Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Ảnh hưởng của mức bón đạm và khoảng cách cắt đến năng suất, chất lượng của cây thức ăn Trichanthera gigantea trong năm thứ hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––––

NGUYỄN MINH PHƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC BÓN ĐẠM VÀ KHOẢNG
CÁCH CẮT ĐẾN NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG CỦA
CÂY THỨC ĂN TRICHANTHERA GIGANTEA TRONG
NĂM THỨ HAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN MINH PHƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC BÓN ĐẠM VÀ KHOẢNG
CÁCH CẮT ĐẾN NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG CỦA
CÂY THỨC ĂN TRICHANTHERA GIGANTEA
TRONG NĂM THỨ HAI
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số ngành: 8.62.01.05



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TỪ TRUNG KIÊN

THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác và chưa từng sử dụng
để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đã
được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả

Nguyễn Minh Phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





ii

LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp, cho phép
tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Từ Trung Kiên với cương vị
người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn tới sinh viên K46, K47
Chăn nuôi Thú y đã cộng tác với tôi trong thời gian bố trí thí nghiệm và theo
dõi thí nghiệm. Tôi xin cảm ơn tới các thầy cô trong trại Chăn nuôi trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Viện Khoa học Sự sống, Khoa Chăn nuôi
Thú y, bộ phân quản lý đào tạo Sau Đại học thuộc phòng Đào tạo - Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên để tôi hoàn thành luận văn của mình.
Thái Nguyên, ngày tháng 10 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Minh Phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................... vi
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................... vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề...................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................... 2
3. Ý nghĩa của đề tài .......................................................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3
1.1. Giới thiệu về cây T. gigantea ..................................................................... 3
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của cây thức ăn.......... 7
1.2.1. Ảnh hưởng của phân bón ........................................................................ 7
1.2.2. Ảnh hưởng của khoảng cách cắt ........................................................... 12
1.3. Giá trị dinh dưỡng của chè đại ................................................................. 14
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về cây T. gigantea ............... 15
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................ 15
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 16
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 19
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu .......................................... 19
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 19
2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 19
2.3.1. Xác định điều kiện thí nghiệm .............................................................. 19
2.3.2. Thí nghiệm 1: Xác định mức bón đạm hợp lí cho cây Trichanthera
gigantea trong năm thứ hai ............................................................................. 19
2.3.3. Thí nghiệm 2: Xác định khoảng cách cắt thích hợp cho cây
Trichanthera gigantea trong năm thứ hai ....................................................... 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





iv

2.3.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu ........................................................ 21
2.4. Phương pháp xử lý số liệu........................................................................ 22
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 23
3.1. Điều kiện thí nghiệm ................................................................................ 23
3.1.1. Khí tượng khu vực thí nghiệm từ tháng 3 năm 2018 đến tháng 2
năm 2019 ......................................................................................................... 23
3.1.2. Thành phần hóa học đất thí nghiệm ...................................................... 25
3.2. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến năng suất và
chất lượng của lá Trichanthera gigantea trong năm thứ hai .......................... 25
3.2.1. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến năng suất sinh khối.................. 26
3.2.2. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến năng suất lá tươi ...................... 28
3.2.3. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến năng suất vật chất khô của lá .. 30
3.2.4. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến thành phần hóa học ................. 32
3.2.5. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến sản lượng của T. gigantea ....... 34
3.2.6. Hiệu lực sản xuất của các mức bón đạm khác nhau ............................. 36
3.2.7. Chi phí sản xuất bột lá ........................................................................... 37
3.3. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất và chất
lượng của lá Trichanthera gigantea trong năm thứ hai .................................. 39
3.3.1. Ảnh hưởng của khoảng cách cắt tới năng suất sinh khối ...................... 39
3.3.2. Ảnh hưởng của KCC đến năng suất lá tươi .......................................... 41
3.3.3. Ảnh hưởng của KCC đến năng suất chất khô ....................................... 43
3.3.4. Ảnh hưởng của KCC đến thành phần hóa học của T. gigantea............ 46
3.3.5. Ảnh hưởng của KCC đến sản lượng của T. gigantea ........................... 48
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 52
1. Kết luận ....................................................................................................... 52
2. Đề nghị ........................................................................................................ 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 53


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ahs:

Khoáng tổng số

ADF:

Xơ axit

CF:

Xơ thô

CP:

Protein thô

CS

Cộng sự


DXKN:

Dẫn xuất không chứa Nitơ

DM:

Vật chất khô

EE:

Lipit thô

GE:

Năng lượng thô

K:

Kali

KCC:

Khoảng cách cắt

KPCS:

Khẩu phần cơ sở

ME:


Năng lượng trao đổi

N:

Nitơ

NDF:

Xơ trung tính

NFE:

Dẫn xuất không chứa nito

NT :

Nghiệm thức

P:

Phốt pho

TCVN:

Tiêu chuẩn Việt Nam

VCK:

Vật chất khô


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bố trí thí nghiệm 1 ............................................................................ 20
Bảng 2.2. Bố trí thí nghiệm 2 ............................................................................ 21
Bảng 3.1. Giá trị trung bình về khí tượng Thái Nguyên từ tháng 3 năm
2018 đến tháng 2 năm 2019 .......................................................... 23
Bảng 3.2. Thành phần dinh dưỡng đất thí nghiệm ........................................ 25
Bảng 3.3. Năng suất sinh khối của T.gigantea ở các mức bón đạm khác nhau .... 26
Bảng 3.4. Năng suất lá tươi của T.gigantea ở các mức bón đạm khác nhau ...... 28
Bảng 3.5. Năng suất VCK của T.gigantea ở các mức bón đạm khác nhau . 30
Bảng 3.6. Thành phần hóa học lá T. gigantea ở các mức bón phân đạm
khác nhau ...................................................................................... 32
Bảng 3.7. Sản lượng của T.gigantea ở các mức bón đạm khác nhau ........... 34
Bảng 3.8. Hiệu lực sản xuất của các mức bón đạm khác nhau ở năm thứ 2 ...... 37
Bảng 3.9. Chi phí sản xuất bột lá của các mức bón đạm khác nhau ở năm
thứ 2 .................................................................................................. 38
Bảng 3.10. Năng suất sinh khối T.gigantea ở các khoảng cách cắt khác nhau ... 39
Bảng 3.11. Năng suất lá tươi của T.gigantea ở các khoảng cách cắt
khác nhau ..................................................................................... 42
Bảng 3.12. Năng suất vật chất khô của T.gigantea ở các KCC khác nhau ... 44
Bảng 3.13. Thành phần hóa học lá T.gigantea ở các khoảng cách cắt
khác nhau .............................................................................. 46
Bảng 3.14. Sản lượng của T. gigantea ở khoảng cách cắt khác nhau ............ 48


