Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Ảnh hưởng của bột lá cây chè đại (trichanthera gigantea) đến năng suất, chất lượng thịt, chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu, hình thái lớp nhung mao ruột ở gà thịt nuôi tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 65 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN QUANG HUY

ẢNH HƯỞNG CỦA BỘT LÁ CÂY CHÈ ĐẠI
(TRICHANTHERA GIGANTEA) ĐẾN NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG THỊT, CHỈ TIÊU SINH LÝ, SINH HÓA MÁU,
HÌNH THÁI LỚP NHUNG MAO RUỘT Ở GÀ THỊT NUÔI
TẠI THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN QUANG HUY

ẢNH HƯỞNG CỦA BỘT LÁ CÂY CHÈ ĐẠI
(TRICHANTHERA GIGANTEA) ĐẾN NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG THỊT, CHỈ TIÊU SINH LÝ, SINH HÓA MÁU,
HÌNH THÁI LỚP NHUNG MAO RUỘT Ở GÀ THỊT NUÔI
TẠI THÁI NGUYÊN
Ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 8 42 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


Người hướng dẫn khoa học:

TS. Từ Quang Tân
PGS.TS. Từ Trung Kiên

THÁI NGUYÊN - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nguồn số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, chưa được sử dụng
để bảo vệ một học vị nào. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi
rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Huy

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết, tôi xin chân thành
cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Sinh học - Trường Đại học Sư phạm và
các thầy cô giáo trong Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm, Đại
học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề
tài. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên TS Từ Quang Tân và
PGS.TS Từ Trung Kiên đã tận tình hướng dẫn cho tôi hoàn thành luận văn.
Qua đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và
những người thân đã thường xuyên tạo mọi điều kiện về mọi mặt trong suốt

thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ tại Trại Gia cầm - Khoa Chăn nuôi
Thú y - Trường Đại học Nông Lâm đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2019
Học viên

Nguyễn Quang Huy

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. iv
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... v
DANH MỤC HÌNH............................................................................................ vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Đặt vấn đề ........................................................................................................ 1
2. Mục tiêu của đề tài........................................................................................... 2
3. Nội dung nghiên cứu ....................................................................................... 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 3
1.1.

Giới thiệu chung về cây Chè đại ............................................................... 3

1.2.


Sắc tố trong bột lá thực vật và tác dụng của sắc tố thực vật đối với vật nuôi...... 7

1.3.

Tính chất lý hoá học của máu .................................................................. 10

1.4.

Đặc điểm tiêu hóa và hấp thu ở gà .......................................................... 15

Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 19
2.1.

Vật liệu, địa điểm, thời gian nghiên cứu ................................................. 19

2.2.

Nội dung nghiên cứu ............................................................................... 19

2.3.

Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 20

2.3.1. Bố trí thí nghiệm...................................................................................... 20
2.3.2. Thức ăn thí nghiệm .................................................................................. 21
2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi các chỉ tiêu.................... 21
2.3.4. Phương pháp xử lý các số liệu................................................................. 25
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ...................................................... 26
3.1.


Ảnh hưởng của bột lá Chè đại trong khẩu phần đến năng suất, chất
lượng thịt của gà thí nghiệm .................................................................... 26

3.1.1. Ảnh hưởng của BLCĐ đến tỷ lệ nuôi sống của gà ở các lô thí nghiệm .. 26
3.1.2. Ảnh hưởng của BLCĐ đến sinh trưởng tích lũy của gà thí nghiệm ....... 27
iii


3.1.3. Ảnh hưởng của BLCĐ đến sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm ..... 30
3.1.4. Ảnh hưởng của BLCĐ đến sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm .... 33
3.1.5. Ảnh hưởng của BLCĐ đến tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm .............. 34
3.1.6. Ảnh hưởng của BLCĐ đến tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của
gà thí nghiệm .......................................................................................... 36
3.1.7. Ảnh hưởng của BLCĐ đến năng lượng trao đổi cho 1kg tăng khối
lượng của gà thí nghiệm ........................................................................... 39
3.1.8. Ảnh hưởng của BLCĐ đến tiêu tốn protein thô cho 1 kg tăng khối
lượng của gà thí nghiệm .......................................................................... 41
3.1.9. Chi phí thức ăn cho 1 kg tăng trọng của gà thí nghiệm .......................... 43
3.1.10. Ảnh hưởng của BLCĐ đến một số chỉ tiêu giết mổ của gà thí nghiệm...... 44
3.2.

Ảnh hưởng của bột lá Chè đại trong khẩu phần ăn đến các chỉ tiêu
sinh lý, sinh hóa máu của gà thí nghiệm ................................................. 48

3.2.1. Ảnh hưởng của BLCĐ đến các chỉ tiêu sinh lý máu của gà thí nghiệm ....... 48
3.2.2. Ảnh hưởng của BLCĐ đến các chỉ tiêu sinh hóa của gà thí nghiệm............. 48
3.3.

Ảnh hưởng của bột lá Chè đại đến hình thái nhung mao ruột non ......... 49


3.3.1. Ảnh hưởng của BLCĐ đến hình thái nhung mao đoạn tá tràng .............. 49
3.3.2. Ảnh hưởng của BLCĐ đến hình thái nhung mao đoạn hỗng tràng......... 50
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................. 52
1. Kết luận .......................................................................................................... 52
2. Đề nghị........................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 54

iv



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nội dung

BLCĐ

Bột lá Chè đại

ĐC

Đối chứng

KL

Khối lượng

KLTB


Khối lượng trung bình

KP

Khẩu phần

KPCS

Khẩu phần cơ sở

SS

Sơ sinh



Thức ăn

TCPTN

Tiêu chuẩn phòng Thí nghiệm

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TN

Thí nghiệm


VCK

Vật chất khô

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:

Sơ đồ bố trí thí nghiệm .................................................................. 20

Bảng 3.1:

Tỷ lệ nuôi sống của gà ở các giai đoạn ........................................ 26

Bảng 3.2:

Sinh trưởng tích lũy của gà ở các tuần tuổi .................................. 27

Bảng 3.3:

