Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ĐỀ CƯƠNG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.86 KB, 16 trang )

ĐỀ CƯƠNG LUẬT HN & GĐ
---------Câu 1: Phân tích các điều kiện KH theo Luật HNGĐ 2014
 Khái niệm KH: là việc nam và nữ xác lập QH vợ chồng với nhau theo quy định của
Luật này về điều kiện KH và đăng kí KH
 Khái niệm điều kiện KH theo PL HNGĐ VN là những quy định có tính chất bắt buộc
do NN quy định trong các văn bản PL và nam nữ phải tuân thủ khi KH. Điều kiện KH có ý
nghĩa quan trọng đối với việc KH và mục đích HN.
- Thứ nhất, điều kiện KH nhằm tiêu chuẩn hóa việc KH của nam và nữ. NN đảm bảo
mọi hành vi KH đều phải tuân thủ điều kiện như nhau, không phân biệt giữa các chủ thể,
thành phần, địa vị xã hội và các yếu tố khác của các chủ thể tham gia KH. Quy định này là
cơ sở bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong việc xác lập QHHN.
- Thứ hai, điều kiện KH bảo đảm cho việc thực hiện mục đích KH của vợ và chồng. trên
nền tảng các điều kiện KH, nam nữ đã đảm bảo đủ điều kiện về nhận thức, tâm sinh lý, khả
năng thực hiện các chức năng của gia đình và trên cơ sở đó, vợ chồng thực hiện được các
nghĩa vụ và quyền HN và gia đình đối với nhau và trách nhiệm đối với xã hội, cộng đồng và
trước nhà nước.
- Thứ ba, điều kiện KH theo luật định là cơ sở pháp lý loại trừ việc KH không đúng quy
định của PL và mục đích của việc KH. Việc KH giữa nam nữ không chỉ nhằm đến lợi ích của
các bên đối với nhau trong việc thiết lập gia đình mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của người
khác các trách nhiệm pháp lý về mối QH giữa vợ chồng với xã hội, cộng đồng. Điều kiện
KH còn giúp cho gia đình phát triển bình thường, đáp ứng được mục đích của HN gia đình
phát triển theo định hướng là tế bào lành mạnh của xã hội, góp phần giải phóng con người và
được hưởng các quyền cơ bản của con người
Điều kiện KH được quy định theo điều 8 luật HNGĐ năm 2014:
1. Nam, nữ KH với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc KH do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất NLHVDS;
d) Việc KH không thuộc một trong các trường hợp cấm KH theo quy định tại các điểm a, b,
c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. NN không thừa nhận HN giữa những người cùng giới tính.


 Nam từ “đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”
- Theo điểm a.K1.Đ8.LHNGĐ 2014 quy định: “Nam từ đủ 20t trở lên, nữ từ đủ 18t trở
lên”

Hoa Hồng Thép


- Nam, nữ khi KH, họ phải chứng minh mình đã đủ tuổi theo luật định. Độ tuổi KH theo
quy định của LHNGĐ 2014 là độ tuổi tối thiểu, bắt buộc đối với nam và nữ khi KH. Việc
KH ở độ tuổi nào là do nam, nữ quyết định nhưng không được thấp hơn độ tuổi tối thiểu do
PL quy định. Độ tuổi KH căn cứ vào nhiều yếu tố phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, lịch
sử lập pháp, thực tiễn thi hành PL đã được tổng kết và sự phát triển của con người VN
- Thứ nhất, độ tuổi KH căn cứ vào chỉ số phát triển tâm sinh lý của con người VN. Con
người chỉ ý thức được việc KH và khả năng thực hiện các trách nhiệm của gia đình khi họ
phát triển đến một mức độ nhất định về thể chất và ý thức xã hội. Nếu nam, nữ KH khi chưa
đủ tuổi thì tùy thuộc vào mức độ, tính chất của vi phạm mà xử lý bằng các chề tài phù hợp
- Thứ hai, khả năng thực hiện các nghĩa vụ và quyền về HN và gia đình của vợ chồng. Để
đạt được mục tiêu của việc KH thì vợ chồng phải có những kỹ năng nhất định trong đời sống
gia đình và thực hiện các chức năng của xã hội. Con người khi phát triển đến mức độ nhất
định thì mới có khả năng tham gia lao động tạo thu nhập cho gia đình, gánh vác trách nhiệm,
thực hiện các nghĩa vụ đối với nhau và đối với xã hội
Độ tuổi KH ở mỗi nước được quy định khác nhau và ngay cả bản thân nước ta trong mỗi
thời kỳ khác nhau cũng có quy định khác nhau về tuổi KH. Trước đây LHNGĐ 1986 và
LHNGĐ 2000 đều quy định độ tuổi KH là “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở
lên” dẫn đến cách hiểu là nam bắt đầu bước sang tuổi 20, nữ bắt đầu bước sang tuổi 18 đã đủ
điều kiện KH. LHNGĐ 2014 đã quy định chặt chẽ hơn khi bổ sung thêm từ “đủ” vào độ
tuổi, có nghĩa nam phải tròn 20 tuổi không thiếu 01 ngày, nữ phải tròn 18 tuổi không thiếu
01 ngày mới đủ tuổi KH.
 Việc KH do nam và nữ tự nguyện quyết định
- Theo điểm b.K1.Đ8.LHNGĐ 2014 quy định: “Việc KH do nam và nữ tự nguyện quyết