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Cây Trichanthera gigantea ............................................................... 3
Hình 3.1. Đồ thị nhiệt độ, ẩm độ và lượng mưa trung bình ............................ 24
Hình 3.2. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm với năng suất sinh khối .. 27
Hình 3.3. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm với năng suất lá tươi ...... 29
Hình 3.4. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm với năng suất vật chất khô ... 31
Hình 3.5. Biểu đồ mối quan hệ giữa mức bón đạm với sản lượng VCK ........ 36
Hình 3.6. Biểu đồ mối quan hệ giữa KCC với năng suất sinh khối ................ 41
Hình 3.7. Biểu đồ mối quan hệ giữa KCC với năng suất lá tươi .................... 43
Hình 3.8. Biểu đồ mối quan hệ giữa KCC với năng suất vật chất khô ........... 45
Hình 3.9. Biểu đồ mối quan hệ giữa KCC với sản lượng vật chất khô .......... 50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi là một ngành quan trọng của nông nghiệp hiện đại để sản

xuất những sản phẩm phục vụ đời sống con người như: thực phẩm, lông,
nghiên cứu khoa học, sức kéo…. Ngày nay, nhu cầu sử dụng các sản phẩm
chăn nuôi của con người này càng tăng. Bên cạnh đó cũng đòi hỏi cao về chất
lượng và an toàn thực phẩm. Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm
người chăn nuôi sử dụng thức ăn hỗn hợp kết hợp với thức ăn xanh nhằm
giảm chi phí thức ăn, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc nghiên
cứu nguồn cây thức ăn xanh có giá trị dinh dưỡng cao, ít nhiễm mầm bệnh
phục vụ cho chăn nuôi là rất cần thiết. Trong những năm gần đây, người dân
đã trồng và sử dụng nhiều loại cây thức ăn cho gia súc, gia cầm, trong đó có
cây chè đại (Trichanthera gigantea)-(T. gigantea). Đây là loại cây cho lá, dễ
trồng trên mọi loại đất, có thể sống trong nhiều điều kiện khí hậu và sinh thái
khác nhau, có năng suất chất xanh khá cao, nhiều gia súc, gia cầm thích ăn.
Cây T. gigantea có tỷ lệ protein thô từ 21-27% VCK, hàm lượng sắc tố
khoảng 450 mg/kg VCK. Cây T. gigantea có thân gỗ, dạng thân bụi, lá cây
nằm ở trên cao, do đó khả năng nhiễm Salmonella ít hơn so với các cây thức
ăn nằm sát mặt đất (rau lang, cỏ, rau muống…). Đặc biệt cây thích hợp với
điều kiện khí hậu nhiệt đới như Việt Nam, Campuchia, Philippines... là nguồn
thức ăn dồi dào cho gia súc, gia cầm, thuỷ sản và thỏ.
Trong chăn nuôi gia cầm, chính vì muốn cải thiện độ vàng của da, lòng
đỏ trứng, người chăn nuôi đã bổ sung sắc tố tổng hợp vào thức ăn. Tuy nhiên,
sắc tố tổng hợp không cải thiện được hương vị thịt, mặt khác sắc tố tổng hợp
có thể còn ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người. Vì vậy, bổ sung bột
lá cây thức ăn chứa sắc tố để được sản phẩm vừa có màu sắc hấp dẫn người
tiêu dùng, vừa đảm bảo an toàn thực phẩm là phương án tối ưu. Hiện nay, các
loại bột lá cây thức ăn xanh thường được sản xuất là bột lá keo giậu, bột hoa
cúc, bột cỏ Medicago, bột cỏ Stylo, bột lá sắn, bột lá cây T. gigantea (cây chè
đại, chè khổng lồ)…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





2

Tuy T.gigantea là loại cây trồng có tiềm năng nhưng lại ít được nghiên
cứu và quan tâm nhiều tới kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai thác để có được
năng suất tốt nhất phục vụ cho việc sản xuất bột lá thực vật. Chính vì vậy, để
trồng cây T. gigantea có năng suất cao, chất lượng tốt, sử dụng hiệu quả trong
chăn nuôi cần phải nắm vững một số kỹ thuật canh tác cơ bản nhất (mật độ,
phân bón, khoảng cách thu hoạch...) và thành phần hóa học cũng như giá trị
dinh dưỡng của cây thức ăn này.
Với các lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng của mức
bón đạm và tuổi thu hoạch đến năng suất và thành phần hóa học của cây
thức ăn Trichanthera gigantea”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Xác định mức bón phân đạm và tuổi thu hoạch thích hợp để áp dụng vào
canh tác cây T. gigantea nhằm đạt được năng suất chất xanh và bột lá cao.
- Xác định được thành phần hóa học để làm cơ sở dữ liệu tham khảo
khi xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp cho vật nuôi, mà trong đó bột lá T.
gigantea là một trong những nguyên liệu của thức ăn.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho ngành dinh dưỡng và
thức ăn động vật những hiểu biết về ảnh hưởng của mức bón đạm, tuổi thu
hoạch đến năng suất chất xanh và thành phần dinh dưỡng của cây T. gigantea.
Từ đó, có thể sử dụng trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực
thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài này có thể ứng dụng trong sản xuất để nâng cao năng
suất chất xanh của cây T. gigantean, nâng cao năng suất và chất lượng bột lá

để giảm giá thành sản phẩm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu về cây T. gigantea
Phân loại thực vật cây T. gigantea thuộc họ Acanthaceae (họ Ô rô), họ
phụ Ancanthoideae, bộ Trichanthereae (chi thực vật có hoa), giống Hera; loài
Trichanthera gigantea, tên khoa học là Trichanthera gigantea.