Tăng khối lượng trung bình của gà TN ở các giai đoạn .............. 30

Bảng 3.4:

Sinh trưởng tương đối của gà qua các giai đoạn tuổi ................... 33

Bảng 3.5:


Tiêu thụ thức ăn trung bình của gà ở các giai đoạn ..................... 35

Bảng 3.6:

Tiêu tốn thức ăn trung bình cho 1kg tăng khối lượng của gà ở
các giai đoạn ................................................................................. 37

Bảng 3.7:

Tiêu tốn năng lượng trao đổi trung bình cho 1kg tăng khối
lượng ở các giai đoạn ................................................................... 40

Bảng 3.8:

Tiêu tốn Protein trung bình cho 1kg tăng khối lượng ở các giai đoạn ......42

Bảng 3.9:

Chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng ..................................... 44

Bảng 3.10: Một số chỉ tiêu giết mổ của gà thí nghiệm (gà trống + mái)......... 45
Bảng 3.11: Thành phần hóa học của gà thí nghiệm......................................... 47
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của BLCĐ đến số lượng hồng cầu, bạch cầu và
hàm lượng huyết sắc tố của gà thí nghiệm .................................... 48
Bảng 3.13: Ảnh hưởng của BLCĐ đến hàm lượng protein tổng số và hàm
lượng albumin của máu ................................................................ 48
Bảng 3.14: Chiều cao trung bình nhung mao ruột đoạn tá tràng ở gà ............. 49
Bảng 3.15: Chiều cao trung bình nhung mao ruột đoạn hỗng tràng ở gà........ 50

v



DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1.

Đồ thị tăng khối lượng trung bình của gà thí nghiệm ................... 29

Hình 3.2.

Đồ thị sự sinh trưởng tuyệt đối của gà thí nghiệm ........................ 32

Hình 3.3.

Đồ thị sự sinh trưởng tương đối của gà thí nghiệm ...................... 34

Hình 3.4.

Đồ thị mức tiêu tốn thức ăn trung bình cho 1kg tăng khối lượng .... 39

Hình 3.5:

Cấu trúc thành ruột non đoạn tá tràng (H.E x 40) ......................... 49

Hình 3.6:

Cấu trúc thành ruột non đoạn hỗng tràng (H.E x 40) .................... 50

vi



MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Các sản phẩm từ gà (thịt gà, trứng gà) từ lâu đã là nguồn dinh dưỡng
quan trọng đối với con người. Thịt gà, trứng gà có giá trị dinh dưỡng cao, dễ
chế biến, có khả năng tiêu hóa và hấp thu cao ở người. Gà là đối tượng dễ nuôi,
với chi phí thấp (so với nhiều vật nuôi khác), phù hợp với tập quán chăn nuôi
của người dân. Chính vì vậy, chăn nuôi gà chiếm tỉ trọng lớn cho cơ cấu ngành
chăn nuôi của nước ta, đem lại nguồn lợi kinh tế lớn cho người chăn nuôi.
Trong chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gà nói riêng, thức ăn là yếu tố
đóng vai trò then chốt và chiếm đến 70% chi phí chăn nuôi, thức ăn làm tăng tỷ
lệ nuôi sống, khả năng sinh trưởng cũng như sức sản xuất của vật nuôi. Những
năm gần đây, việc chăn nuôi gà ở Việt Nam chủ yếu sử dụng nguồn thức ăn
hỗn hợp hoàn chỉnh, giúp nâng cao đáng kể khả năng tăng năng suất ở vật nuôi,
song cũng đặt vấn đề về chất lượng thịt và trứng.
Trong xã hội hiện đại, nhu cầu về thực phẩm của người dân đã có sự thay
đổi rất lớn, không còn là ăn đủ, ăn no mà người tiêu dùng hiện nay chú trọng
nhiều đến chất lượng của sản phẩm: ăn ngon, ăn sạch. Các sản phẩm chăn nuôi
phải đảm bảo không tồn dư các chất kích thích sinh trưởng, các chất kháng
sinh, các chất ảnh hưởng đến mùi vị của thịt và trứng... Chính điều này đã đặt
ra yêu cầu cho các nhà khoa học là phải làm sao tìm ra những loại thức ăn mới
vừa đảm bảo khả năng tăng năng suất vật nuôi, vừa đảm bảo chất lượng thịt và
trứng… Một trong những hướng nghiên cứu hiện nay là sử dụng các nguyên
liệu có nguồn gốc từ thực vật (dạng tươi, ủ hay dạng bột) trong chăn nuôi, tạo
ra những sản phẩm an toàn hơn cho con người. Theo hướng này, rất nhiều các
loài thực vật đã được nghiên cứu, sử dụng làm thức ăn bổ sung trong chăn nuôi
gà như: cây sắn, keo dậu, chè đại, mục túc... [1], [20].
Cây Chè đại (Trichanthera gigantea) có nguồn gốc từ khu vực Nam Mỹ,
được dùng làm thức ăn cho gia súc, được nhập về Việt Nam năm 1993 từ
Colombia. Đây là loài cây cho năng suất khá cao và thích nghi tốt với nhiều
vùng khí hậu khác nhau. Cây rất giàu protein, khoáng và vitamin. Hàm lượng