định”
- Việc KH do bên nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối
bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
- Việc KH giữa nam và nữ phải thể hiện sự mong muốn của các bên trong việc thiết lập
HN, xây dựng gia đình. Động lực của việc KH là nam và nữ muốn chung sống với nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và thực hiện các chức năng xã hội của gia đình.
- Sự tự nguyện của nam nữ trong việc KH được thể hiện thông qua việc nam nữ tự
nguyện quyết định; thể hiện mong muốn trong việc thiết lập QHHN, thông qua các hành vi
sau:
+ Ký trong tờ khai đăng kí KH
+ Thể hiện sự đồng ý KH tại cơ quan hộ tịch
+ Ký vào sổ đăng kí KH
+ Ký vào giấy chứng nhận KH
- Việc KH tự nguyện có ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập HN:
+ Thứ nhất, HN chỉ có thể đạt được mục đích khi việc KH là tự nguyện. Sự tự nguyện là
yếu tố đảm bảo cho các thành viên trong gi đình chung sống với nhau, quan tâm, chăm sóc
nhau, cùng xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và bền vững. Mục đích của HN đạt hay
không phụ thuộc vào tình yêu và sự tự nguyện của vợ và chồng khi thực hiện các trách
nhiệm pháp lý đối với nhau và đối với người khác
+ Thứ hai, KH tự nguyện xóa bỏ tàn tích của HN phong kiến lạc hậu. HN tự nguyện thể
hiện sự tự do lựa chọn người bạn đời của mình nhằm chung sống lâu dài, hạnh phúc. Mọi sự
gắn bó không xuất phát từ sự tự nguyện đều là mầm móng của sự tan vỡ, là nguyên nhân của
Hoa Hồng Thép


các xung đột trong đời sống gia đình. Quan niệm KH theo ý chí cha, mẹ, ông, bà trước đây
đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội và nhận thức của con
người trong giai đoạn hiện nay
 Không bị mất năng lực hành vi dân sự
- NLHVDS là khả năng của cá nhân trong việc nhận thức, điều khiển hành vi của mình

xác lập quyền, thực hiện nghĩa vụ dân sự với cá nhân, tổ chức khác.
- Người bị mất NLHVDS là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, TA ra quyết định tuyên bố người này là người mất
NLHVDS trên cơ sở kết luận giám đinh pháp y tâm thần.
- Người mất NLHVDS không thể KH vì họ không thể hiện được ý chí khi tham gia KH.
Quy định này nhằm đảm bảo cho HN được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. HN chỉ
có thể xác lập, duy trì, tồn tại giữa những chủ thể minh mẫn, có nhận thức và điều khiển
được hành vi của mình
- Mặt khác, người mất NLHVDS là người không thể thực hiện được các nghĩa vụ và
quyền giữa vợ và chồng, trách nhiệm của gia đình đối với xã hội. Hầu hết các trách nhiệm
trong gia đình đòi hỏi vợ và chồng phải là người có khả năng thực hiện một cách tích cực để
tạo điều kiện cho gia đình tồn tại và phát triển. Việc một bên vợ hoặc chồng là người mất
NLHVDS không những họ không thực hiện được trách nhiệm của mình mà còn có thể có
những hành vi xâm phạm quyền lợi bên kia
- Quy định này còn là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của con. Theo khoa
học, những chứng bệnh làm cho cá nhân bị mất NLHVDS có khả năng di truyền cho thế hệ
kế tiếp, làm suy thoái nòi giống cũng như tạo ra gánh nặng cho gia đình và xã hội.
- Theo luật định, khi cơ quan hộ tịch phát hiện người tham gia KH có dấu hiệu mất
NLHVDS, họ có quyền yêu cầu người đó chứng minh là họ không bị mất NLHVDS
 Việc KH không thuộc một trong các trường hợp cấm KH theo quy định tại các điểm
a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này
Theo đó, cấm các hành vi sau đây KH:
a) KH giả tạo, LH giả tạo: Thông thường việc KH giả tạo, LH giả tạo hướng đến mục
đích tư lợi thông qua hành vi tuân thủ các quy định của PL. Thực chất việc KH giả tạo, LH
giả tạo không vi phạm điều kiện về sự tự nguyện trong việc KH, vì cả 2 chủ thể có sự bàn
bạc, thỏa thuận với nhau nhưng việc KH này không đảm bảo sự tiến bộ trong HN. VD: KH
nhằm được xuất cảnh ra nước ngoài, KH để được nhập hộ khẩu vào thành phố,…
b) Tảo hôn, cưỡng ép KH, lừa dối KH, cản trở KH:
- Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả 2 bên chưa đủ tuổi KH theo quy

định của PL

Hoa Hồng Thép


- Cưỡng ép KH là hành vi buộc người khác phải KH trái với nguyện vọng của họ. Việc
cưỡng éo KH có thể là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thực hiện các hành vi
khác tác động đến nam, nữ để họ KH theo ý muốn của người thứ ba. VD: Cha mẹ ép con
KH để trừ nợ, cha mẹ các bên hứa hẹn với nhau,…
- Lừa dối KH là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai sự thật về thân
nhân, hoàn cảnh của mình nên đã đồng ý KH. VD: Không có khả năng sinh lý nhưng cố tình
giấu, biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu,…
- Cản trở KH là hành vi ngăn cản người khác KH trái với nguyện vọng của họ. Cản trở
KH có thể là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thực hiện các hành vi khác làm
cho nam, nữ không thực hiện việc KH theo ý chí của mình.
c) Người đang có vợ, có chồng mà KH hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà KH hoặc chung sống như vợ chồng với người đang
có chồng, có vợ: Người đang có vợ có chồng là người đang tồn tại HN hợp pháp, các bên vợ
chồng đều còn sống và chưa LH. NN chỉ thừa nhận chế độ HN một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng. PL không chấp nhận chế độ đa thê đa phu bởi bản chất của tình yêu là không thể
chia sẻ, vợ chồng có trách nhiệm chung thủy với nhau và cùng nhau xây dựng gia đình hạnh
phúc, tiến bộ. PL quy định như vậy là để đảm bảo cho vợ chồng thực hiện một cách tốt nhất
các chức năng của gia đình và thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhau
d) KH hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
của chồng
- KH hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ. Những
người cùng dòng máu về trực hệ là những người có cùng huyết thống. Là giữa cha mẹ đối
với con, giữa ông bà với cháu nội cháu ngoại.