Hình 1.1. Cây Trichanthera gigantea
Cây T. gigantea có nguồn gốc ở Colombia và được phát hiện mọc ở
chân đồi Andean dọc bờ sông và khu vực đầm lầy từ Costa Rica đến miền
Bắc nước Mỹ (Mc Dade, 1983) và các rừng mưa từ Trung Mỹ đến Peru và
lưu vực Amazon, vùng đồng cỏ trên các đảo ở cửa sông Amazon (Record và
Hess, 1972). Mutis là người đầu tiên mô tả về cây T. gigantea vào năm 1779.
Theo Rosales (1997) thì Kunt đề xuất thành lập giống Trichanther vào năm
1817. Nees dựa trên cơ sở những mô tả ban đầu đặt tên giống Trichanthera
vào năm 1847.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





4

Đặc tính sinh thái
Cây T. gigantea thích nghi được với nhiều điều kiện sinh thái khác
nhau. Cây có phản ứng ánh sáng tán xạ nên có thể phát triển được cả ở
những nơi có bóng râm. Cây có thể sống ở độ cao khoảng từ 0 đến 2000
m so với mực nước biển. Cây thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới ẩm và
lượng mưa hàng năm từ 1.000 đến 2.800 mm, nhưng cây vẫn có khả năng
sinh trưởng và phát triển được, ngay cả khi lượng mưa lên đến 5000 đến
8000 mm trên năm, (Acero, 1985, Murgueitio, (1989), Jaramillo and
Corredor, 1989)). Cây T. gigantea phát triển được trong điều kiện đất
chua (pH= 4,5), kém màu mỡ nhưng thoát nước tốt. Ở Việt Nam cây T.
gigantea cho thấy khả năng phát triển tốt ở cả ba vùng đặc trưng là: miền Bắc
khí hậu nóng ẩm (Nguyen Ngoc Ha và Phan Thi Phan, 1995) hay ở Miền
Trung (Nguyen Xuan Ba và Le Duc Ngoan, 2003) và miền Nam (Nguyễn Thị
Hồng Nhân, 1998).
Đặc điểm sinh vật
T. gigantea là loại cây bụi có thể cao đến 5 m, đường kính gốc 7-10
cm, nếu không thu cắt cây có thể cao 15m, đường kính gốc 25 cm. Cây có tán
tròn, nhánh bậc 2, thân có nhiều mấu lồi nhỏ, phân bố tạo thành 2 - 4 đường
bên ở hai phía dọc theo thân. Trên cây có phân nhiều cành nhánh. Khi còn
non thân mềm nhiều nước, sau trồng khoảng 6 tháng, cây sinh trưởng cứng
cáp, thân màu nâu, hoá gỗ cứng phía ngoài, phía trong mềm nhưng không hoá
bấc. Lá T. gigantea hình cánh quạt dài đến 26 cm và rộng 13-14 cm thuôn
nhọn về chót lá, bản hẹp, cuống lá dài 1-5 cm, có màu xanh sẫm, mọc đối
chéo chữ thập, lá đơn nguyên, giòn, có lông nhỏ mịn và hơi ráp, khi khô lá
ngả mầu đen.
Mỗi quả của cây T. gigantea có 35-40 hạt, có 1.123 quả/kg và
4.050.000 hạt/kg (Acero, 1985). Tuy nhiên, hạt cây thường khó hoặc hiếm khi
nảy mầm nên tỷ lệ trồng bằng hạt chỉ đạt 0-2% (Angel J. E, 1988) nên người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




5

ta thường chọn cách nhân giống bằng hom. Theo Mc Dade (1983) nguyên
nhân là do cây không tự thụ phấn khi nhụy hoa không có hạt phấn. Cây T.
gigantea có khả năng ra rễ từ gốc đến ngọn, ngay cả một mẩu lá nhỏ cũng có
khả năng ra rễ, tuy nhiên, lá không có khả năng tạo thành cây mới. Rễ là một
trong những bộ phận giúp cây T. gigantea có thể nhân giống, phần thân
trưởng thành tại vị trí gần đất sẽ hình thành rễ, các rễ này khi tiếp xúc với đất
sẽ hình thành cây mới (Gomez và Murgueitio, 1991).
Bên cạnh rễ, người ta còn dùng hom để nhân giống. Cây T. gigantea có
khả năng nhân giống vô tính rất nhanh, trong 6 tháng từ một cây con có thể
cho ra ít nhất 100 cây mới. Tuy nhiên, khi sử dụng các đoạn hom có đường
kính 4 cm, dài 50 cm để nhân giống thì tỷ lệ nảy mầm có thể đạt 95% (Acero,
1985). Khi sử dụng cây có đường kính 2,2-2,8 cm, dài 20 cm và có 2 mắt lá
thì tỉ lệ nẩy mầm là 92%. Nhưng khi sử dụng các đoạn hom có đường kính
lớn hơn (3,2-3,8 cm) và chiều dài ngắn hơn (20-30 cm) để nhân giống thì tỷ lệ
mọc mầm chỉ đạt 50% (Jaramillo và River, 1991).
Cây T. gigantea có hoa nở theo chu kỳ nhưng cây chỉ ra hoa ở vùng
miền Nam Việt Nam còn vùng miền Bắc chưa thấy cây T. gigantea ra hoa.
T.gigantea là cây ưa ẩm, chịu bóng râm vừa, có tốc độ sinh trưởng đều trong
năm. Tuy nhiên gặp sương muối cây bị táp lá và sinh trưởng kém.
Cây T. gigantea rất nhạy cảm với phân đạm: khi thiếu đạm lá ngả mầu
vàng, nhưng chỉ một lượng nhỏ phân đạm cũng làm lá xanh trở lại.
Cây được trồng chủ yếu bằng phương pháp giâm cành và cành giâm có
thể nẩy mầm tốt ở các mùa trong năm. Cây ưa ẩm vừa phải, nếu ở nơi thiếu nước

thì năng suất bị hạn chế vì cây có lá mỏng và to bản nên thoát nước rất mạnh.
Cây T. gigantea ít bị sâu bệnh nhưng khi trồng với mật độ cao và đất
quá ẩm nó thường bị bệnh thối nhũn lá, hầu hết lá chuyển thành màu xám đen
và nhũn với tốc độ lây lan rất nhanh. Tuy nhiên, chữa trị hết sức đơn giản, chỉ
cần cắt bỏ những cây bị sâu bệnh, sau đó thu hoạch toàn bộ, làm sạch cỏ, bón
bổ sung phân lân và vôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6

