Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

khóa luận sơn thực trạng và giải pháp nhằm phát triển bền vững tại khu du lịch Tràng An tại Ninh Bình làm đề tài khóa luận của mình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 110 trang )

LỜI CẢM ƠN
Ông cha ta đã có câu: “Không thầy đố mày làm nên” nói lên sự
trân trọng và vai trò không thể thiếu của người thầy trong sự thành
công của mỗi con người. Đối với em, trong thời gian học tập tại
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, em rất may mắn nhận được sự
quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình của quý thầy cô giáo. Em xin gửi
lời cảm ơn chân thành nhất đến quý thầy cô giáo Trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội, đặc biệt là quý thầy cô giáo công tác tại khoa Du
Lịch. Quý thầy cô chính là những người trang bị cho sinh viên chúng
em những kiến thức, sự nhiệt tình, ham học hỏi, đam mê nghề
nghiệp… những hành trang quan trọng cho cuộc sống.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo
-Th.s Nguyễn Thị Bích Ngọc đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em
hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.
Trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp, trình độ hiểu biết của
bản thân còn hạn chế nên việc phân tích, nghiên cứu, đưa ra biện pháp
không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ
dẫn và góp ý của quý thầy cô giáo để bài luận văn của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06, tháng 11, năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thành Sơn
1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt



Ý nghĩa

1

BQL

Ban quản lý

2

DTLSVH

Di tích lịch sử văn hóa

3

KDL

Khách du lịch

4

TNDL

Tài nguyên du lịch

5

PGS, TS, ThS


Phó giáo sư, Tiến sỹ, Thạc sỹ

2


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Stt
1
2
3
4
5
6

7

Tên bảng
Bảng 2.1. Thống kê cấp độ khách sạn tại tỉnh Ninh
Bình.
Bảng 2.2. Bảng thống kê các cơ sở dịch vụ ăn uống tại
tỉnh Ninh Bình
Bảng 2.3. Thống kê các phương tiện vận chuyển phục
vụ cho du lịch tại tỉnh Ninh Bình
Bảng 2.4. Lượng khách du lịch của tỉnh Ninh Bình
(2015-2018)
Bảng 2.5. Doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh du lịch của Ninh Bình.
Bảng 2.6. Trình độ học vấn của lực lượng lao động
tỉnh Ninh Bình

Bảng 2.7. Thống kê trình độ ngoại ngữ của lực lượng

Trang
57
63
64
67
69
73
75

lao động tỉnh Ninh Bình

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

3


Stt
1

Hình
Hình 2.1. Số lượng khách sạn tại Ninh Bình phân theo
cấp độ

Trang
58

Hình 2.2. Số lượng cấp độ nhà hàng tại tỉnh Ninh
2


3

Bình.

63

Hình 2.3. Số lượng các phương tiện vận chuyển phục
vụ du lịch tại tỉnh Ninh Bình.

64

Hình 2.4. Lượng khách du lịch của Ninh Bình .
4

5
6
7

68
Hình 2.5. Doanh thu lợi nhuận từ hoạt động du lịch
của tỉnh Ninh Bình.
Hình 2.6. Tỉ lệ trình độ học vấn học vấn của tỉnh Ninh
Bình năm 2018.
Hình 2.7. Tỉ lệ trình độ ngoại ngữ của lực lượng lao
động tỉnh Ninh Bình.

70
73
75


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á. Chính vì vậy mà nó
mang đầy đủ những nét văn hóa của Á Đông nhưng vẫn mang trong
4


mình những nét riêng độc đáo mà không một quốc gia nào có được.
Người Việt Nam luôn hiền lành, thật thà, hiếu khách khiến cho khách du
lịch quốc tế đến đây một lần rồi lại muốn quay lại. Từ bắc vào nam trải
qua nhiều vĩ độ nên Việt Nam rất đa dạng và phong phú không chỉ về địa
hình mà còn cả con người, mỗi vùng đều có một đặc điểm, bản sắc văn
hóa khác nhau.
Trong đó, Ninh Bình được biết đến là một cố đô sầm uất một thời,
là thủ phủ của Việt Nam xưa mà cả đất nước hướng về. Nói đến Ninh
Bình không thể không nhắc tới Tràng An. Tràng An là một khu du lịch
sinh thái nằm trong quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc tỉnh Ninh
Bình. Nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia
đặc biệt quan trọng và UNESCO công nhận là di sản thế giới kép từ năm
2013. Tràng An với hệ thống dãy núi đá vôi có tuổi địa chất khoảng 250
triệu năm, qua thời gian dài phong hóa bởi sự biến đổi của trái đất, khí
hậu, biển tiến, biển thoái đã mang trong mình hàng trăm thung lũng,
hang động, hồ đầm. Danh thắng này là nơi bảo tồn và chứa đựng nhiều
hệ sinh thái rừng ngập nước, rừng trên núi đá vôi, các di chỉ khảo cổ học
và di tích lịch sử văn hóa. Hệ thống núi đá, sông suối, rừng và hang động
ở Tràng An rất hiểm trở nên được Vua Đinh Tiên Hoàng chọn làm thành
Nam bảo vệ Kinh đô Hoa Lư ở thế kỷ X và sau đó Nhà Trần sử dụng làm
hành cung Vũ Lâm trong kháng chiến Nguyên Mông. Hiện nay nơi đây
còn nhiều di tích lịch sử thời Đinh và thời Trần.