- KH hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. Là
những người có cùng một gốc sinh ra. Cấm KH giữa cha mẹ đối với con; ông bà đối với
cháu nội, cháu ngoại; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha;
giữa anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì ruột; giữa bác, chú, cô, cậu, dì
ruột. Những người có cùng huyết thống hoặc có huyết thống gần nhau sẽ không còn đảm
bảo việc thực hiện chức năng duy trì nòi giống nếu họ là vợ chồng. Những người có củng
dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi 3 đời là vợ chồng của nhau con sinh ra sẽ bị biến
dạng vê di truyền, không lành lặn về mặt thể chất, trí tuệ, tinh thần.
- Cấm KH hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với
con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Tuy những QH này không có thân thuộc
nhưng NN cấm vì để đảm bảo sự trong sáng, lành mạnh của những QH đó. Hơn nữa, truyền

Hoa Hồng Thép


thống đạo đức không cho phép đánh đổi QH cha mẹ và con. Bậc làm cha làm mẹ phải là tấm
gương sáng, tốt đẹp để các con học tập, noi theo; các con phải nghe lời dạy bảo của cha mẹ.
 Nhà nước không thừa nhận HN giữa những người cùng giới tính
- HN là sự kết hợp giữa người đàn ông và người đàn bà theo lẽ tự nhiên nhằm xây dựng
gia đình và sinh con đẻ cái. Việc KH giữa những người khác giới là sự kiện tự nhiên gắn liền
với nhu cầu của con người, tạo ra sự cân bằng trong xã hội loài người, làm thăng hoa giá trị
cuộc sống. Những người cùng giới tính KH là hành vi đi ngược lại với quy luật tự nhiên.
Hơn nữa, những người cùng giới tính KH sẽ không thực hiện được chức năng của gia đình,
các quyền và nghĩa vụ về nhân thân, tạo ra sự xung đột về sự cân bằng trong xã hội, ảnh
hưởng đến đời sống chung của xã hội.
- Đối với vấn đề này chúng ta có thể thấy được rằng nhằm bắt kịp với thực trạng của xã
hội hiện tại thì LHNGĐ 2014 đã có quy định khác với LHNGĐ 2000 về vấn đề giới tính của
hai người KH. K5.Đ10.LHNGĐ 2000 quy định “cấm KH giữa những người cùng giới tính”
còn K2.Đ8 LHNGĐ 2014 quy định “NN không thừa nhận HN giữa những người cùng giới

tính”., Những người cùng giới có thể làm lễ cưới, thực hiện các nghi thức KH như những
cặp đôi nam nữ bình thường khác tuy nhiên PL lại không công nhận mối QH của họ là HN
hợp pháp, việc họ ăn ở chung với nhau không làm phát sinh quyền, quyền lợi, nghĩa vụ,
trách nhiệm như vợ chồng hợp pháp có đăng ký KH. Việc nhà nước không thừa nhận HN
giữa những người đồng giới xuất phát từ chức năng duy trì nòi giống của HN và xuất phát từ
việc nếu công nhận HN đồng giới cũng có nghĩa nhà nước đã trao quyền cho họ, việc đó
buộc nhà nước phải có những chính sách để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng
như có những sự điều chỉnh trong những quy định của PL nước mình cho phù hợp với việc
công nhận và việc này sẽ gây ra một sự xáo trộn rất lớn. Chính vì các lý do trên mà nước ta
không cấm cũng như không công nhận HN giữa những người cùng giới tính
Từ những phân tích trên về điều kiện KH chúng ta có thể thấy được rằng LHNGĐ 2014
đã có sự điều chỉnh và hoàn thiện các quy định của PL về điều kiện KH cho phù hợp với
thực tiễn nước ta so với những quy định của LHNGĐ 2000. Như vậy để việc KH trong thời
điểm này không trái với các quy định của PL thì hai bên khi đăng ký KH phải đảm bảo được
đầy đủ các điều kiện KH được quy định trong LHNGĐ 2014.
Câu 2: Nêu khái niệm KH trái PL, các trường hợp KH trái PL và cách thức xử lý
 Khái niệm KH trái PL:
 Khái niệm KH trái PL là hình thức KH không được PL thừa nhận mặc dù trong chừng
mực nào đó hành vi KH này có tuân thủ PL. KH trái PL là việc KH có đăng kí KH tại cơ
quan có thẩm quyền nhưng tại thời điểm KH một hoặc cả 2 bên tham gia việc KH vi phạm
các điều kiện KH do luật định. Việc KH trái PL sẽ bị xử lý theo quy định của quy định của
PL và không được NN bảo hộ như việc KH hợp pháp
 Các trường hợp KH trái PL:

Hoa Hồng Thép


- Thứ nhất, nam nữ tham gia KH khi chưa đạt đến độ tuổi theo luật định. Người nam
tham gia KH khi chưa đủ 20 tuổi, người nữ tham gia KH khi chưa đủ 18 tuổi. Việc KH này
trái với quy định của PL HNGĐ