Giá trị sử dụng trong chăn nuôi
T. gigantea là loại cây trồng mới sử dụng làm thức ăn cho gia súc, được
nhập vào Việt Nam năm 1993 từ nước Colombia, đây là loại cây thân bụi, lá
to, năng suất khá cao, giàu protein, khoáng và vitamin. Hiện nay, cây T.
gigantea được trồng nhiều ở miền Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và vùng núi
phía Bắc nước ta để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thỏ và cá. Kết quả cho
thấy sử dụng loại cây này đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt trong chăn nuôi.
Cây T. gigantea có hàm lượng nước trong lá cao, từ 80-85% khi lá ở độ
tuổi 30-45 ngày, vì vậy lá mềm mại nhưng lại khó phơi khô; tỷ lệ protein thô
trong VCK của lá dao động từ 18-26% tùy thuộc vào tuổi của lá; trong protein
hầu hết là protit, nitơ phi protit rất ít; tỷ lệ lipit thấp, khoảng 2-3% VCK; tỷ lệ
xơ thô thấp, khoảng 10-18% VCK tùy theo tuổi của lá; tỷ lệ khoáng rất cao
(20-25% VCK), hàm lượng canxi cao hơn rất nhiều so với các loại cây thức
ăn khác, do đó có thể sử dụng bột lá T. gigantea như một nguồn cung cấp can
xi cho vật nuôi. Tỷ lệ protein và khoáng trong VCK của lá cao đã làm cho tỷ
lệ dẫn xuất không chứa nitơ (DXKN) thấp hơn so với một số loại lá khác, nó
dao động từ 30-40% VCK. Tỷ lệ lipit và DXKN trong VCK đều thấp dẫn đến

năng lượng của bột lá thấp. Đây là điều cần lưu ý khi phối hợp bột lá vào
khẩu phần ăn của vật nuôi; bổ sung thêm dầu, mỡ để bù đắp năng lượng thiếu
hụt là yêu cầu bắt buộc khi bổ sung bột lá vào khẩu phần ăn của gia cầm.
Trong thí nghiệm kiểm tra các chất kháng dinh dưỡng (Rosales và Galindo,
1987) chứng minh rằng, trong cây T. gigantea không có alkaloid hay tanin,
hàm lượng sanponin và steroid thấp. Hàm lượng phenol tổng số và steroid là
450 và 6,2 ppm. Bằng phương pháp tiêu hóa dạ cỏ để xác định tỷ lệ tiêu hoá
đối với lá cây T. gigantea thấy rằng tỷ lệ phân giải chất khô là 77%.
Cây T. gigantea có thể thu hoạch lứa đầu vào lúc 4-6 tháng sau khi
trồng, năng suất đạt 15,64 đến 16,74 tấn/ha (thân lá tươi) với mật độ trồng
40.000 cây/ha (với khoảng cách 0,5m x 0,5m). Sản lượng sinh khối (lá tươi và
thân) đạt trên 50 tấn/ha/năm; khi trồng với mật độ 17.690 cây/ha (khoảng
cách 0,75m x 0,75m) và khoảng cách cắt (KCC) 1,5-3 tháng một lần, năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




7

suất bình quân đạt 17 tấn/ha/lứa từ năm thứ 2 trở đi. Sản lượng sinh khối (lá
tươi và thân) đạt trên dưới 100 tấn/ha/năm. Cây T. gigantea có khả năng tái
sinh mạnh mẽ, ngay cả trong điều kiện thu hoạch nhiều lần mà không cung
cấp phân bón. Điều này cho thấy quá trình tổng hợp nitơ có thể xảy ra ở phần
rễ thông qua hoạt động của mycorrhiza hay những vi sinh vật khác.
Cây T. gigantea chịu được cắt liên tục nhiều lần trong năm vì hình
thành nhánh non rất tốt. Tuy nhiên, tốc độ tái sinh chậm nên trong năm đầu có
thể thu được khoảng 4 lứa, các năm sau khoảng 5-6 lứa/năm.
Cắt ngang phần thân lá mà gia súc có thể ăn được. Sau khi thu cắt nên
để héo rồi mới cho gia súc ăn hoặc có thể ủ chua với cám hoặc bột sắn/bã

sắn... theo tỷ lệ 3 - 5% cám (tính theo khối lượng lá tươi). Nhiều đối tượng vật
nuôi có thể sử dụng thân lá cây thức ăn này, như bò, dê, lợn, gà, cá...
Lá T. gigantea giàu protein và sắc tố do đó ngoài cho vật nuôi ăn tươi
còn có thể chế biến thành bột lá bổ sung vào thức ăn của gia cầm. Mặc dù
năng suất T. gigantea không cao nhưng phân bố sinh khối đều trong năm, đặc
biệt có tỷ lệ lá cao vào lúc giáp vụ nên T. gigantea là cây thức ăn xanh tốt
trong vụ đông - xuân. Có thể sử dụng lá T. gigantea như là thuốc chữa bệnh
táo bón cho gia súc mà không gây độc hại.
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của cây thức ăn
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, năng suất, chất
lượng cây trồng như: khí hậu, đất, giống, nước, sâu bệnh, môi trường, khoảng
cách giữa các lần thu cắt, phân bón… mỗi yếu tố lại có tác động khác nhau
đến năng suất và chất lượng của cây trồng. Do đó, các yếu tố này cần được
nghiên cứu và phân tích kỹ để có biện pháp điều chỉnh phù hợp cho cây trồng.
1.2.1. Ảnh hưởng của phân bón
Phân bón là "thức ăn" do con người bổ sung cho cây trồng. Trong phân
bón chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cây. Các chất dinh dưỡng chính
trong phân là: đạm (N), lân (P), và kali (K). Ngoài các chất trên, còn có các
nhóm nguyên tố vi lượng... nhằm thúc đẩy sự phát triển, sinh trưởng của cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




8

trồng, cung cấp dinh dưỡng cho đất, có thể làm thay đổi chất đất phù hợp với
nhu cầu của loại cây trồng. Lượng phân bón nhiều hay ít và các loại phân bón
khác nhau từ đó sẽ dẫn đến sự khác nhau về năng suất, sản lượng, thành phần
các chất dinh dưỡng của cây trồng.

