáo dục cán bộ nhân dân về phẩm chất tư cách đạo đức, về lòng nhân đạo của con
người Việt Nam. Người mượn câu nói của Mạnh Tử để nêu lên khí phách của người
cách mạng : “ giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực

HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 20


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

không thể khuất phục”. Đây cũng chính là câu nói của Mạnh Tử trong Thiên Đằng
Văn Công – Ha : “ Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và thống

nhất, đất nước ta bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng mọi mặt của đất
nước theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới một tương lai tốt đẹp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại thường xuyên đụng đến nho
giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến cho chúng ta nhiều bài học quý báu.
3.2.3. Tư tưởng triết học nho giáo - nét văn hóa đặc trưng trong việc xây
dựng đời sống gia đình mới Việt Nam ngày nay.
Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì
vậy, những hành vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho
giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người. Những quy định này,
nếu loại bỏ những yếu tố bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến nay, vẫn còn có giá trị. Do
đó, kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo về gia đình trong việc xây dựng gia
đình mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện thành công xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là việc làm cần thiết.
Con người luôn được Nho giáo xem xét trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Ở Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi
xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội đã giúp Nho
giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối
quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, vua - tôi, bạn - bè.
Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình
và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ gia đình được củng cố bằng
chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, còn các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi
chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan hệ đó là những yêu cầu giao tiếp
bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy
phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả những mối quan hệ trên và các
phương thức ứng xử hội tương ứng với nó, theo Nho giáo, là cái trời đã định sẵn cho
con người. Đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha - con, anh - em. Trong gia đình
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19


Trang 21


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

thì vợ - chồng phải hòa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy, là cha - con thì cha phải
hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái học tập.
Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ,
biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc
lẫn nhau, là anh chị thì phải biết nhường nhịn, thương yêu, là em thì phải biết nghe lời
và lễ phép với anh chị. Trong quan hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng
trung thành trong quan hệ vua tôi và trên dưới. Người dưới phục vụ người trên phải
lấy chữ trung làm đầu. Kẻ trên đối xử với kẻ dưới phải lấy chữ nhân làm đầu, phải
biết giữ lễ và phải có lòng tín thật. Xét chung trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu
cầu mỗi cá nhân phải lấy mình làm mốc mà yêu cầu đối với người. Cái gì mình muốn
thì cũng làm hết lòng cho người khác và ngược lại, cái gì mình ghét thì cũng đừng
đem lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội đều có
nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo đảm sự ứng xử
được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người phải làm tốt vai trò của mình. Vai trò đó
được xác định bởi danh phận của mỗi người do xã hội quy định. Đó là phận làm vua,
phận làm tôi, phận làm cha, phận làm con.... Danh phận của mỗi người quy định cách
ứng xử của họ. Cách ứng xử theo danh phận Nho giáo gọi là lễ. Theo Nho giáo, nếu
trong xã hội mỗi người đều làm tất bổn phận của mình thì xã hội sẽ thái bình. Nếu xã
hội thái bình thì mọi người ai cũng được an cư lạc nghiệp. Khi đó tất cả những người
già cả, trẻ nhỏ và những người cô quả sẽ được mọi thành viên trong xã hội quan tâm
giúp đỡ. Cảnh tranh giành và chém giết nhau vì cái lợi sẽ không còn. Để làm được
điều đó, Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của gia đình.

Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu "một nhà
nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ nhượng.
Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn" (Đại học, chương IX). Do đó, một xã hội
muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa
thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau.
Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo
nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng
như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại,
con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà,
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 22


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

cha mẹ, biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho
ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là
một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn
nhau, biết em ngã thì chị nâng.
Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong gia đình phải biết giữ
gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con người mới trở thành con người xã hội:
"Chim anh vũ có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài chim, con tinh tinh có thể biết nói
nhưng vẫn thuộc loài cầm thú. Làm người mà không có lễ thì tuy biết nói đấy nhưng
có khác gì loài cầm thú? Chỉ có loài cầm thú là không có lễ, cho nên cha con ở lẫn lộn
với nhau.
Vì vậy việc làm của bậc thánh nhân là lấy lễ dạy người khiến người ta ai cũng
biết lễ để tự phân biệt mình với cầm thú" (Kinh Lễ, Khúc lễ thượng). Nhờ có lễ, con

người mới có thể biết được như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là kính với người trên,
là từ đễ với anh em thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân với người chung
quanh, là tín thực với thân thuộc.
Theo lễ, người con có hiếu và biết lễ phép thì "Khi ở trước mặt cha mẹ ruột hoặc
cha mẹ chồng, nếu có lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thoái phải chu toàn thận trọng,
lên xuống ra vào phải cung kính, không dám ho hoẹ, đằng hắng hay ngáp dài, không
được đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc dọc, không dám phun nước bọt chùi nước
mũi… Nếu như cha mẹ có lỗi lầm gì, mình vẫn phải vui vẻ hoà nhã dùng lời nói ôn
hoà mà can gián. Nếu can mà (cha mẹ) không nghe lại càng phải giữ thái độ hoà nhã
cung kính hơn, đợi cha mẹ nguôi ngoai rồi lại can gián. Nếu cha mẹ không nghe để
đến nổi phạm lỗi lầm có tội với bạn bè hàng xóm, ta vẫn phải ôn hòa khuyên can. Nếu
cha mẹ nóng giận đánh ta đến chảy máu, ta vẫn không dám giận oán mà vẫn phải kính
trọng hiếu thuận với cha mẹ" (Kinh Lễ, Chương XII, tiết 2).
Ngược lại, ngay từ khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ "cần thiết phải dạy
nó biết sử dụng tay phải, con trai phải biết thưa dạ, con gái phải biết nhu hòa… Khi
con lên sáu tuổi, hãy dạy chúng về số học và đếm số… Tám tuổi, dạy chúng khi ra
vào hay khi ngồi vào bàn ăn, nhất nhất phải theo sau bậc trưởng thượng, bắt đầu dạy
cho chúng biết nhường nhịn... Mười tuổi, cho ra ngoài học thêm sách vở khác… bắt
đầu hướng dẫn chúng về lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ… Hai mươi tuổi
là làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ… dạy chúng thuần hậu về hiếu lễ" (Kinh Lễ, Chương
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 23