1


protein trong lá thay đổi từ 15 - 22%, hàm lượng calci đặc biệt cao so với các
loại cây thức ăn khác. Đồng thời, không có các chất alkaloid hay tanin, hàm
lượng saponin và steroid thấp. Đã có những nghiên cứu cho thấy sử dụng cây
chè đại làm thức ăn cho gia súc đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh
tế cao [12], [20].
Tuy nhiên, việc sử bột lá cây Chè đại trong chăn nuôi gà thịt có mang lại
hiệu quả kinh tế hay không vẫn đang là vấn đề đặt ra. Chính vì vậy, chúng tôi
tiến hành đề tài: “Ảnh hưởng của bột lá cây Chè đại (Trichanthera gigantea)
đến năng suất, chất lượng thịt, chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu, hình thái lớp
nhung mao ruột ở gà thịt nuôi tại Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần có bột lá cây Chè đại trong
chăn nuôi gà thịt nhằm:
- Xác định ảnh hưởng của BLCĐ trong khẩu phần ăn đến khả năng sản
xuất và chất lượng thịt của gà thịt.
- Xác định ảnh hưởng của BLCĐ đến các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu
của gà thịt.
- Xác định ảnh hưởng của BLCĐ đến hình thái lớp nhung mao ruột non
của gà thịt.
3. Nội dung nghiên cứu
- Xác định ảnh hưởng của khẩu phần chứa 2 – 4%, 4 – 6 % BLCĐ đến
khả năng sản xuất và chất lượng thịt của gà thịt:
+ Khả năng sinh trưởng (tỉ lệ nuôi sống, sinh trưởng tích lũy…).
+ Khả năng cho thịt và thành phần hóa học của thịt.
+ Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của gà thịt.
- Xác định ảnh hưởng của khẩu phần chứa 2 – 4%, 4 – 6 % BLCĐ đến
các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của gà thịt: số lượng hồng cầu, bạch cầu, hàm

lượng protein tổng số, hàm lượng huyết sắc tố.
- Xác định ảnh hưởng của khẩu phần chứa 2 – 4%, 4 – 6 % BLCĐ đến
hình thái lớp nhung mao ruột non đoạn tá tràng và hỗng tràng của gà thịt.

2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về cây Chè đại
* Tên gọi, nguồn gốc và phân loại thực vật
Chè đại (Trichanthera gigantea) hay còn được gọi là chè khổng lồ, trà lá
to, cỏ gigantea, là loài cây nhiệt đới được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, gia
cầm từ lâu đời do có thành phần dinh dưỡng cao.
Cây Chè đại thuộc họ Acanthaceae (họ Ô rô), họ phụ Ancanthoideae, bộ
Trichanthereae (chi thực vật có hoa), giống Hera; loài Trichanthera gigantea,
tên khoa học là Trichanthera gigantea.
Cây Chè đại có nguồn gốc từ vùng chân núi Andean của Colombia, được
tìm thấy ở nhiều nơi khác nhau của châu Mỹ, được trồng thành công ở Việt
Nam, Campuchia và Philippine. Đây là loài cây thích nghi với điều kiện khí hậu
nhiệt đới, mưa nhiều, phát triển tốt trên đất acid (pH 4,5), thoát nước tốt, thường
gặp ở dọc các con sông, con suối. Ở Việt Nam, cây Chè đại được nhập khẩu vào
năm 1993 từ Colombia với mục đích làm thức ăn cho gia súc 10], [20].
* Đặc điểm sinh thái
Cây Chè đại thích nghi được với nhiều điều kiện sinh thái khác nhau. Cây
có thể sống ở độ cao khoảng từ 0 đến 2000 m so với mặt nước biển. Cây thích
nghi tốt với khí hậu nhiệt đới ẩm và lượng mưa hàng năm từ 1.000 đến 2.800
mm (Acero, 4 1985, Murgueitio, 1989, Jaramillo and Corredor, 1989) [20]).
Cây Chè đại phát triển được trong điều kiện đất acid, kém màu mỡ nhưng thoát
nước tốt. Ở Việt Nam cây Chè đại cho thấy khả năng phát triển tốt ở nơi có khí

hậu nóng ẩm của miền Bắc hay ở Miền Trung với lượng mưa hàng năm 3.415
mm, nhiệt độ 21-29oC, ẩm độ 79-91% và thích hợp cả với Miền Nam với lượng
mưa hàng năm 1.600 - 1.700 mm, nhiệt độ trung bình 26-28oC và ẩm độ 7888% [1], [6], [10].

3


* Đặc điểm sinh vật
Chè đại là loại cây bụi hoặc có thể cao đến 5m. Cây có tán tròn, nhánh bậc
2, thân có nhiều mấu lồi nhỏ, phân bố tạo thành 2 - 4 đường bên ở hai phía dọc
theo thân. Khi còn non thân mềm nhiều nước, sau trồng khoảng 6 tháng, cây
sinh trưởng cứng cáp, thân màu nâu, hoá gỗ cứng phía ngoài, phía trong mềm
nhưng không hoá bấc. Lá Chè đại hình cánh quạt dài đến 26 cm và rộng 14 cm
thuôn nhọn về chót lá, bản hẹp, cuống lá dài 1-5 cm, có màu xanh sẫm, mọc đối
chéo chữ thập, lá đơn nguyên, giòn, có lông nhỏ mịn và hơi ráp, khi khô lá ngả
mầu đen.
Mỗi quả của cây Chè đại có 35 - 40 hạt, có 1.123 quả/kg và 4.050.000
hạt/kg (Acero, 1985). Tuy nhiên, hạt cây thường khó hoặc hiếm khi nảy mầm
nên tỷ lệ trồng bằng hạt chỉ đạt 0-2% (CIPAV, 1996) nên người ta thường chọn
cách nhân giống bằng hom. Theo Mc Dade (1983), nguyên nhân là do cây
không tự thụ phấn khi nhụy hoa không có hạt phấn. Cây Chè đại có khả năng ra
rễ từ gốc đến ngọn, ngay cả một mẩu lá nhỏ cũng có khả năng ra rễ, tuy nhiên
lá không có khả năng tạo thành cây mới. Rễ là một trong những bộ phận giúp
cây Chè đại có thể nhân giống, phần thân trưởng thành tại vị trí gần đất sẽ hình
thành rễ, các rễ này khi tiếp xúc với đất sẽ hình thành cây mới [10], [20], [21].
Bên cạnh rễ, người ta còn dùng hom để nhân giống cây Chè đại. Cây Chè
đại có khả năng nhân giông vô tính rất nhanh, trong 6 tháng từ một cây con có
thể cho ra ít nhất 100 cây mới. Tuy nhiên, khi sử dụng các đoạn hom có đường
kính 4 cm, dài 50 cm để nhân giống thì tỷ lệ nảy mầm có thể đạt 95%. Nhưng
khi sử dụng các đoạn hom có đường kính lớn hơn (3,2-3,8 cm) và chiều dài ngắn

hơn (20-30 cm) để nhân giống thì tỉ lệ mọc mầm có thể sẽ thấp hơn 50% [20].
Cây Chè đại có hoa nở theo chu kỳ nhưng cây chỉ ra hoa ở vùng miền
Nam Việt Nam còn vùng miền Bắc chưa thấy cây Chè đại ra hoa.
Chè đại là cây ưa ẩm, chịu bóng râm vừa, có tốc độ sinh trưởng đều trong
năm. Tuy nhiên gặp sương muối cây bị táp lá và sinh trưởng kém.