1.2.1.1. Ảnh hưởng của phân đạm
Hàm lượng nitơ tổng số trong đất khoảng 0,05 - 0,25 %, phần lớn chứa
trong các hợp chất hữu cơ (chiếm 5% trong mùn), nhìn chung, đất càng giàu
mùn thì nitơ tổng số càng nhiều (Cao Liêm và Nguyễn Văn Huyên, 1975).
Cây trồng hấp thu nitơ từ đất dưới 2 dạng ion: nitơ oxy hóa (NO3-) và
nitơ khử (NH4+), sau đó ion kết hợp với carbohydrat tạo thành aminoacids,
amid, amin; các aminoacids kết hợp lại với nhau tạo thành protein (Ngô Ngọc
Hưng và cs 2004). Do vậy, nếu cây được cung cấp nitơ cao thì hàm lượng
protein trong cây sẽ cao. Tuy nhiên, đây là loại phân bón dễ thất thoát, đặc
biệt thường bay hơi khiến lượng đạm mà cây trồng hấp thụ được chỉ từ 30 40% lượng cung cấp. Việc sử dụng phân đạm sao cho hiệu quả, tránh lãng phí
là vấn đề cần được quan tâm.
Cây được bón đủ đạm, lá có mầu xanh tươi, sinh trưởng khỏe mạnh
(Đào Văn Bảy và Phùng Tiến Đạt, 2007). Đủ đạm, chồi búp cây phát triển
nhanh, cành lá, nhánh phát triển mạnh. Đó là cơ sở để cây trồng cho năng suất
cao (Ngô Thị Đào và Vũ Hữu Yêm, 2007).
Nếu bón thừa đạm thì cây phải hút nhiều nước để giải độc amon nên tỷ lệ
nước trong thân lá cao, thân lá vươn dài, mềm mại, che bóng lẫn nhau và gây
ảnh hưởng tới quang hợp. Bón nhiều đạm, tỷ lệ diệp lục trong lá cao, lá có mầu
xanh tối, quá trình sinh trưởng (phát triển của thân, lá) bị kéo dài, cây thành thục
muộn, phát triển um tùm, dễ đổ lốp, dễ mắc sâu bệnh, rễ cây kém phát triển.
Nếu thiếu đạm, cây sẽ cằn cỗi, lá kém xanh, ra hoa kém và thưa, ít quả,
lúc này lá già sẽ chuyển đạm nuôi các lá non nên lá già rụng sớm. Cây thiếu
đạm buộc phải hoàn thành chu kỳ sống nhanh, thời gian tích lũy ngắn, năng
suất thấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




9


Khi lượng đạm bón cho đồng cỏ tăng, mức nitrat sẽ tăng theo. Vì vậy,
chúng ta nên cảnh giác với khả năng ngộ độc nitrat, nếu bón quá liều lượng
nitrogen (Stritzke và Murphy, 1982). Bón đạm có ảnh hưởng đến độ ngon
miệng và lượng thức ăn xanh ăn vào của gia súc. Khi không bón đạm và bón
ở các mức vừa phải thì khi bón tăng lượng đạm sẽ tăng khả năng thu nhận
thức ăn xanh của động vật (Rhykerd và Noller, 1973). Tuy nhiên, không có sự
khác nhau về khả năng ăn của gia súc đối với thức ăn xanh được bón đạm vừa
phải và mức cao (Belesky và Wilkinson, 1983).
Nhiều tác giả đã nghiên cứu và chỉ ra ảnh hưởng của nitơ đến sản lượng
đồng cỏ và tìm ra sự tương quan giữa liều lượng N được bón với năng suất
chất xanh và hiệu quả bón phân (Belesky và Wilkinson, 1983).
Về liều lượng bón đạm, các kết quả nghiên cứu chỉ ra như sau:
Đối với cỏ họ đậu: Liều lượng bón tối ưu cho đồng cỏ alfalfa là 90 - 120
kg N/ha/năm, đối với cỏ orchard là 140 kg N/ha/năm (Jung và Baker, 1973) và
cỏ orchard hỗn hợp với cỏ tall fescure là 180 kg N/ha/năm (Wanger, 1954).
T. gigantea không phải là cây họ đậu nhưng chúng cũng có khả năng cố
định đạm như những cây họ đậu. Tuy nhiên, mức giới hạn bón phân ure cho
chúng là 240 kg N/ha/năm. Lượng phân thấp nhất bón cho chúng là 160
kg/ha/năm (Ha và Phan, 1995). Theo Đậu Thế Năm (2017) thì lượng bón đạm ure
sau khi cắt lứa thứ nhất (sau 6 tháng trồng) đối với cây T. gigantea là 0,1 kg/gốc.
Jailson Lara Lagundes và cs (2005) thí nghiệm bón đạm với các liều
lượng từ 75 - 300 kg N/ha/năm và thấy sản lượng vật chất khô của cỏ tỷ lệ
thuận với mức bón đạm tăng. Lưu Hữu Mãnh (2007) cho biết mức độ phân
bón 30N/ha là phù hợp nhất cho cây Macroptilium, với mức độ này cây phát
triển tốt và tạo điều kiện cho cây có thể cố định đạm vào những năm tiếp theo.
Theo Lưu Hữu Mãnh (2007) ảnh hưởng các mức độ phân đạm lên hàm
lượng dưỡng chất và năng lượng của đậu Macroptilium cho thấy không có sự
khác biệt về sự đáp ứng các mức độ phân bón lên vật chất khô (DM), tro,
protein thô (CP), béo thô (EE), chất xơ trung tính (NDF) và xơ acid (ADF)

cũng như năng lượng trao đổi (ME).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