Liên khu danh thắng Tràng An - Tam Cốc – Bích Động – Cố đô Hoa
Lư - rừng đặc dụng Hoa Lư hiện được quy hoạch chung vào quần thể
danh thắng Tràng An, trở thành di sản thế giới kép đầu tiên ở Việt Nam
với những giá trị nổi bật về cảnh quan thiên nhiên, lịch sử văn hóa và
kiến tạo địa chất và cũng là địa danh được đầu tư để trở thành một khu
du lịch tầm cỡ quốc tế.
5


Với mục đích nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Ninh Bình
trên quan điểm bền vững, là nguyên nhân để em lựa chọn đề tài: Nghiên
cứu thực trạng và giải pháp nhằm phát triển bền vững tại khu du lịch
Tràng An tại Ninh Bình làm đề tài khóa luận của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng về sự phát triển du lịch bền
vững tại Tràng An – Ninh Bình, từ đó đề xuất một số giải pháp góp
phần phát triển du lịch tại Tràng An – Ninh Bình một cách bền vững.
Để không chỉ các thế hệ hiện tại được hưởng các nguồn lợi từ Tràng
An đem lại mà cả các thế hệ tương lai chúng ta cũng được hưởng lợi
từ nguồn tài nguyên du lịch này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu



Xây dựng cơ sở lý luận về du lịch bền vững.
Khảo sát và đánh giá thực trạng phát triển du lịch bền vững tại



Tràng An – Ninh Bình.

Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại
Tràng An – Ninh Bình.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể: du lịch tại Tràng An.
Đối tượng nghiên cứu: phát triển du lịch bền vững.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: “Phát triển hoạt động du lịch bền vững”.
Không gian: Khu du lịch Tràng An.
Thời gian: Khóa luận được thực hiện từ 13/8/2018 đến 6/11/2018
6. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Đối với phương pháp này, em đã đến ban quản lý khu du lịch
Tràng An để xin các thông tin về việc phát triển du lịch ở đây như lượng
6


khách, lực lượng lao động tham gia vào hoạt động du lịch… Sau đó, từ
những số liệu xin được, em sử lý số liệu theo phương pháp thô để đưa ra
kết quả và từ đó ta thấy được thực trạng phát triển du lịch bền vững tại
Tràng An như thế nào.
Phương pháp khảo sát thực địa
Đối với phương pháp này, em đã đến thực địa tại Tràng An 2 lần
để làm rõ hơn các thông tin mình tìm hiểu trên sách báo, trên internet…
như là thực tế cảnh quan môi trường nơi đây, người dân ở đây có thực sự
được tham gia vào hoạt động du lịch và hưởng lợi từ hoạt động du lịch
này không, hay xin trực tiếp các số liệu về khách du lịch hay nguồn lao
động, cơ sở du lịch… làm cho thông tin của mình về khu du lịch Tràng
An một cách đầy đủ và chính xác nhất và từ đó tìm ra những giải pháp
có tính khả thi nhằm hướng tời du lịch Tràng An phát triển một cách bền

vững.
Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh
Đối với phương pháp này, thì từ các tài liệu em thu thập được kết
hợp với việc đi khảo sát thực tế thì em tổng hợp kết quả lại và phân tích
sau đó so sánh với các cơ sở du lịch khác, các tỉnh thành, các đất nước
khác hiện nay đang làm du lịch bền vững rất tốt ví dụ như Đà Nẵng hay
Myanmar, Singapor… để tìm ra những giải pháp nhằm góp phần khắc
phục những tồn tại, bất cập tại du lịch Tràng An, hướng Tràng An đến
với việc phát triển du lịch bền vững.
Phương pháp điều tra xã hội
Với phương pháp này, em có sử dụng hệ thống bảng hỏi để điều
tra các vấn đề như người dân có thực sự được trực tiếp tham gia vào hoạt
động du lịch hay không, người dân có thực sự được chia sẻ về quyền lợi
kinh tế hay không, hay về vấn đề môi trường thì môi trường có bị xuống
cấp hay không, sự bảo vệ môi trường có được thực hiện hay không để
7