4


Cây Chè đại rất nhạy cảm với phân đạm; khi thiếu đạm lá ngả mầu vàng,
nhưng chỉ một lượng nhỏ phân đạm cũng làm lá xanh trở lại.
Cây được trồng chủ yếu bằng phương pháp giâm cành và cành giâm có thể
nẩy mầm tốt ở các mùa trong năm. Cây ưa ẩm vừa phải, nếu ở nơi thiếu nước thì
năng suất bị hạn chế vì cây có lá mỏng và to bản nên thoát nước rất mạnh.
Cây Chè đại ít bị sâu bệnh nhưng khi trồng với mật độ cao và đất quá ẩm
thì thường bị bệnh thối nhũn lá, hầu hết lá chuyển thành màu xám đen và nhũn
với tốc độ lây lan rất nhanh. Tuy nhiên, chữa trị hết sức đơn giản, chỉ cần cắt
bỏ những cây bị sâu bệnh, sau đó thu hoạch toàn bộ, làm sạch cỏ, bón bổ sung
phân lân và vôi.
* Giá trị sử dụng trong chăn nuôi
Chè đại là loại cây trồng mới sử dụng làm thức ăn cho gia súc, được nhập
vào Việt Nam năm 1993 từ nước Colombia, đây là loại cây thân bụi, lá to, năng
suất khá cao, giàu protein, khoáng và vitamin. Hiện nay, cây Chè đại được
trồng nhiều ở miền Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc nước ta để
làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thỏ và cá. Kết quả cho thấy sử dụng loại cây
này đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt trong chăn nuôi.
Cây Chè đại có hàm lượng nước trong lá cao, từ 80-85% khi lá ở độ tuổi
30-45 ngày, vì vậy lá mềm mại nhưng lại khó phơi khô; tỷ lệ protein thô trong
VCK của lá dao động từ 18-26% tùy thuộc vào tuổi của lá; trong protein hầu
hết là protit, nitơ phi protit rất ít; tỷ lệ lipit thấp, khoảng 2-3% VCK; tỷ lệ xơ

thô thấp, khoảng 10-18% VCK tùy theo tuổi của lá; tỷ lệ khoáng rất cao (2025% VCK), hàm lượng calci cao hơn rất nhiều so với các loại cây thức ăn khác,
do đó có thể sử dụng bột lá Chè đại như một nguồn cung cấp can xi cho vật
nuôi. Tỷ lệ protein và khoáng trong VCK của lá cao đã làm cho tỷ lệ dẫn xuất
không chứa nitơ thấp hơn so với một số loại lá khác, nó dao động từ 30-40%
VCK. Tỷ lệ lipit và dẫn xuất không chứa nitơ trong VCK đều thấp dẫn đến
năng lượng của bột lá thấp. Đây là điều cần lưu ý khi phối hợp bột lá vào khẩu

5


phần ăn của vật nuôi; bổ sung thêm dầu, mỡ để bù đắp năng lượng thiếu hụt là
yêu cầu bắt buộc khi bổ sung bột lá vào khẩu phần ăn của gia cầm. Trong thí
nghiệm kiểm tra các chất kháng dinh dưỡng đã chứng minh rằng, trong cây Chè
đại không có alkaloid hay tanin, hàm lượng saponin và steroid thấp. Hàm lượng
phenol tổng số và steroid là 450 và 6,2 ppm. Bằng phương pháp tiêu hóa dạ cỏ
để xác định tỷ lệ tiêu hoá đối với lá cây Chè đại thấy rằng tỷ lệ phân giải chất
khô là 77% [20].
Cây Chè đại có thể thu hoạch lứa đầu vào lúc 4-6 tháng sau khi trồng,
năng suất đạt 15,64 đến 16,74 tấn/ha (thân lá tươi) với mật độ trồng 40.000
cây/ha (với khoảng cách 0,5m x 0,5m). Sản lượng sinh khối (lá tươi và thân)
đạt trên 50 tấn/ha/năm; khi trồng với mật độ 17.690 cây/ha (khoảng cách 0,75m
x 0,75m) và khoảng cách cắt 1,5 - 3 tháng một lần, năng suất bình quân đạt 17
tấn/ha/lứa ở năm thứ 2 trở đi. Sản lượng sinh khối (lá tươi và thân) đạt trên
dưới 100 tấn/ha/năm. Cây Chè đại có khả năng tái sinh mạnh mẽ, ngay cả trong
điều kiện thu hoạch nhiều lần mà không cung cấp phân bón. Điều này cho thấy
quá trình tổng hợp nitơ có thể xảy ra ở phần rễ thông qua hoạt động của
Mycorrhiza hay những vi sinh vật khác [20], [21].
Cây Chè đại chịu được cắt liên tục nhiều lần trong năm vì hình thành
nhánh non rất tốt. Tuy nhiên, tốc độ tái sinh chậm nên trong năm đầu có thể thu
được khoảng 4 lứa, các năm sau khoảng 5-6 lứa/năm.

Cắt ngang phần thân lá mà gia súc có thể ăn được. Sau khi thu cắt nên để
héo rồi mới cho gia súc ăn hoặc có thể ủ chua với cám hoặc bột sắn/bã sắn...
theo tỷ lệ 3 - 5% cám (tính theo khối lượng lá tươi). Nhiều đối tượng vật nuôi
có thể sử dụng thân lá cây thức ăn này, như bò, dê, lợn, gà, cá...
Lá Chè đại giàu protein và sắc tố do đó ngoài cho vật nuôi ăn tươi còn có
thể chế biến thành bột lá bổ sung vào thức ăn của gia cầm. Mặc dù năng suất
Chè đại không cao nhưng phân bố sinh khối đều trong năm, đặc biệt có tỷ lệ lá
cao vào lúc giáp vụ nên Chè đại là cây thức ăn xanh tốt trong vụ đông - xuân.