10

Theo Nguyễn Văn Quang và cs (2007) bón 60 kgN/ha cho keo giậu
K280 khi giai đoạn còn non đạt được năng suất chất khô là 13,7 tấn/ha. Cũng
theo Nguyễn Văn Quang và cs (2007) bón 200 kg ure/ha cho keo giậu K280
thì năng suất protein đạt là 1,8 tấn/lứa.
Nguyễn Đặng Toàn Chương (2011) đã nghiên cứu ảnh hưởng của 3
mức phân NPK (công thức 2:1:1) và 3 loại phân hữu cơ đến sự sinh trưởng,
năng suất và chất lượng lá cây M. oleifera. Kết quả là mức bón 70kg N -35kg
P2O5 - 55kg P2O/ha/năm đã giúp cây sinh trưởng và năng suất chất xanh cao
hơn hẳn các mức bón NPK thấp hơn.
Như vậy, liều lượng đạm bón cho cây T. gigantea và cây họ đậu thân
gỗ không cao. Liều lượng bón hữu hiệu cho T. gigantea khoảng từ 160-240
kg N/ha/năm. Bón liều lượng thấp quá, sản lượng cỏ tăng không rõ rệt, bón
cao quá lại làm giảm sản lượng cỏ.
Bón đạm đã nâng cao chất lượng và tính ngon miệng của cỏ. Tuy nhiên,
cũng cần đề phòng bón đạm với liều lượng cao sẽ dẫn đến tích tụ nitrat trong
cỏ và dẫn đến gây ngộ độc cho gia súc.
1.2.1.2. Phân lân
Phân lân kích thích sự phát triển của rễ cây, làm cho rễ ăn sâu vào đất
và lan rộng ra xung quanh, tạo thêm điều kiện cho cây chống chịu được hạn
và ít đổ ngã. Lân kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, thúc đẩy cây ra hoa
kết quả sớm và nhiều. Lân làm tăng đặc tính chống chịu của cây đối với các
yếu tố không thuận lợi: chống rét, chống hạn, chịu độ chua của đất, chống

một số loại sâu bệnh hại,…
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thế Đặng và Nguyễn Thế Hùng
(2005); Công Doãn Sắt và Hoàng Văn Tám (2000) cho thấy tùy thuộc vào
loại đất và giống cỏ để bón liều lượng lân cho phù hợp. Hàm lượng photpho
bón cho đất thích hợp vào khoảng 40 kg đến 120 kg P2O5/ha. Phân lân phân
giải chậm, vì vậy phải bón toàn bộ lượng phân một lần khi gieo, trồng và bón
vào cuối thu hoặc đầu xuân đối với đồng cỏ từ năm thứ 2 trở đi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




11

1.2.1.3. Phân kali
Trong mối quan hệ đất - phân bón, kali đóng một vai trò quan trọng
trong sự sinh trưởng và phát triển của cây. Khi cây lớn lên, nhu cầu kali của
cây càng tăng đặc biệt là giai đoạn cây trồng trưởng thành và chuẩn bị ra hoa.
Kali hỗ trợ cho quá trình chuyển hóa năng lượng (tăng hình thành axit hữu cơ,
tăng trao đổi đạm, do vậy mà hạn chế tích lũy nitrat trong lá). Nó còn giúp
cây trồng tăng khả năng quang hợp, tăng cường sự hình thành bó mạch, giúp
cây cứng cáp, góp phần vào việc chống đổ lốp cho cây, chống bệnh, chống
rét... (Nguyễn Vy và Phạm Thúy Lan, 2006). Bón đủ kali sẽ tạo điều kiện cho
cây có khả năng hút đạm và lân tốt hơn, điều hòa tốt các chất dinh dưỡng là
nền tảng cho một vụ mùa bội thu.
Kết quả nghiên cứu của Trần Ngọc Ngoạn (2007) cho thấy tùy thuộc
vào hàm lượng kali trong đất nhiều hay ít mà mức bón kali cho sắn dao động
từ 80 kg đến 180 kg K2O/ha.
Phân kali chủ yếu được bón kết hợp với các loại phân khác như N, P...
liều lượng phân kali bón riêng biệt cho cây thức ăn thường ít được quan tâm

và nghiên cứu, chính vì thế mà ảnh hưởng của phân kali tới các loại cây thức
ăn cũng chính là sự ảnh hưởng của các loại phân bón kết hợp cùng.
1.2.1.4. Phân chuồng
Phân chuồng là hỗn hợp các chất do gia súc bài tiết ra (phân và nước
giải) cùng với chất độn chuồng và thức ăn thừa của gia súc. Do phân chuồng
được hình thành từ nhiều thành phần có đặc điểm khác nhau nên các loại phân
chuồng cũng khác nhau về thành phần và tỷ lệ các chất dinh dưỡng có chứa
trong phân. Sử dụng phân chuồng tốt là một biện pháp nâng cao hiệu quả và
xử lý nguồn phế thải gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, phân chuồng chưa
phải là loại phân hoàn chỉnh, để tăng độ phì nhiêu cho đất cần kết hợp với các
phân giàu đạm, lân, kali (Đào Văn Bảy và Phùng Tiến Đạt, 2007).
Kết quả nghiên cứu giống keo giậu Hawaii trồng trên đất xám có pH = 4,7
của Viện Chăn nuôi Quốc gia phối hợp với Trường Đại học Nông lâm thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