- Thứ hai, thiếu sự tự nguyện của một hoặc cả hai bên nam nữ trong việc KH. Bên nam,
nữ hoặc cả hai bên tham gia KH do bị cưỡng ép, lừa dối, tảo hôn, kết hôn giả tạo. Việc KH
này không phản ánh đúng mong muốn của họ trong việc xác lập QH vợ chồng
- Thứ ba, người mất NLHVDS KH. Tại thời điểm KH, một hoặc cả hai bên nam, nữ tham
gia KH lâm vào tình trạng không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình nhưng
vẫn tham gia KH và được cơ quan hộ tịch công nhận
- Thứ tư, người tham gia vào việc KH đang trong tình trạng đang có vợ, có chồng. Đó là
những người đang tồn tại QHHN hợp pháp nhưng sử dụng các biện pháp khác nhau để đăng
kí KH với người khác, vi phạm chế độ HN một vợ, một chồng
- Thứ năm, những người tham gia KH là những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc
có họ trong phạm vi 3 đời. Đó là những người có cùng huyết thống hoặc có quan hệ huyết
thống gần nhau
- Thứ sáu, những người tham gia KH là cha, mẹ nuôi với con nuôi; những người đã từng
là cha, mẹ nuôi với con nuôi, đã từng là bố chồng với con dâu, đã từng là mẹ vợ với con rể,
đã từng là bố dượng với con riêng của vợ, đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng
 Khi phát hiện việc KH trái PL, theo yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền, TAND có quyền
ra quyết định hủy việc KH trái PL
 Xử lý các trường hợp KH trái PL
- Nếu tại thời điểm TAND giải quyết yêu cầu hủy việc KH trái PL mà cả hai bên đã có đủ
điều kiện KH theo luật định và hai bên yêu cầu công nhận QHHN thì:
+ TAND công nhận QHHN đó
+ QHHN được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện KH theo luật định
- Nếu tại thời điểm TAND giải quyết yêu cầu hủy việc KH trái PL mà cả hai bên có đủ
điều kiện KH theo luật định và một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc KH trái PL hoặc một bên
yêu cầu ly hôn còn bên kia không yêu cầu thì TAND quyết định hủy việc KH trái PL
- Nếu tại thời điểm TAND giải quyết yêu cầu hủy việc KH trái PL, hai bên vẫn không đủ
điều kiện KH mà một trong hai bên yêu cầu ly hôn, hoặc một trong hai bên yêu cầu công
nhận QHHN thì TAND bác bỏ yêu cầu của họ và ra quyết định hủy việc KH trái PL
Câu 3: Hãy trình bày về quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với TS chung


Hoa Hồng Thép


Để HN ổn định, lâu dài, bền vũng và hạnh phúc thì vấn đề vô cùng quan trọng đó là đời
sống vật chất ,kinh tế và TS của vợ và chồng. Thời kì HN có ý nghĩa trong việc xác định thời
điểm phát sinh TS chung. Vợ và chồng có nghĩa vụ và quyền TS giữa vợ và chồng ngang
nhau nhằm duy trì tạo lập phát triển TS chung ,chăm lo đời sống chung trong gia đình.
- TS chung của vợ chồng là TS thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Đó là sở
hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của các sở hữu chung không được xác định đối
với TS chung.
 Các loại TS chung của vợ chồng bao gồm:
 TS do vợ chồng tạo ra trong thời kì HN, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh trong thời kì HN
- Đây là nhóm TS chủ yếu của vợ chồng. Duy trì, phát triển TS chung, chăm lo đời sống
chung trong gia đình phần lớn đều dựa vào loại TS này. Khối TS chung của vợ chồng có thể
được tạo thành từ 3 nguồn: do người chồng tạo ra, do người vợ tạo ra và do cả hai vợ chồng
tạo ra. Xuất phát từ tính chất của QHHN là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong
việc tạo lập, chăm lo đời sống gia đình, nên PL không căn cứ vào sức đóng góp của mỗi
người. Do sức khỏe, năng lực, trình độ,…vợ và chồng có thể tạo lập khối TS chung không
ngang bằng nhau, nhưng PL vẫn thừa nhận quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đối với khối
TS chung đó.
 Các khoản thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì HN
- Thu nhập hợp pháp khác ở đây có thể được hiểu là số tiền mà vợ, chồng trúng xổ số; số
tiền thưởng mà vợ, chồng nhận được; hay khoản tiền trợ cấp,… Như vậy, các khoản thu
nhập hợp pháp này có thể do một mình người chồng hoặc người vợ có được, và thời điểm có
được này là trong thời gian họ đang là vợ chồng của nhau. Theo luật định, TS được coi là TS
chung phải có nguồn gốc hợp pháp. Nếu như vậy, TS do vợ hoặc chồng trộm cắp, buôn lậu,
tham nhũng,…mà có nguồn gốc bất hợp pháp thì sẽ không được xem là TS chung.
 TS mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung
- Đây là những TS mà vợ chồng được chủ sở hữu thể hiện ý chí chuyển giao quyền sở

hữu lại cho cả hai vợ chồng. Tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu TS, PL xác định
những TS này là của chung 2 vợ chồng. Để xác định là TS chung của vợ chồng, phải dựa
vào ý chí của người tặng cho, người để lại thừa kế. Theo luật định, TS mà vợ chồng được
thừa kế chung để trở thành TS chung chỉ có thể xảy ra trong trường hợp thừa kế thoe di
chúc, bởi vì diện và hàng thừa kế theo PL không có con dâu, con rể. Trong những trường
hợp đặc biệt, nếu cả vợ và chồng đều được hưởng thừa kế theo PL, thì phần mà mỗi người
được hưởng sẽ là TS riêng của người đó.
 TS riêng của vợ hoặc chồng nhưng họ đã đồng ý nhập vào khối TS chung