6


Có thể sử dụng lá Chè đại như là thuốc chữa bệnh táo bón cho gia súc mà
không gây độc hại.
1.2. Sắc tố trong bột lá thực vật và tác dụng của sắc tố thực vật đối với vật nuôi
* Sắc tố trong thực vật
Các sắc tố đóng vai trò quan trọng trong đời sống thực vật và các vi sinh
vật quang hợp khác. Chúng là yếu tố hấp thu năng lượng ánh sáng mặt trời
trong quá trình quang hợp và tham gia vào nhiều quá trình sống trong cây.
Sắc tố thực vật được chia thành các nhóm sau: Chlorophyll, carotenoids
(caroten và xanthophyll); flavonoid (chalcone, anthocyanin, flavone, flavonol)
và betalain (betaxanthin, betacyanin). Đã có khoảng 750 loại caroteinoids,
7.000 loại flavonoid và hơn 500 loại anthocyanin được phát hiện ra (Davies,
2004). Trong các nhóm sắc tố trên, chlorophyll và carotenoids là những chất
quan trọng cho chức năng quang hợp. Theo Dzugan (2006) thì chlorophyll ở
thực vật được chia thành 2 loại là chlorophyl a (màu xanh nhạt) và chlorophyl
b (màu vàng xanh). Carotenoids có nhiều ở sắc lạp và lục lạp ở màng tế bào
thực vật. Tuy nhiên, chỉ một vài loại carotenoids là tiền vitamin A, còn những
chất khác không có hoạt tính như vitamin A. Người ta đã chứng minh rằng
carotenoids có khả năng chống oxy hóa rất [6], [9].

Carotenoids được chia thành 2 nhóm: caroten màu đỏ da cam và
xanthophyll vàng da cam.
Caroten (C40H56) là một loại cacbua hydro chưa bão hòa, chỉ tan trong
dung môi hữu cơ. Trong thực vật thường có 4 loại tiền vitamin A là: β, α, δ
caroten và kriptoxantin. Nếu cắt đôi phân tử β-caroten ta có 2 phân tử vitamin
A, nên β-caroten được xem là tiền vitamin A. Hàm lượng β-caroten trong cỏ
tươi tự nhiên: 150 - 250 mg/kg VCK, cây ngô già: 15 - 60 mg/kg VCK, của cà
rốt: 150 - 200 mg/kg VCK, rơm rạ: 4 mg/kg VCK [6].
Xanthophyll có công thức hóa học là C40H56On (n từ 1 - 6). Vì số lượng
nguyên tử oxy có thể từ 1 đến 6 nên có nhiều loại xanthophyll: Kriptoxantin
(C40H56O1), lutein (C40H56O2), violacxantin (C40H56O4),... [6], [14].

7


Flavonoid bao gồm anthocyanin, chalcone, aurone, flavone và flavonol.
Flavonoid là chất hóa học hoạt động với nhiều chức năng: như tạo màu cho cánh
hoa, quả, chống tia UV, chống oxy hóa, kháng khuẩn và sự hoạt động của virus.
Trong các sắc tố thuộc nhóm flavonoid thì anthocyanin là phổ biến nhất và tạo ra
các màu đỏ tươi, đỏ, xanh và màu tím cho hoa, quả và thân cây [9], [11].
Betalain là các chất thay thế anthocyanin ở các loài caryophyllale. Chúng
cũng có thể tìm thấy ở một số loại nấm. Betalain có nguồn gốc từ tyrosine.
Chúng được chia thành 2 nhóm là betaxanthin có màu vàng và betacyanin có
màu đỏ, màu tím.
* Tác dụng của sắc tố đối với vật nuôi
Sắc tố dùng để phối hợp vào thức ăn vật nuôi hầu hết thuộc nhóm
carotenoids. Carotenoids có một vai trò rất lớn đối với gia cầm, nó không chỉ
tăng độ đậm màu của sản phẩm mà nó còn làm cho gia cầm khỏe mạnh và mau
lớn. Đối với gia cầm sinh sản còn làm tăng sản lượng trứng, tỷ lệ ấp nở, tỷ lệ
nuôi sống,... Tuy nhiên, động vật hoàn toàn không có khả năng tự tổng hợp

carotenoids nên bắt buộc phải được cung cấp từ thức ăn. Với khẩu phần ăn
thông thường thì nguồn carotenoids sử dụng để tạo màu da và lòng đỏ trứng là
xanthophyll hay oxycarotenoids của ngô, gluten ngô và bột lá thực vật [9], 11].
Màu sắc tự nhiên của lòng đỏ chính là màu sắc của xanthophyll. Ở gà đẻ
xanthophyll tích trữ ở cơ, da sẽ được huy động mạnh mẽ vào buồng trứng khi
thành thục và một phần được chuyển vào lòng đỏ. Gà đẻ có thể huy động 20 60% sắc tố từ thức ăn vào lòng đỏ [9].
Đối với gà thịt, người tiêu dùng thường quan tâm đến màu da của gia
cầm, đó là da phải có màu vàng tươi. Sắc tố apocarotenoic acid ethyl ester là
một carophyll có màu vàng khi phối hợp vào có tác dụng làm tăng màu sắc da
gà. Khi các carotenoids tích lũy đầy đủ thì hương vị của thịt gà tăng, do đó làm
tăng chất lượng của thịt gà, cải thiện độ vàng da ngực và thành phần axit béo
của thịt.