12

phố Hồ Chí Minh tại Thủ Đức cho thấy: Keo giậu Hawaii được bón lót 5 tấn
phân chuồng/ha và bón thúc bằng phân hóa học N, P, K cho năng suất chất
khô là 3,5 tấn/ha/năm. Nhưng khi được bón lót 10 tấn phân chuồng/ha và bón
thúc bằng 30 kg N, 60 kg P2O5, 40 kg K2O/ha đã đưa năng suất chất khô đạt 4
tấn/ha/năm. Trong đó, số lượng lá chiếm tới 46%, hàm lượng protein trong
chất khô chiếm 20,5% và xơ thô chiếm 17,0% (Bùi Xuân An và Ngô Văn
Mận, 1981).
Như vậy, có thể thấy rằng, vai trò của phân bón với các cây thức ăn
chăn nuôi là quan trọng. Đối với cây T. gigantea mặc dù rễ có các nốt sần
chứa Mycorrhiza và các vi sinh vật khác có thể giúp cây cố định hàm lượng

nitơ, nhưng vẫn cần phải bón không chỉ lân, kali, phân chuồng mà còn phải
bón một lượng đạm nhất định, đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi nốt sần ở rễ
chưa hình thành.
1.2.2. Ảnh hưởng của khoảng cách cắt
Người trồng cây thức ăn hầu như không bao giờ thỏa mãn về sản
lượng cỏ trên một đơn vị diện tích, họ thể hiện điều đó qua số lần cắt cỏ
trong năm. Nhưng quan điểm của các nhà khoa học thì phải căn cứ vào đặc
điểm sinh lý học, hình thái học để quyết định khoảng cách cắt cỏ cho hợp
lý (Hart và cs,1968).
Cắt quá ít lần trong năm, cây già, chất lượng kém, ảnh hưởng đến lứa
tái sinh sau và ảnh hưởng đến sản lượng cả năm. Còn cắt nhiều lần trên năm,
cây non, mềm, tỷ lệ tiêu hóa cao, tỷ lệ protein cao. Tuy nhiên, nếu cắt quá
nhiều lần trong năm cũng không tốt, sẽ làm giảm khả năng tái sinh và năng
suất; hàm lượng lân, kali, clo và protein trong cây giảm dần ở các lứa sau,
cánh đồng trơ trụi, đất xói mòn, đồng cỏ thoái hóa, bộ rễ phát triển kém hoặc
bị teo đi ít nhiều.
Voisin (1963) đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề KCC và khẳng định:
Một cây thức ăn nếu được cắt trước khi rễ và những phần còn lại của lứa cắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




13

trước chưa dự trữ đủ dinh dưỡng thì tái sinh sẽ gặp khó khăn và có thể không
tái sinh được. Nếu tuổi thu hoạch chỉ bằng 1/2 tuổi thu hoạch thích hợp thì
năng suất chỉ còn 1/3. Nếu tăng thêm 50% thời gian của tuổi thu hoạch thích
hợp thì chỉ tăng năng suất 20%, nhưng chất lượng giảm, tỷ lệ chất xơ tăng.
T. gigantea có thể cắt liên tục nhiều lần trong năm. Khả năng hình

thành nhánh non tốt. Tuy nhiên tốc độ tái sinh chậm, nên chỉ cắt được 3-4
lứa/năm và có thể cho sản lượng đạt từ 70-80 tấn/năm (Đinh Văn Bình,
Nguyễn Thị Mùi, 2000). Sau khi trồng 120 ngày có thể thu lứa đầu ở độ cao
60cm và 90-100 ngày có thể thu lứa tái sinh. Sau khi cắt nên chừa lại 3-4cm
trên đoạn tái sinh.
Theo Đậu Thế Năm (2017) thì thu cắt cây T. gigantea sau khi trồng 6
tháng và lứa tiếp theo cách lứa đầu 2-3 tháng, thu hoạch cả lá và cành thứ cấp
(để lại 1 mắt sát thân).
Theo Jaramillo và River (1991) thu cắt lần thứ nhất khi cây được 8-10
tháng tuổi có thể cho năng suất từ 15,6-17,74 tấn/ha. Thu cắt cứ sau 3 tháng
một lần sẽ cho sản lượng là 17 tấn/ha/lần cắt (Gomez và Murgueitio, 1991). T.
gigantea được cắt 3 tháng/lần thì sản lượng 9,2 tấn/năm/ 1 km chiều dài hàng
rào (CIPAV, 1996).
Theo Lê Đức Ngoan và cs (2006) thì T. gigantea chịu được cắt liên tục
nhiều lần trong năm vì hình thành nhánh non rất tốt. Tuy nhiên, tốc độ tái sinh
chậm nên một năm chỉ có thể cắt 3-4 lần với năng suất chất xanh 70-80
tấn/năm. Thu hoạch lứa đầu sau 5-6 tháng trồng, lứa tiếp theo sau 2-3 tháng
trồng. Năm đầu thu cắt 4 lứa/năm, các năm sau thu 5-6 lứa/năm. Cắt ngang
phần thân lá mà gia súc có thể ăn được.
Như vậy, khoảng cách giữa hai lần cắt vào khoảng 6 tháng sau khi
trồng và ở các lứa tiếp theo từ 2- 3 tháng là thích hợp. Ở tuổi cây như vậy vừa
đạt được sản lượng cao vừa đạt được chất lượng tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




14

1.3. Giá trị dinh dưỡng của chè đại

T. gigantea là cây có protein từ 13-22% trong VCK, trong đó protein
của chúng chủ yếu là protein thực (Rosales và cs, 1999; Rosales, 1997;
Nguyen Xuan Ba và cs, 2003). Hàm lượng khoáng thô trong T. gigantea
thường lớn hơn 20% trong VCK và đặc biệt là có hàm lượng canxi cao hơn so
với các loài cây trồng khác (Garcia và cs, 2008). Trong T. gigantea có chứa
nhiều loại cacbonhydrat tan trong nước và cacbonhydrat khác nhưng hàm
lượng đường lại thấp hơn sơ với các loại cây khác. Hàm lượng NDF thấp.
Hàm lượng cacbonhydrat dự trữ nhiều. Hàm lượng tannin hầu như không có.
Axit amin trong cây T. gigantea rất cân đối. Lượng axit amin này tương
đương với axit amin có trong Azolla spp (Preston, 1995), thậm chí người ta
còn cho rằng axit amin của T. gigantea còn cân đối hơn so với đỗ tương. Theo
Gomez và Murgueitio (1991) thì trong lá của T. gigantea có 16,62% protein
thô; 14,13% protein thực, 16,7% xơ, 16,7% khoáng thô. Theo Solarte (1994)
thì trong lá có 22,5% protein thô; 17,1% khoáng thô, 29,7% NDF. Cũng theo
ông thì trong cả thân và cành non thì có 22,3% protein thô; 22% khoáng thô
và 44% xơ thô.
Khi nghiên cứu cây T. gigantea ở các vùng sinh thái khác nhau thuộc
vùng đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Tiền
Giang, Vĩnh Long tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhân và Huỳnh Thị Ngọc Trinh
(2012) cho biết tỉ lệ protein dao động từ 15,11- 19,85% trong VCK và hàm
lượng đạm giảm dần khi tuổi của cây thức ăn tăng lên. Tỉ lệ khoáng tổng số biến
động từ 20,7 - 27,96%, tùy thuộc vào các vùng đất khác nhau và không phụ
thuộc vào tuổi của cây. Tỉ lệ xơ biến động từ 12,93- 14,38%, sự biến động này
tùy thuộc vào tuổi của cây. Khi cây có tuổi cao thì hàm lượng xơ tăng lên.
Theo Rosale (1999) thì T. gigantea giàu axit amin (g/kg) sau:
methionin 3,0; cystine 2,6; lysine 6,0; agrinine 9,8; phenyalanine 9,1;
thyrosine 6,0; leucine 13,3; izoleucine 7,5; threonine 7,8.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