Hoa Hồng Thép


- Quy định này vừa thể hiện rõ quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với TS thuộc sở hữu
của mình, vừa thể hiện quyền của vợ chồng trong việc quyết định về phạm vi các TS thuộc
sở hữu chung. Loại TS chung này của vợ chồng thực chất được xác định vào ý thức chủ
quan của vợ, chồng. Việc nhập hay không nhập TS riêng của vợ, chồng vào khối TS chung
của vợ chồng hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của vợ, chồng, PL không can thiệp. Trường hợp
nhập TS riêng của một bên vào khối TS chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các
nghĩa vụ riêng của bên đó về TS (nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ cho người
khác,…) thì vô hiệu. Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về TS
giữa vợ chồng sau này, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể khác có liên quan.
 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với TS chung
 Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với TS chung (cùng chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt TS chung; bình đẳng với nhau không phân biệt giữa lao động trong gia
đình hay lao động có thu nhập): Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, mà mỗi gia đình có sự
bàn bạc, thỏa thuận, phân công giữa vợ và chồng trong việc quản lý TS chung. Việc quản lý
TS chung của vợ và chồng phảo đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tiến bộ. Đối với
TS chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt TS. Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối TS chung thể
hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến TS chung có

giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng TS để đầu tư, kinh doanh phải
được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận. Trong trường hợp vợ, chồng ủy quyền cho nhau thì
người được ủy quyền có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt TS chung trong phạm vi được
ủy quyền.
 TS chung của vợ chồng được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chung của gia đình
và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng: Mục đích sử dụng TS chung của vợ chồng
trước hết nhằm để đáp ứng các nhu cầu chung trong gia đình, như để ăn, ở, mua sắm đồ
dùng sinh hoạt,… phục vụ cho đời sống của các thành viên trong gia đình về vật chất, tinh
thần, đồng thời dùng để thực hiện các nghĩa vụ về TS của cả 2 vợ chồng. Về nguyên tắc, vợ
và chồng không được lấy TS chung để thỏa mãn các nhu cầu riêng tư của mình, các bên chỉ
có thể thực hiện điều này khi có sự đồng ý của cả 2 vợ chồng.
 Việc xác lập thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến TS chung của vợ chồng cần
phải được sự đồng ý của vợ và chồng: Việc định đoạt của vợ và chồng liên quan đến TS
chung sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của gia đình, do đó PL yêu cầu phải có sự bàn bạc,
cân nhắc thận trọng của hai vợ chồng và phải do 2 vợ chồng quyết định. Quy định này
không những thể hiện quyền bình đẳng mà còn nhằm bảo vệ quyền lợi cho gia đình. Trong
trường hợp thiếu sự thống nhất ý chí của một bên vợ hoặc chồng thì bên còn lại có quyền
yêu cầu tòa án tuyên bố gia dịch đó vô hiệu.
 Vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch do một bên thực hiện :
Khi vợ hoặc chồng thực hiện một giao dịch liên quan tới TS chung, phải có sự đồng ý của 2
vợ chồng. Tuy nhiên trong một số trường hợp, giao dịch của vợ hoặc chồng liên quan đến TS
chung có thể chỉ do một bên thực hiện, phía bên kia cho dù không biết hoặc biết nhưng
Hoa Hồng Thép


không đồng ý, vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm. Đó là gia dịch dân sự hợp pháp, nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình
Câu 4: Hãy trình bày về quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với TS riêng
 Các loại TS riêng của vợ và chồng bao gồm:
TS riêng của vợ, chồng có trước khi KH

TS được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ HN
TS chung của vợ, chồng nhưng họ đã chia riêng
TS phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng (đồ dùng cá nhân và tư trang)
 Quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với TS riêng
 Vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt TS riêng theo ý chí của mình
(phù hợp với quy định PL), miễn là không làm thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Xuất phát từ lợi ích
chung của gia đình, do đó trong trường hợp hợp TS chung không đủ để đáp ứng các nhu cầu
chung trong gia đình, thì vợ, chồng phải dùng TS riêng của mình để đáp ứng các nhu cầu đó.
Đối với các TS mà vợ, chồng đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì vợ, chồng
không có quyền đòi lại
 Vợ chồng có quyền quyết định nhập hoặc không nhập TS riêng của mình vào khối
TS chung của vợ chồng. Tuy nhiên, với những TS riêng khi tham gia giao dịch, PL yêu cầu
phải tuân theo hình thức nhất định thì vợ, chồng cũng phải tuân theo hình thức đó khi nhập
vào TS chung. Việc nhập TS riêng vào TS chung mà xâm phạm đến lợi ích gia đình hoặc
trốn tránh các nghĩa vụ về TS sẽ không được PL thừa nhận
 TS riêng của các bên vợ, chồng do họ tự quản lý. Trong trường hợp vợ hoặc chồng
không thể tự mình quản lý TS riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì PL
dành cho người chồng, người vợ của họ có quyền quản lý TS đó
 Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi KH. TS mà vợ, chồng có được trước khi
KH được xác định là TS riêng của người đó. Họ có toàn quyền sở hữu đối với khối TS này.
 Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt TS riêng. TS riêng gắn liền
với chủ sở hữu, về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một cách
độc lập về TS mà mình sở hữu. Vì vậy, những chi phí phát sinh trong quá trình quản lý, sử
dụng cũng chỉ gắn liền với chủ sở hữu
 Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của
gia đình. Nếu vợ, chồng tự thực hiện giao dịch nhưng chứng minh được giao dịch mà họ
thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch
Hoa Hồng Thép