8


Trong chăn nuôi gà công nghiệp, gà bị nuôi nhốt, thức ăn hỗn hợp không
đủ lượng sắc tố nên đã giảm màu sắc da, thịt, làm mất đi hương vị thơm ngon
của thịt gà [9]. Màu tốt nhất sử dụng cho gà thịt là màu vàng, vì thế sắc tố được
sử dụng là lutein (màu vàng) và zeaxanthin (màu cam), xanthophyll. Bình
thường da gà có màu vàng là do trong khẩu phần ăn có ngô, trong ngô có lutein
và zeaxanthin.
Để thịt gà có màu đỏ người ta sử dụng sắc tố như canthaxanthin hoặc
citranaxanthin. Để màu sắc thịt gà đỏ đậm, cần có các thành phần nguyên liệu
và tỷ lệ giữa các màu như sau: 3 mg màu vàng (lutein) - 1,5 mg màu cam
(zeaxanthin) - và 1 mg màu đỏ (canthaxanthin). Trong thực tế, thức ăn của gà
có từ 2 - 6 mg canthaxanthin/kg thức ăn.
Các kết quả nghiên cứu đều khẳng định tăng hàm lượng carotenoids
trong khẩu phần bằng cách phối trộn bột lá thực vật vào khẩu phần có tác động
tốt đến sinh trưởng, phát triển của gà thịt và làm tăng năng suất, chất lượng

trứng của gà đẻ. Sử dụng khẩu phần có chứa bột lá Keo giậu đã làm tăng tỷ lệ
đẻ và tỷ lệ ấp nở của trứng thêm 4,87 và 6,85%, đồng thời làm giảm tiêu tốn
thức ăn cho sản xuất trứng và trứng giống lần lượt là: 6,47 và 7,00%. Từ Quang
Hiển và cs (2008) [7] cũng cho biết bổ sung bột lá Keo giậu vào khẩu phần của
gà thịt có tác dụng cải thiện sinh trưởng của gà thêm 8,72%, giảm tiêu tốn thức
ăn cho 1 kg tăng khối lượng là 5,86% và giảm chi phí thức ăn/kg tăng khối
lượng đến 7,10%. Tác giả Trần Thị Hoan (2012) [9] cũng kết luận khẩu phần
bột lá sắn đã làm tăng từ 2,0 - 6,2% khối lượng của gà thịt lúc 10 tuần tuổi,
tăng tỷ lệ đẻ, tỷ lệ trứng có phôi, tỷ lệ gà loại I của gà đẻ lần lượt là 3,79 4,60%; 2,78 - 4,18% và 0,8 - 3,54%.
Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng khẩu phần thức ăn cho thủy sản có
chứa sắc tố astaxanthin đã làm tăng lượng thức ăn ăn vào của cá, tăng mầu sắc
hồng tươi của thịt cá và tăng tỷ lệ nuôi sống của cá. Khi tăng astaxanthin từ 0
đến 1,0 ppm, số lượng cá sống sót tăng từ 17,00% lên 70,00%, nếu tiếp tục tăng

9


lên thì tỷ lệ này lên đến 87,00%, và khi sử dụng mức tối đa là 13,7 ppm, tỷ lệ
sống tăng lên trên 98,00%. Khi phối hợp carotenoids vào khẩu phần ăn của cá
tầm thì khả năng chuyển hóa thức ăn tăng hơn 30% so với khẩu phần ăn không
có carotenoids, còn sắc tố astaxanthin làm tăng khả năng sinh sản của lợn như:
số con/lứa, tỷ lệ nuôi sống [1], [3], [14], [21].
1.3. Tính chất lý hoá học của máu
* Thành phần máu
Thành phần máu phụ thuộc vào trạng thái sinh lý của cơ thể, tuổi, giới
tính, điều kiện nuôi dưỡng và các yếu tố khác. Trong máu gà con có 14,4% chất
khô, của gà trưởng thành có 15,6 - 19,7%.
* Tỷ trọng của máu
Tỷ trọng của máu gà và ngỗng là 1,050, của máu vịt là 1,056. Tỷ trọng
máu có thể tăng lên khi máu bị đặc lại và giảm đi khi bị thiếu máu.

* Độ nhớt của máu
Độ nhớt của máu gà trung bình bằng 5 (4,7 - 5,5), nó phụ thuộc vào số
lượng hồng cầu, nồng độ protein và muối. Tăng độ nhớt thường gặp khi cơ thể
bị mất nước, ví dụ khi bị ỉa chảy hoặc khi tăng số lượng hồng cầu. Khi tăng độ
nhớt của máu, huyết áp tăng và giảm sự khuyếch tán nước từ mao quản ra các
mô. Áp suất thẩm thấu của máu phụ thuộc vào nồng độ các muối tan trong đó,
trước hết là muối natri clorua [8].
* Áp suất thẩm thấu
Trong máu và dịch mô, áp suất thẩm thấu tạo thành chủ yếu do NaCl, dung
dịch 0,9% NaCl, tương ứng với áp suất thẩm thấu máu của động vật có vú được
tính là dung dịch sinh lý. Áp suất thẩm thấu gà bằng dung dịch 0,93% NaCl.
* pH
Độ pH: đối với động vật máu nóng, pH máu thường nằm trong khoảng
7,0 - 7,8%; đối với gà là 7,42 - 7,56.
Theo mức kiềm dự trữ trong máu có thể đoán được sức đề kháng của cơ
thể, cường độ của các quá trình sinh lý. Sự dao động lượng kiềm dự trữ trong

10


máu phụ thuộc vào sự thay đổi trạng thái sinh lý của cơ thể. Vào các tháng mùa
hè, độ kiềm dự trữ của gà đẻ là 300 - 550 mg%.
* Protein
Tổng lượng protein trong huyết tương gà Leghorn trắng là 4,09 - 4,64%;
ở gà con một ngày tuổi cũng giống này là 3,5 - 4,0%; ở gà tây - 3,95%; ở bồ
câu - 2,3%. Lượng protein trong huyết thanh gà tăng lên theo quá trình sinh
trưởng, cao nhất ở thời gian đầu của giai đoạn đẻ trứng.
Tỷ lệ albumin và globulin, đối với gà giống Leghorn phụ thuộc vào lứa
tuổi và khả năng sản xuất trứng. Ở gà 1 ngày tuổi, lượng albumin là 1,60 1,82%, globulin là 1,87 - 2,15%; ở gà chưa đẻ tương ứng là 1,48% và 1,83%; ở
gà đẻ là 2,15 và 2,48% [5], [14].