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

XII, tiết 3). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia đình hoà thuận, con cái

biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ
là một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa
thuận. Vì thế, làm chính trị không cứ là phải ra làm quan.
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù hợp
với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
chúng ta. Chúng ta cũng coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả
đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách". Vì thế, Đảng ta đòi hỏi "Các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây dựng
gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi
lớp người"(1). Với tính cách tế bào xã hội, vườn ươm các nhân tài của đất nước, nơi
nuôi dưỡng những công dân mới cho tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong
việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự tốt xấu của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển
đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà
chúng ta đang tiến hành. Tất nhiên, gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia
đình hòa thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng, cha con anh em tôn trọng lẫn nhau,
cùng nhau bàn bạc và quyết định những vấn đề lớn của gia đình. Gia đình mới mà
chúng ta xây dựng cũng đòi hỏi vợ chồng phải có lòng chung thuỷ, làm cha, mẹ phải
có đức nhân từ, làm con phải có đức hiếu kính, làm anh em phải có sự thương yêu
nhường nhịn. Hạt nhân của mỗi gia đình ấy chính là vợ và chồng.
Có thể thấy rằng, gia đình mới hiện nay, trước hết, cần phải là một gia đình vợ
chồng sống chung thuỷ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng với nhau về quyền lợi và trách
nhiệm. Vợ chồng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm giáo dục con cái, phụng dưỡng cha
mẹ, ông bà.
Thứ hai, là một gia đình con cái biết hiếu kính với cha mẹ, ông bà bởi đức hiếu
kính của người làm con để thờ cha mẹ cũng là cái gốc của đức nhân. Nói tới đức nhân
là nói tới lòng yêu thương người. Cái gốc của yêu thương người trước hết chính là
yêu thương cha mẹ mình, anh em của mình. Người mà không biết yêu thương cha mẹ
có công sinh thành, dưỡng dục mình thì cũng không thể có được lòng yêu thương
đồng chí, đồng bào mình. Vì vậy, chúng ta ngày nay cũng yêu cầu người làm con cần

phải biết phụng dưỡng cha mẹ. Khi phụng dưỡng cha mẹ phải kính cẩn và có lễ phép.
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 24


Đề tài: Tư Tưởng Triết Học Nho Giáo

GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

Chúng ta cũng kiên quyết phê phán những hành động ngược đãi cha mẹ già, không
muốn làm nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ già mà đùn đẩy cho xã hội hoặc con cái đun
đẩy trách nhiệm chăm sóc cha mẹ cho nhau, hoặc có nuôi cha mẹ thì như nuôi vật
cảnh mà thiếu sự kính trọng lễ phép. Đức hiếu ngày nay cũng đòi hỏi người làm con
trong hành động và việc làm phải làm sao để cho cha mẹ có thể được tự hào với bà
con lối xóm. Việc lười lao động, ham cờ bạc rượu chè chỉ biết đến của cải, lo liệu cho
vợ con mà không nghĩ đến cha mẹ, không phải chỉ Nho giáo mà ngày nay chúng ta
cũng cần lên án là hành vi bất hiếu.
Thứ ba, anh em trong gia đình phải biết bảo ban nhau, yêu thương nhau trên tinh
thần em ngã chị nâng. Là người anh, người chị thì phải biết bao bọc che chở cho em,
nhường nhịn em. Là người em phải biết kính trọng anh chị, nghe lời anh chị dạy bảo.
Xã hội xưa cũng như nay không chấp nhận việc anh em chỉ biết yêu thương nhau qua
đồng tiền, nhìn tình cảm anh em dưới lăng kính vật chất thuần tuý.
Như vậy, gia đình mới là một gia đình mà mỗi người đều có trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với danh phận của mình. Do đó, việc xây dựng gia đình mới cần dược
gắn liền với việc giáo dục trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người theo đúng danh
phận của họ. Đó là cha phải ra cha, con phải ra con, anh phải ra anh, em phải ra em.
Cần kiên quyết lên án những người cha không còn ra cha bởi lối sống ích kỷ, thực
dụng đã để lại tấm gương xấu cho con cháu, cũng cần lên án và có biện pháp nghiêm
khắc đối với những người con không còn ra con, chỉ biết tiền mà không biết tình, chỉ

biết tới quyền lợi mà không biết tới nghĩa vụ khiến cho cha mẹ phải tủi hổ.
Việc xây dựng thành công gia đình mới có một ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp xây dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Bởi gia đình
mới chính là nền tảng của sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế và
bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả nhất mọi tệ nạn xã hội đang làm
phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia đình mới còn là nơi có khả năng
nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc.
Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những công dân mới có đức, có tài cho sự nghiệp
xây dựng xã hội mới.
Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị trường
cùng với sự mở cửa hội nhập với thế giới thì gia đình mới càng đóng vai trò quan
trọng hơn bao giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em
HVTH: MAI THỊ CHÍN – Lớp Đêm 1 – Khóa 19

Trang 25


×