thấy được thực trạng hiện nay cũng như tìm ra những giải pháp thiết thực
nhất giúp du lịch Tràng An phát triển theo hướng bền vững.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Ý nghĩa khoa học: Đề tài đem lại cái nhìn đầy đủ hơn về khu du lịch
Tràng An và vai trò của các tài nguyên du lịch cũng như tiềm năng to lớn
của chúng trong việc phát triển du lịch bền vững tại đây.
Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả của việc điều tra, nghiên cứu và
những giải pháp đưa ra có thể áp dụng vào việc quy hoạch phát triển du
lịch bền vững.
8. Bố cục của đề tài
Khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, chú thích, phụ lục, tài liệu
tham khảo, được chia làm 3 chương như sau:

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN
VỮNG
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TẠI KHU DU LỊCH TRÀNG AN – NINH BÌNH
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN
VỮNG TẠI KHU DU LỊCH TRÀNG AN – NINH BÌNH

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Du lịch
Du lịch là một trong những ngành kinh tế năng động nhất hiện nay.
Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) đã thống kê có tới 698 triệu khách du
8


lịch quốc tế trong năm 2000, tạo ra thu nhập từ du lịch đạt 476 tỷ đô la.
Số thu nhập trên chiếm hơn 8% của tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới
và bằng khoảng 1/3 doanh thu khối dịch vụ của cả thế giới. Du lịch sẽ
nhanh chóng trở thành bộ phận quan trọng nhất của thương mại quốc tế.
Du lịch nội địa cũng có vị trí rất quan trọng và đến nay du lịch nếu cộng
cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa đã trở thành ngành “công nghiệp”
lớn nhất hành tinh. Trong một thời gian dài du lịch quốc tế đã liên tục
phát triển với tốc độ khoảng 4-5%/năm. Theo dự báo của WTO thì sẽ có
khoảng 1 tỷ khách du lịch quốc tế vào năm 2010 và khoảng 1,6 tỷ khách
du lịch quốc tế vào năm 2020. Doanh thu từ du lịch quốc tế sẽ vào
khoảng 1000 tỷ đôla vào năm 2010 và khoảng 2000 tỷ đôla vào năm
2020. Du lịch nội địa sẽ tiếp tục mở rộng tại nhiều nước trên phạm vi
toàn cầu.
Năm 1941, theo định nghĩa của Hunziker và Kraff: “Du lịch là tổng

hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu
trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi
làm việc thường xuyên”.
Vào năm 1963, Liên hợp quốc định nghĩa về du lịch như sau: “Du
lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế
bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở
bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa
bình. Nơi họ đến lưu trú không phải nơi làm việc của họ”
Theo luật du lịch Việt Nam ra đời vào năm 2005 đã đưa ra khái niệm
về du lịch như sau:
“Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”
1.1.2. Khái niệm phát triển du lịch bền vững

9


Phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu
tố cấu thành khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa…
Phát triển là xu hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung,
của xã hội loài người nói riêng. Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình
nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát
triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, nâng cao các giá trị văn hóa
cộng đồng. Sự chuyển đổi của các hình thái xã hội từ xã hội công xã
nguyên thủy lên chiếm hữu nô lệ rồi lên phong kiến và đến xã hội tư bản…
được coi là một quá trình phát triển.
Mục tiêu của phát triển là nâng cao điều kiện và chất lượng sống
của con người, làm cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên, tạo lập
một xã hội công bằng và bình đẳng giữa các thành viên. Các mục tiêu