Tỷ số albumin/globulin (hệ số protein) phụ thuộc vào lứa tuổi và sức sản
xuất của gia cầm. Hệ số protein của gà chưa đẻ bằng 0,96; của gà đẻ là 0,52.
Đối với gà con, lượng albumin giảm đi, còn globulin tăng lên.
Ngoài protein ra, trong huyết tương còn có các hợp chất nitơ phi protein;
urê, axit uric, amoniac, creatin, creatinin, chúng được gọi chung là nitơ cặn, có
nồng độ tương đối lớn trong máu gia cầm (44 mg%). Trong máu gia cầm còn
có các chất hữu cơ khác: đường, mỡ, và sản phẩm trung gian của quá trình
phân giải các chất này.
* Đường
Bột đường gồm glycogen và glucose. Nồng độ glucose ở gia cầm cao
hơn ở động vật có vú tới 1,5 - 2 lần. Ở gia cầm 30 ngày tuổi, khối lượng
glucose trong máu là 130 - 160 mg%; 70 ngày tuổi: 150 - 300 mg%; 150 ngày:
165 - 175 mg%; hàm lượng glucose trong máu gà giảm dần theo tuổi. Ở gà,
hàm lượng glucose là 130 - 260 mg%; ở ngỗng và vịt là 150 - 180, ở gà tây là
170 - 210 mg%. Hàm lượng glycogen và axit adenozintriphotphoric (ATP)
trong máu gà con tăng lên theo quá trình phát triển. Ở gà con một ngày tuổi,
nồng độ của ATP là 2,4 - 4,9 mg%, glycogen 24 - 27mg%; ở 150 ngày tuổi
tương ứng là 7,8 - 9,4 và 45 - 52 mg% [14].

11


* Lipid
Các loại lipid trong máu tồn tại dưới dạng mỡ trung tính, axit béo,
photphatide, cholexterin và các este của cholexterin. Khối lượng mỡ trung tính
trong huyết tương gia cầm không quá 0,1 - 0,15%. Ở gà đẻ, hàm lượng lipid
lớn hơn ở gà chưa đẻ và gà trống, hàm lượng lipid tăng sau khi rụng trứng. Các
hocmon hướng tuyến sinh dục có tác dụng làm tăng lipid trong máu [22].
* Calci
Lượng calci trong máu của gà đẻ lớn hơn so với gia súc. Phần lớn calci

trong máu nằm ở huyết thanh (10 - 12 mg%), phần nhỏ trong hồng cầu. Trong
huyết thanh, calci có 2 dạng: bị khuếch tán (60 - 65%) và không bị khuyếch tán
(34 - 40%). Sự phân biệt này liên quan đến khả năng của calci đi qua màng siêu
lọc (các màng tế bào).
Phần lớn calci bị khuếch tán nằm dưới dạng ion (Ca++) và phần nhỏ
(15%) liên kết với các bicacbonat, citrat và photphat.
Calci không bị khuếch tán liên kết với protein huyết thanh - albumin và
globulin. Calci có thể được giải phóng khỏi các liên kết này dưới dạng ion.
Lượng calci không bị khuếch tán trong huyết tương có thể thay đổi phụ thuộc
vào hàm lượng protein trong đó, chủ yếu là albumin.
Hàm lượng ion calci trong huyết tương và dịch mô tương đối ổn định,
phụ thuộc vào lứa tuổi và sức sản xuất của gia cầm, vào lượng calci trong khẩu
phần thức ăn. Ở gà chưa đẻ, trong máu có 9 - 12 mg% calci. Trong huyết tương
gà đẻ có trung bình 20 - 26 mg% calci. Trong thời gian trứng rụng, khi có tác
động của hocmon tuyến yên và buồng trứng, lượng calci có thể tăng lên tới
35mg%. Sau khi đẻ trứng, lượng calci trong máu giảm xuống 12 - 15mg%.
Trong máu gà mái hậu bị, hàm lượng calci không quá 12mg%, nhưng sẽ
tăng dần cho tới khi bắt đầu đẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tăng hàm
lượng calci trong máu gà trước và trong giai đoạn đẻ là do tăng calci không bị
khuếch tán.

12


Ở gia cầm non, hàm lượng calci trong máu thay đổi không lớn. Trong huyết
thanh vịt 5 - 15 ngày tuổi, lượng calci không quá 11 mg%, sau đó giảm xuống đến
9,6 mg% và thay đổi không đáng kể ở các giai đoạn sau. Khi trong khẩu phần thức
ăn thiếu calci, hàm lượng calci trong máu gà con giảm xuống nhanh [14], [22].
* Photpho
Photpho trong máu gia cầm thường ở dạng các hợp chất hữu cơ và vô cơ.

Tỷ lệ giữa hai dạng này là 8:1 - 10:1.
Photpho vô cơ hầu hết nằm trong huyết tương và phần lớn ở dạng ion.
Hàm lượng photpho vô cơ trong huyết thanh gia cầm thay đổi tương đối lớn,
phụ thuộc vào cường độ trao đổi chất và photpho trong thức ăn. Người ta nhận
thấy có sự giảm dần nồng độ photpho trước thời kỳ sinh sản.
Photpho hữu cơ gồm photpholipid, photpho tan trong axit và photpho
nucleotit. Ngoài ra, còn có photpho của axit phitin trong hồng cầu có nhân và
photpho của ATP.
Ở gà con 5 - 90 ngày tuổi, lượng photpho tổng số trong huyết tương là 11,03
- 18,80 mg% (photpho vô cơ 7 - 8 mg%), ở gà, vịt, gà tây, ngỗng 75 - 80 mg%.
Gần đến thời kỳ thay lông, hàm lượng photpho giảm xuống nhanh. Trước
và trong thời gian đẻ trứng, lượng photpho tổng số trong máu tăng lên.
Cần thận trọng khi dùng các chỉ số nồng độ Ca, P trong máu để đánh giá
tình trạng dinh dưỡng các nguyên tố này của gia cầm vì chúng phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố và có biên độ dao động rất lớn.
* Natri
Trong máu gia cầm có natri clorua, phân ly ra thành cation Na+ và anion
Cl-. Cation K+ có một lượng nhỏ trong huyết tương. Nồng độ các ion này trong
huyết tương gia cầm cũng tương tự như ở động vật có vú. Ion natri và clo trong
huyết tương nhiều hơn, còn ion kali trong hồng cầu nhiều hơn.
* Bicacbonat
Như trên đã nói, các bicacbonat và photphat của natri và kali tham gia
vào thành phần các hệ thống đệm của máu, giữ cân bằng axit - kiềm. Việc thải