này là nghĩa vụ chung của vợ và chồng. Ngược lại, nếu không chứng minh được giao dịch
mà mình thực hiện là nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì người đó phải thực
hiện bằng chính TS riêng của mình
 Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi VPPL của vợ, chồng. Những hành vi trái PL của vợ,
chồng như xâm phạm TS, tính mạng, sức khỏe của một ai đó dẫn đến hậu quả là phảu gánh
chịu trách nhiệm về TS thì là nghĩa vụ riêng của chính người đó.
 TS riêng của vợ, chồng được dùng để đáp ứng nhu cầu chung của gia đình (trong
trường hợp TS chung không đủ)
 Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có sau khi KH (mà không phải được thừa kế riêng,
tặng cho riêng) là TS chung của vợ chồng
 Lưu ý:
- Điểm mới của LHNGĐ 2014 thừa nhận chế độ TS theo luật định và theo thỏa thuận:
nam và nữ có quyền lựa chọn chế độ TS theo thỏa thuận (hoặc lựa chọn nhưng thỏa thuận
này bị TAND tuyên bố vô hiệu) thì sẽ áp dụng TS theo luật định
- Dù áp dụng chế độ TS nào thì cũng phải tuân thủ nguyên tắc chung:
+ Đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
+ Đảm bảo lợi ích chung của gia đình
+ Đảm bảo quyền lợi của người thứ ba ngay tình

Câu 5: Ai có quyền yêu cầu LH?Ai có thẩm quyền giải quyết việc LH?
HN là sự gắn kết từ hai phía nam và nữ. HN có thể được gọi là “kết thúc” đẹp của một
tình yêu trai gái. Khi KH, hai bên tự nguyện đến với nhau và được PL công nhận. Tuy nhiên
trong cuộc sống, có nhiều điều mà tình yêu không thể giải quyết được, các bên lựa chọn
cách giải thoát cho nhau bằng việc LH.
LH theo quy định tại khoản 14, điều 3, Luật HN và Gia đình năm 2014 là “LH là việc
chấm dứt QH vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực PL của Tòa án”.
 Quyền yêu cầu giải quyết LH được quy định tại Điều 51 Luật HN và Gia đình năm
2014 như sau:
 Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu TA giải quyết LH. KH và LH là

quyền tự nhiên của con người không ai có thể cưỡng ép hay cản trở. PL công nhận cho
nam, nữ quyền quyết định việc KH để xác lập QH vợ chồng thì cũng quy định cho vợ, chồng
Hoa Hồng Thép


quyền yêu cầu LH để chấm dứt QHHN. Như vậy, khi vợ, chồng nhận thức một cách rõ ràng
về tình trạng QHHN của họ đã trầm trọng, về việc họ không thể tiếp tục cuộc sống chung thì
họ có quyền yêu cầu toà án giải quyết LH. PL không buộc những người yêu nhau phải KH
với nhau thì cũng không buộc những người không còn yêu nhau phải tồn tại QH vợ chồng.
Do vậy, Luật HN và gia đình năm 2014, cũng như các luật trước đó đều quy định vợ, chồng
có quyền yêu cầu li hôn. Tuy nhiên, nếu QH vợ chồng đã không phản ánh đúng bản chất của
nó nhưng vợ chồng vẫn không muốn li hôn thì không ai có quyền buộc họ phải li hôn. HN tự
nguyện không chỉ thể hiện trong việc KH mà còn thể hiện cả trong việc tồn tại HN. Thực tế
cho thấy, nhiều cặp vợ, chồng nhận thấy cuộc sống chung của họ đã mất ý nghĩa, không
những không đem lại hạnh phúc cho mỗi bên mà còn mang lại sự khổ đau nhưng vì con, vì
gia đình… mà họ không LH.
 Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết LH khi một
bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ
của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Tuy nhiên, PL luôn hướng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những nhóm người
yếu thế, những người không thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ. Nếu chỉ
công nhận cho vợ, chồng có quyền yêu cầu LH thì sẽ không giải quyết được những trường
hợp đặc biệt khi một bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình lại bị ngược đãi, hành hạ… Thực tế đã có không
ít trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, bên kia không những không quan tâm, chăm sóc
theo đúng nghĩa vụ mà còn hành hạ, ngược đãi hoặc có các hành vi khác đe dọa đến sức
khoẻ, tính mạng của họ... Đối với trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên
vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được

hành vi của mình, Luật HN và gia đình năm 2014 quy định cha, mẹ, người thân thích khác
của một bên vợ, chồng có quyền yêu cầu toà án giải quyết li hôn.
 Chồng không có quyền yêu cầu LH trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nhiều người cho rằng chỉ khi đứa con mà người vợ đang
mang thai, sinh con hoặc nuôi dưới 12 tháng tuổi là con của người chồng hiện tại đó thì
người chồng mới không có quyền yêu cầu LH còn nếu đứa con của người vợ là con của một
người đàn ông khác người chồng hiện tại thì người chồng vẫn có quyền LH. Tuy nhiên theo
quy định của PL thì dù đứa trẻ đó là con của ai thì người chồng vẫn không có quyền yêu cầu
LH khi người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Quy định
này hướng đến mục đích tránh cho người phụ nữ mang thai, sinh con hoặc đang nuôi con
dưới 12 tháng tuổi khỏi những lo lắng, suy nghĩ tiêu cực; khỏi phải chịu đựng những khó
khăn về mặt tâm lý và vật chất của giai đoạn sau khi LH xuất phát từ yêu cầu người chồng
mang lại. Nếu người chồng đơn phương LH vợ trong thời gian này, việc LH sẽ tác động lớn
về mặt tâm lí theo chiều hướng xấu đối với người vợ và thai nhi hoặc trẻ nhỏ. Đây là một
quy định mang tính nhân văn của PL. Mặt khác, nếu trong trường hợp đang mang thai, sinh
con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà người vợ cảm thấy việc duy trì QH KH hiện tại
gây tác động xấu đến mình, ảnh hưởng tiêu cực đến thai nhi hoặc đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi
thì người vợ vẫn có quyền yêu cầu LH hoặc thuận tình LH theo yêu cầu của người chồng.
Hoa Hồng Thép


Như vậy, những quy định này được PL đặt ra thể hiện tinh thần nhân đạo, sự tiến bộ trong tư
tưởng của PL nói chung và PL HNGĐ nói riêng.
 Thẩm quyền giải quyết việc LH:
 Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết LH nói chung
- Theo khoản 14 Điều 3 Luật HN và gia đình 2014 quy định, LH là việc chấm dứt QH vợ
chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực PL của Tòa án. Như vậy, Tòa án là cơ quan có
thẩm quyền quyền quyết định chấm dứt QH vợ chồng khi họ có yêu cầu. Theo Điều 35 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện nơi vợ hoặc chồng cư trú có thẩm
quyền giải quyết LH.