phát triển thường được cụ thể hóa bằng những chỉ tiêu về đời sống vật
chất như lương thực, nhà ở, điều kiện đảm bảo sức khỏe và đời sống tinh
thần như giáo dục, mức hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật, sự bình đẳng xã
hội, tự do chính trị, truyền thống lịch sử của từng quốc gia.
Sau một thời gian dài phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới,
bên cạnh những lợi ích xã hội, nâng cao điều kiện sống cho con người,
hoạt động phát triển cũng đã và đang làm cạn kiệt tài nguyên, gây ra
những tác động tiêu cực làm suy thoái môi trường Trái đất. Trước những
thực tế không thể phủ nhận là môi trường ngày càng bị ô nhiễm bởi các
chất thải từ các hoạt động kinh tế, nhiều hệ sinh thái đã bị suy thoái ở
mức báo động, nhiều loại sinh vật đã và đang có nguy cơ diệt vong, ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của xã hội qua nhiều thế hệ… Từ
nhận thức này đã xuất hiện một khái niệm mới của con người về hoạt
động phát triển, đó là “phát triển bền vững”.
Lý thuyết về phát triển bền vững xuất hiện khoảng giữa những
năm 1980 và vào năm 1987 chính thức được đưa ra tại hội nghị của Ủy
10
10


ban Thế giới về Phát triển và Môi trường nổi tiếng với tên gọi ủy ban
Brundtland.
Ủy ban Brundtland đã đưa ra định nghĩa về phát triển bền vững
như sau: “Phát triển bền vững được hiểu là hoạt động phát triển kinh tế
nhằm đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau”.
Nhưng khi phân tích theo định nghĩa trên của ủy ban Brundtland
thì nội dung chủ yếu chỉ xoay quanh vấn đề về phát triển kinh tế. Mặc dù
còn nhiều tranh luận xung quanh khái niệm về phát triển bền vững ở
những góc độ khác nhau, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng cho đến nay

khái niệm mà Ủy ban Brundtland đã đưa ra vào năm 1987 được sử dụng
rộng rãi, làm chuẩn mực để so sánh các hoạt động phát triển có trách
nhiệm đối với môi trường sống của con người.
Khi nghiên cứu kỹ khái niệm về phát triển bền vững mà Ủy ban
Thế giới về Phát triển và Môi trường đưa ra vào năm 1987 thì có hai vấn
đề được phân tích sâu đó là:
Nhu cầu trong giới hạn của định nghĩa này được hiểu là các nhu
cầu thiết yếu được giành ưu tiên cho những người được xem là nghèo
nhất trên thế giới.
Hạn chế việc lạm dụng khả năng tự phục hồi của môi trường tự
nhiên trong việc khai thác tài nguyên đáp ứng các nhu cầu bằng việc
khuyến khích ứng dụng các tiến bộ về khoa học công nghệ và sự giúp đỡ
của các tổ chức xã hội.
Để đảm bảo cho các hoạt động phát triển bền vững, cần thiết phải
xem xét một cách đồng bộ đến các khía cạnh về văn hóa - xã hội, tự
nhiên và kinh tế.
11
11


Theo quan niệm của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới đưa ra
vào năm 1980 thì: “Phát triển bền vững phải cân nhắc đến hiện trạng
khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều
kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành
động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. Điều này khẳng định rằng
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các nước trên thế giới
phải được xác định trong mối quan hệ bền vững.
Tại Hội nghị về Môi trường toàn cầu RIO - 92, quan niệm về phát
triển bền vững được các nhà khoa học bổ sung. Theo đó, phát triển bền
vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp của 3 hệ

thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hóa - xã hội.

Hình 1.1. Quan niệm về phát triển bền vững
Dưới quan niệm phát triển này, vào năm 1992, Jacobs và Sadler đã
cho rằng: Phát triển bền vững là kết quả tương tác qua lại và phụ thuộc
lẫn nhau của 3 hệ thống nói trên đồng thời xác định phát triển bền vững
không cho phép con người vì sự ưu tiên phát triển của hệ này mà gây ra
sự suy thoái và tàn phá đối với hệ khác, hay nói cụ thể hơn thì phát triển
bền vững là sự dung hòa các tương tác và sự thỏa hiệp giữa 3 hệ thống
12
12


nói trên nhằm đưa ra các mục tiêu hẹp hơn cho sự phát triển bền vững,
bao gồm:
- Tăng cường khả năng tham gia có hiệu quả của cộng đồng vào
những quyết định mang tính chất chính trị trong quá trình phát triển của
xã hội.
- Tạo ra những khả năng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà
không làm suy thoái tài nguyên thông qua việc áp dụng những thành tựu
mới về khoa học kỹ thuật.
- Giải quyết các xung đột trong xã hội do phát triển không công
bằng.
Ở Việt Nam, lý luận về phát triển bền vững cũng đã được các nhà
khoa học và lý luận quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây. Trên
cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý luận và kinh nghiệm quốc
tế về phát triển bền vững, đối chiếu với những hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam đã thấy Việt Nam là một quốc gia có diện tích tự nhiên vào loại
trung bình trên thế giới, trong đó ¾ là địa hình đồi núi với hơn 3200 km
đường bờ biển, trải dài trên 15 vĩ tuyến Việt Nam có tiềm năng tự nhiên