15

Khi nghiên cứu về khả năng tiêu hóa của chè đại trong túi tiêu hóa các
tác giả cho biết khả năng tiêu hóa của chè đại sau 12 giờ đạt từ 52-52,4%; sau
24 giờ đạt từ 60-70% nhưng sau 48 giờ thì đạt 77-77,2% (Rosales và Galindo,
1987; Angel, 1988, Rosales, 1992).
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về cây T. gigantea
Nghiên cứu về cây T. gigantea ở trong và ngoài nước chưa nhiều, dưới
đây là một số thông tin chúng tôi thu thập được.
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Thân non và lá của T. gigantea đều được động vật ăn. Giá trị dinh
dưỡng của lá cây biến động từ 15-20% và đều là các protein có giá trị. Hàm
lượng canxi cao tương tự các loại cây thức ăn khác (Rosales và Galindo,
1987, Rosales và cs, 1992). T. gigantea được sử dụng như là loại thức ăn tốt
cho gia súc tiết sữa. Ngoài ra, trong T. gigantea còn không có các alkaloid và
tannin, hàm lượng saponin và steroid rất thấp. Nhiều kết quả nghiên cứu và
các giống T. gigantea khác nhau đều có hàm lượng phenol và steroid khoảng
450ppm và 0,062% (Rosales và cs, 1989).
Protein trong lá có chứa các axit amin có chất lượng tốt. Preston (1995) còn
cho rằng chất lượng và sự cân đối về axit amin còn tốt hơn cả của khô đỗ tương.
Nghiên cứu về cây T. gigantea ở nước ngoài không nhiều. Đất cằn cỗi,
axit, T. gigantea vẫn sinh trưởng được nhưng cho năng suất thấp, chỉ khoảng
3-4 tấn chất xanh/ha/lứa với mật độ trồng 10.000 - 40.000 cây/ha. Cây T.
gigantea phản ứng tích cực với phân bón; ở mức bón 160 kg N/ha/năm thì sản
lượng lên đến 12 tấn VCK/ha/năm (Suarez và cs, 2006;).
Cây T. gigantea có thể được trồng thành hàng rào xanh để chống xói
mòn đất. Ở Colombia, cây T. gigantea được sử dụng rộng rãi trong các
chương trình phục hồi rừng ở các đồn điền cà phê và bảo vệ xói mòn dọc theo

bờ sông (Corpoica, 2013).
Cây T. gigantea chịu được cắt thường xuyên, ngay cả khi không bón
phân. Người ta cho rằng, mặc dù không phải là cây họ đậu, nhưng T. gigantea
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




16

có thể tổng hợp được đạm với sự trợ giúp của mycorrhira và các vi sinh vật
khác. T. gigantea có hàm lượng khoáng tổng số trong vật chất khô khoảng
trên 20%, trong đó hàm lượng canxi cao hơn nhiều so với các loài cây thức ăn
khác (Rosales, 1997).
Corpoica, (2013) thì T. gigantea còn là cây thuốc để chữa bệnh đau
bụng và thoát vị ở ngựa, sót nhau ở bò và hạn chế các bệnh đường ruột ở
động vật nuôi; chữa viêm thận ở người, tác dụng bổ máu. Sarria Patricia
(1994) đã nghiên cứu sử dụng lá T. gigantea làm thức ăn cho bò sữa. Hess và
Dominguez (1998) cho biết lá cây T. gigantea là một nguồn thức ăn ổn định
cho cừu và mức phối hợp bột lá vào khẩu phần của cừu khoảng 20% là phù
hợp. Theo Arango (1990), thỏ được nuôi nhốt đến 35 ngày tuổi sử dụng khẩu
phần được thay thế bằng T. gigantea với tỷ lệ 10%, 20% và 30% cho thấy tỷ
lệ tiêu hóa tốt nhất ở mức 30%, ở tỷ lệ này tăng trọng là 32,12 g/ngày và
chuyển hoá thức ăn là 4,29. Sarwatt và cs (2003) đã sử dụng bột lá T.
gigantea là nguồn cung cấp protein chính cho thỏ trong chăn nuôi nông hộ tại
Tanzania. Kết quả cho thấy phối hợp bột lá T. gigantea vào khẩu phần của thỏ
đã nâng cao khả năng thu nhận thức ăn, sinh trưởng và tỷ lệ thịt xẻ.
Protein của T. gigantea có thể thay thế 30% protein đậu nành khi chăn
nuôi lợn, sử dụng bằng cách cho ăn tự do hoặc bổ sung thêm vào khẩu phần
cơ sở (Preston,1995).

1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về cây T. gigantea ở trong nước chưa nhiều. Đậu Thế Năm
(2010) có bài viết giới thiệu về cây T. gigantea. Viện Khoa học kỹ thuật nông
nghiệp Tây Nguyên đã nghiên cứu về năng suất chất xanh và thành phần hóa
học của cây T.gigantea.
Nguyễn Thị Hồng Nhân và Huỳnh Thị Ngọc Trinh (2012) khảo sát giá
trị dinh dưỡng của cây T. gigantea tại các vùng sinh thái khác nhau và cho
biết: T. gigantea là loài cây có tính thích nghi với điều kiện của đồng bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×