- Vợ, chồng hoặc cả 2 người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết LH. Tòa án sẽ thụ lý đơn
yêu cầu LH, sau đó tiến hành hòa giải theo quy định của PL về tố tụng dân sự. Nếu vợ chồng
thuận tình LH, thỏa thuận phân chia TS, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của người vợ và con thì Tòa án công nhận
thuận tình LH. Trong trường hợp không thỏa thuận được hoặc thỏa thuận nhưng không đảm
bảo quyền lợi cho vợ và con thì Tòa án sẽ giải quyết LH.
- Trường hợp nếu vợ hoặc chồng yêu cầu LH, tức LH theo yêu cầu một bên mà hòa giải
tại Tòa án không thành, thì Tòa án giải quyết cho LH khi HN đã lâm vào tình trạng trầm
trọng, vợ chồng không thể sống chung, mục đích của HN không đạt được.
- QHHN chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định LH của Tòa án có hiệu lực PL. Tòa án
đã giải quyết LH phải gửi bản án, quyết định LH đã có hiệu lực PL cho cơ quan đã thực hiện
đăng ký KH.
 Thẩm quyền Tòa án giải quyết LH có yếu tố nước ngoài
- Theo Điều 35, 37, 39, 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền Tòa
án trong những vụ việc LH có yếu tố nước ngoài chia làm 2 trường hợp:
- Trường hợp tại thời điểm có yêu cầu Tòa án giải quyết việc LH mà bị đơn là người nước
ngoài hiện đang có mặt tại Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết LH có yếu tố nước ngoài do
Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc giải quyết.
- Trường hợp bị đơn là người nước ngoài tại thời điểm nguyên đơn có yêu cầu Tòa án giải
quyết việc LH không có mặt ở Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết LH có yếu tố nước ngoài
do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi nguyên đơn cư trú, làm việc giải quyết.
Câu 6: Hãy trình bày hậu quả pháp lý của việc LH
LH là sự tan vỡ của một gia đình và sự tan vỡ này sẽ làm phát sinh ra hàng loạt các vấn đề
cần giải quyết dưới góc độ xã hội cũng như góc độ pháp lý. Hậu quả pháp lý của LH là nội
dung quan trọng của chế định LH. Nó giúp giải quyết và ổn định các QH sau khi LH, giảm
Hoa Hồng Thép


nhẹ những ảnh hưởng tác động không tốt của LH đến các chủ thể liên quan và xã hội. Thời
điểm bản án hay quyết định cho LH của TA có hiệu lực PL chính là thời điểm phát sinh việc

giải quyết các hậu quả pháp lý của nó.
 QH nhân thân giữa vợ và chồng:
- QHHN giữa vợ và chồng vốn là mối QH thiêng liêng, về bản chất QH này không mang
tính vụ lợi, vợ chồng sẵn sàng chia sẻ và hi sinh vì nhau. Mục đích của HN là xây dựng một
gia đình bền vững, vợ chồng sẽ chung sống suốt đời với nhau. Tuy nhiên, không phải mọi
QHHN đều đạt được mục đích vô cùng tốt đẹp này. Khi một trong các bên vợ, chồng vì
nhiều lý do khác nhau không muốn duy trì đời sống chung của gia đình, các giá trị gia đình
không được tôn trọng, nuôi dưỡng đều dẫn đến sự tan vỡ của một gia đình. Khi bản án hoặc
quyết định LH của TA có hiệu lực PL, các đương sự chấm dứt QH vợ chồng, các quyền và
nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng chấm dứt hoàn toàn. Họ không còn nghĩa vụ chung thủy,
yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Kể từ thời điểm này, người vợ, người chồng
trước đây trở thành những chủ thể độc lập. Khi bản án xử cho LH hay quyết định công nhận
thuận tình LH có hiệu lực PL thì các bên LH có quyền KH với người khác.
 QH TS giữa vợ và chồng:
Khi QHHN chấm dứt, việc giải quyết vấn đề TS khi vợ chồng LH là một trong những cơ
sở để hình thành các tranh chấp phức tạp và khó giải quyết trong hậu quả pháp lý của LH.
 Chia TS của vợ chồng khi LH: Theo quy định của PL HNGĐ hiện hành thì chế độ TS
của vợ chồng gồm 2 loại: chế độ TS theo luật định và chế độ TS theo thỏa thuận. Việc chia
TS khi LH được thực hiện phụ thuộc vào chế độ TS mà các bên đã lựa chọn khi KH
- Theo thỏa thuận: Nếu văn bản thỏa thuận về chế độ TS của vợ chồng không bị TA
tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia TS của vợ
và chồng khi LH. Ngược lại, nếu bị TA tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ TS của
vợ chồng theo luật định để chia TS của vợ chồng khi LH.
- Theo luật định: Nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của
hai vợ chồng, TA giải quyết theo quy định của PL
+ Thứ nhất, TS riêng của vợ và chồng: Khi vợ chồng LH, TS riêng của bên nào thì
thuộc quyền sở hữu của bên đó, trừ trường hợp TS riêng đã nhập vào TS chung theo quy
định của PL. Tromg trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa TS riêng với TS chung mà vợ,
chồng có yêu cầu về chia TS thì được thanh toán phần giá trị TS của mình đóng góp vào
khối TS đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