và môi trường phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
tài nguyên thiên nhiên, môi trường Việt Nam đã bị nhiều tác động đặc
biệt là hậu quả của hai cuộc chiến tranh và tiếp đó là việc khai thác thiếu
cơ sở của con người. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu lý luận làm cơ
sở để phân tích đưa ra các giải pháp đảm bảo sự phát triển bền vững phù
hợp với đặc điểm của Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách.
Chỉ thị số 36/CT của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng ngày 25/6/1998 đã xác định mục tiêu và các quan điểm cơ bản cho
phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường. Đồng
thời trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng VIII vào năm 1996 cũng đã
13
13


chính thức đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng
hợp lý tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển
bền vững.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định chiến lược phát triển của nước ta trong khoảng 20 năm tới là:
“Phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường”. “Sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và
cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một nội dung
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh
tế xã hội”. Có thể thấy rằng, nhận thức về phát triển bền vững dựa trên 3
mặt: kinh tế, xã hội và môi trường đã được thể hiện một các rõ ràng,
chính xác trong đường lối phát triển của Đảng.
Từ các nội dung trên, có thể thấy vấn đề phát triển bền vững ở
Việt Nam đã và đang được Đảng và Nhà nước cũng như các cấp chính

quyền rất quan tâm, nhằm khai thác có hiệu quả và lâu dài các tiềm năng
to lớn về tài nguyên, môi trường phục vụ cho mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam giàu đẹp, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đời sống
người dân không ngừng được cải thiện với việc bảo tồn các giá trị văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Khái niệm về phát triển du lịch bền vững không tách rời khái niệm
phát triển bền vững nên ngay từ những năm 1980, khi các vấn đề về phát
triển bền vững được đề cập và tiến hành nghiên cứu thì đã có nhiều
nghiên cứu khoa học được thực hiện nhằm đưa ra các khía cạnh ảnh
hưởng của du lịch có liên quan đến phát triển bền vững. Nhiệm vụ trọng
tâm của những nghiên cứu này nhằm để giải thích cho sự cần thiết phải
đảm bảo tính toàn vẹn của môi trường sinh thái, các giá trị văn hóa trong
14
14


khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du
lịch, góp phần tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Ở một góc độ khác có thể dễ dàng nhận thấy du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp có định hướng tài nguyên, bao gồm tài nguyên tự nhiên
và tài nguyên nhân văn. Từ đó, ta thấy rõ sự phát triển của du lịch gắn
liền với môi trường. Chính vì vậy, bản thân sự phát triển của du lịch đòi
hỏi phải có sự phát triển bền vững chung của xã hội và ngược lại.
Từ thập niên 1990, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều
đến sự phát triển của du lịch với mục đích đơn thuần về kinh tế đang đe
dọa và hủy hoại môi trường sinh thái, đến các nền văn hóa bản địa. Hậu
quả của các tác động này sẽ lại ảnh hưởng đến bản thân sự phát triển lâu
dài của ngành du lịch. Chính vì vậy, đã xuất hiện yêu cầu nghiên cứu
“Phát triển du lịch bền vững” nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của
hoạt động du lịch và đảm bảo sự phát triển lâu dài. Từ đây đã xuất hiện

một số loại hình du lịch bước đầu quan tâm đến khía cạnh môi trường
xuất hiện như: du lịch sinh thái, du lịch dựa vào thiên nhiên, du lịch
khám phá, du lịch mạo hiểm… đã góp phần nâng cao hình ảnh về một
hướng phát triển có trách nhiệm, làm cho du lịch ngày càng trở nên thân
thiện hơn với môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Hiện nay, trong quá trình thống nhất về nhận thức, quan niệm về
phát triển du lịch bền vững vẫn còn những bất đồng, đặc biệt giữa quan
điểm coi phát triển du lịch bền vững cần đảm bảo nguyên tắc chính là
bảo tồn tài nguyên, môi trường và văn hóa với quan điểm cho rằng
nguyên tắc hàng đầu của phát triển du lịch bền vững là sự tăng trưởng về
kinh tế do du lịch đem lại.
Dưới góc độ về kinh tế mà sự quan tâm chủ yếu đối với phát triển
du lịch là lợi nhuận thì “Du lịch bền vững là quá trình hoạt động du lịch
mà ở đó có thể duy trì được sự phát triển trong một thời gian, giai đoạn
không xác định”. Tuy nhiên, quan niệm này chịu rất nhiều sự chỉ trích,
15
15