13


các chất thừa, chủ yếu là NaCl, là do thận, song ở gia cầm cường độ thải ion
Na+ qua thận kém hơn so với động vật có vú. Vì vậy, khi lượng muối này quá
nhiều, nồng độ natri trong máu tăng lên, dẫn tới rối loạn hô hấp, hạ huyết áp và

co giật... gia cầm bị ngộ độc muối thường chết trong vòng vài phút. Vì vậy, cần
hết sức chú ý đến nồng độ NaCl trong thức ăn cho gà, nhất là trong bột cá.
* Các thành phần hữu hình của máu
Số lượng hồng cầu trong 1mm3 máu của gà và vịt trung bình là 3,5; của
ngỗng - 3,3; của gà tây - 2,7 triệu. Ở gà con, số lượng hồng cầu thay đổi theo
tuổi: 3 giờ sau khi nở ra là 2,8 triệu; đến 3 ngày tuổi - 2,23; 32 ngày tuổi - 2,28;
82 ngày tuổi - 2,79 triệu và đến 3 - 4 tháng tuổi số lượng hồng cầu đạt gần tới
mức của gia cầm trưởng thành. Hồng cầu ở cá thể đực nhiều hơn ở cá thể cái [8].
Số lượng hồng cầu thay đổi phụ thuộc vào mùa. Vào mùa xuân - hè, số
lượng hồng cầu tăng hơn so với thu - đông. Số lượng hồng cầu trong máu tăng
giảm phụ thuộc vào chế độ nuôi và sức sản xuất. Trong khẩu phần, thức ăn có
nguồn gốc động vật làm cho số lượng hồng cầu tăng lên. Khi hấp thu nhiều
nước, máu loãng ra làm giảm số lượng hồng cầu và ngược lại khi thiếu nước,
máu đặc lại làm tăng số lượng hồng cầu. Nguyên nhân giảm hồng cầu và huyết
sắc tố lâu dài (trong trường hợp thiếu máu) có thể là do trong thức ăn thiếu sắt
và đồng. Thiếu máu có thể do mất nhiều máu hoặc do hồng cầu bị phá huỷ vì bị
nhiễm độc, chức năng tạo máu yếu... [4], [14].
Ở gà trưởng thành, hàm lượng huyết sắc tố là 12,5 - 16,6 g%, ở gà con
đến 10 ngày tuổi - 6,7 g%; đến 21 ngày tuổi 9,1 - 9,3 g%; đến 42 ngày tuổi 9,6
- 9,7 g%; đến 84 ngày tuổi 9,7 - 10,1 g%; ở vịt 13,4 - 16,7 g%; ở ngỗng 15,0 16,6 g%; ở gà tây 13,3 - 16,6 g% [8] [14].
Số lượng bạch cầu trong máu ít hơn rất nhiều so với hồng cầu (15 35.000/mm3).
Tiểu cầu trong máu gia cầm ít hơn hẳn so với gia súc.

14


1.4. Đặc điểm tiêu hóa và hấp thu ở gà
* Đặc điểm cấu tạo
Gà, hay gia cầm nói chung, có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao
hơn so với động vật có vú. Ống tiêu hóa của gà bao gồm các cấu trúc:

Khoang miệng: kéo dài thành mỏ, phủ chất sừng, không có răng chính
thức. Trên vành mỏ có các răng sừng nhỏ giúp gà giữ thức ăn hay lọc nước khi
uống. Trên lưỡi có các gai sừng nhỏ hướng về phía cổ họng có tác dụng giữ khối
thức ăn và đẩy chúng về phía thực quản. Trong khoang miệng có các tuyến tiết
chất nhầy, tiết nước bọt có tác dụng làm trơn ướt thức ăn, song, nhìn chung là
kém phát triển ở gà. Viên thức ăn được nuốt vào thực quản [8], [14], [22].
Thực quản và diều: thành thực quản có các tuyến tiết chất nhầy hình ống
làm trơn thức ăn, nhờ các cử động nhu động của thực quản mà thức ăn được
đưa vào diều (hoặc thẳng dạ dày khi gà đói). Diều là phần phình của thực quản,
hình túi, làm nhiệm vụ trữ thức ăn và làm mềm, quấy trộn, tiêu hóa một phần
nhờ các men và vi khuẩn trong thức ăn thực vật. Lỗ vào và lỗ ra của diều nằm
gần nhau và có các cơ thắt, giữa các cơ thắt có ống diều, khi đói, thức ăn qua
ống diều vào thẳng dạ dày. Thí nghiệm cắt diều làm cho thức ăn đi qua ống tiêu
hóa nhanh hơn nhưng sự tiêu hóa lại giảm đi, ảnh hưởng tới sự sinh trưởng,
phát triển của gà, gà sút cân, đẻ ít. Sau một thời gian, gà hình thành một diều
mới để thay thế [22].
Dạ dày: gồm dạ dày tuyến và dạ dày cơ (mề). Dạ dày tuyến nằm trước,
phủ màng nhày, trong màng nhày có nhiều tuyến tiêu hóa hình ống tiết dịch
tiêu hóa. Dịch dạ dày chứa acid clohidric, enzim và musin. Cũng như ở động
vật có vú, pepsin được tiết ra ở dạng không hoạt động - pepsinogen và được
hoạt hoá bởi axit clohidric. Sự tiết dịch dạ dày ở gia cầm là liên tục, sau khi ăn
thì tốc độ tiết tăng lên. Thức ăn nhiều rau xanh thường làm tăng lượng chế tiết
và sức tiêu hóa của dịch dạ dày. Dạ dày cơ không tiết dịch tiêu hóa mà nó
nghiền nát thức ăn nhờ cơ học, trộn đều thức ăn với các enzyme của dịch dạ

15


×