+ Thứ hai, chia TS chung của vợ và chồng: TS chung của vợ và chồng được chia theo
thỏa thuận của các bên vợ chồng. Vợ chồng có thể tự nguyện thỏa thuận việc chia TS chung
thành hai phần bằng nhau hoặc chia theo các tỷ lệ nhất định trên cơ sở sự thống nhất ý chí
của vợ và chồng. Khi vợ chồng không thể thỏa thuận được về việc chia TS chung thì họ có
Hoa Hồng Thép


quyền yêu cầu TA giải quyết. TA thực hiện việc chia TS chung cho các bên vợ chồng trên cơ
sở tuân thủ các nguyên tắc chia TS chung của vợ chồng khi LH được PL HNGĐ quy định.
TS chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
 Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng
 Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối TS
chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập
 Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập
 Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
 TS chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện
vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần TS bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình
hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch
 Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên
nhưng mất NLHVDS hoặc không có khả năng lao động và không có TS để tự nuôi mình
 Việc thanh toán nghĩa vụ chung về TS của vợ và chồng: Nghĩa vụ chung của vợ
chồng được hiểu là nghĩa vụ phát sinh trong các giao dịch dân sự do hai bên vợ chồng cùng
xác lập và tham gia. Cả hai vợ chồng cùng chung tư cách là một bên chủ thể trong các giao
dịch dân sự làm phát sinh nghĩa vụ. VD: Vợ chồng cùng ký hợp đồng vay vốn ngân hàng với
tư cách là chủ thể bên vay. Việc thực hiện nghĩa vụ chung về TS của vợ, chồng do vợ, chồng
tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu TA giải quyết.
 Giải quyết quyền lợi con chung: Sau khi LH, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất
NLHVDS, không có khả năng lao động và không có TS để tự nuôi mình. QH cha mẹ con cái

tồn tại hoàn toàn không phụ thuộc vào QHHN của cha mẹ.
- Xác định người nuôi con trong trường hợp cha, mẹ LH:
+ Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau
khi LH đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu TA giải quyết.
Khi giải quyết việc giao con cho một bên vợ hoặc chồng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, TA
cần dựa vào những căn cứ mà PL quy định:
 Thứ nhất, cơ sở của việc giao con cho một bên cha hoặc mẹ nuôi phảo căn cứ
vào quyền lợi mọi mặt của con: Để xác định người đảm bảo tốt quyền lợi mọi mặt của con
thì TA sẽ xem xét điều kiện thực tế của vợ và chồng, tư cách đạo đức, điều kiện kinh tế, thời
gian có thể dành cho con của vợ, chồng,…Trên cơ sở đó TA quyết định một trong các bên vợ

Hoa Hồng Thép


hoặc chồng, người có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tốt hơn thì giao cho
người đó.
 Thứ hai, nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con: Khi
TA giải quyết việc giao con cho cha hoặc mẹ nuôi, nếu con đạt 7 tuổi trở lên thì TA phải
tham khảo ý kiến của trẻ về việc tẻ muốn sống với ai trong hai bên cha hoặc mẹ. Tuy nhiên,
ý kiến của trẻ không có ý nghĩa quyết định buộc TA tuân thủ mà chỉ có ý nghĩa tham khảo
khi TA ra quyết định cuối cùng về việc giao trẻ cho cha hoặc mẹ nuôi dưỡng.
 Thứ ba, con dưới 36 tháng tuổi thì giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con: Thiên chức của người mẹ giúp
cho mẹ thực hiện việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con ở độ tuổi nhỏ tốt hơn bất kỳ
một người nào khác. Tuy nhiên trong một số trường hợp (bị nghiện ma túy, có lối sống đòi
trụy, đang trong thời hạn thi hành án phạt tù có giam giữ,…) thì người mẹ không thể thực
hiện việc trông nom, nuôi dưỡng dù con dưới 36 tháng tuổi, TA vẫn phải giao cho người cha
nuôi để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của người con
 Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi LH: Trong trường hợp có yêu cầu của

cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của PL, TA có thể quyết định việc thay đổi
quyền trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
 Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với
lợi ích của con
 Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
 Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ
đủ 7 tuổi trở lên
 Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đêu không đủ điều kiện trực tiếp
nuôi con thì TA quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của BLDS
- Quyền thăm nom con sau khi LH: Khi vợ chồng LH thì QHHN chấm dứt, nhưng QH
giữa cha, mẹ và con cái là QH huyết thống kéo dài suốt đời. Tuy nhiên, không phải ai cũng
tôn trọng, thực hiện đúng nghĩa vụ và vai trò của mình trong mối QH này, phổ biến là tình
trạng người nuôi con cố tình gây khó, ngăn cản người kia thăm nom và chăm sóc con chung.
Theo Điều 82 LHNGĐ 2014 quy định nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi
con sau khi LH: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con
được sống chung với người trực tiếp nuôi; Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ
cấp dưỡng cho con; Sau khi LH, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm
nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo

Hoa Hồng Thép


dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con
của người đó”.
- Cấp dưỡng nuôi con khi LH: Cùng với việc giao con cho ai nuôi dưỡng, TA đồng thời
phải giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con đối với người không sống chung với con Khi cha
mẹ LH, con sống với một bên cha hoặc mẹ thì người không sống chung với con vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhưng dưới một hình thức khác


------------  The end  ------------ Good luck to you 

Hoa Hồng Thép



×