phê phán của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu về môi
trường và tài nguyên.
Đa số cho rằng du lịch bền vững được hiểu là “Hoạt động khai
thác môi trường tự nhiên và văn hóa nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng
của khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích dài hạn, đồng thời tiếp tục
duy trì các khoản đóng góp cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần
nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương”.
Năm 1992, tại Hội nghị về môi trường và Phát triển của Liên hợp
quốc tại Rio de Janeiro, Tổ chức Du lịch Thế giới - WTO đã đưa ra định
nghĩa về du lịch bền vững như sau: “Du lịch bền vững là việc phát triển
các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du

lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và
tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong
tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên
nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người
trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học,
sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống
của con người”.
Năm 1995, Hội nghị chính thức về phát triển du lịch bền vững
được tổ chức ở Lanzarote, Tây Ban Nha. Hội nghị đã cho ra đời một
Hiến chương về du lịch bền vững. Năm 1997, trong báo cáo "Chương
trình nghị sự 21 trong ngành công nghiệp du lịch và lữ hành: hướng đến
sự phát triển bền vững về môi trường", WTO (World Tourism
Organization) và WTTC (World Travel & Tourism Council) đã xác định
du lịch bền vững là:
"Sự phát triển du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu của du khách và
cộng đồng địa phương trong hiện tại và trong khi vẫn duy trì và nâng
cao những cơ hội đó cho các thế hệ tương lai. Du lịch bền vững dựa trên
16
16


sự quản lí tất cả các tài nguyên theo cách mà nhu cầu về kinh tế, xã hội
và thẩm mĩ được thỏa mãn trong khi vẫn duy trì sự hợp nhất về văn hóa,
đa dạng sinh học, các quá trình sinh thái cơ bản và các hệ sinh thái. Các
sản phẩm du lịch bền vững là những sản phẩm được quản lí trong sự hài
hòa với môi trường, cộng đồng và các nền văn hóa địa phương để chúng
có thể trở thành những phúc lợi lâu dài của sự phát triển du lịch".
Định nghĩa trên đây cho thấy rằng về lâu dài, sự phát triển của du
lịch phải đi kèm theo việc bảo tồn các giá trị môi trường, xã hội và sinh
thái trong khi vẫn duy trì hoặc nâng cao hiệu quả của các hoạt động du

lịch. Để đạt được điều này, các hệ thống quản lí liên quan phải luôn đảm
bảo sao cho sự phát triển du lịch sẽ ít gây ra tác động tiêu cực đến môi
trường nhất. Vì vậy, phát triển với tôn chỉ bảo tồn và tiết kiệm tài nguyên
thay vì bị chi phối bởi các động lực thị trường chính là nền tảng của phát
triển bền vững nói chung và của phát triển du lịch bền vững nói riêng.
Theo Luật Du lịch Việt Nam - 2005 đã nêu khái niệm về du lịch
bền vững như sau: “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng
được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu về du lịch của tương la.”
Du lịch bền vững ở Việt Nam là một khái niệm còn mới mẻ,
nhưng thông qua các bài học và kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch
tại nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nhận thức về một
phương thức phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường, có tác
dụng giáo dục, nâng cao hiểu biết cho cộng đồng đã xuất hiện ở Việt
Nam. Mặc dù còn những quan điểm chưa thật sự thống nhất về khái
niệm phát triển bền vững nhưng đến nay đa số ý kiến các chuyên gia
trong lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực có liên quan khác ở Việt Nam đều
cho rằng: “Phát triển du lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý
các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng
17
17


của khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích kinh tế dài hạn trong khi
vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên,
duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển hoạt động du lịch
trong tương lai, cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao
mức sống của cộng đồng địa phương”.
Như vậy, du lịch bền vững cần chú trọng giải quyết một số vấn đề
sau:

- Góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa
phương, nơi diễn ra các hoạt động du lịch.
- Đưa lại cho du khách những chuyến du lịch có chất lượng và có
trách nhiệm.
- Đảm bảo duy trì chất lượng của môi trường cả về môi trường tự
nhiên và môi trường nhân văn vì lợi ích không chỉ của cộng đồng địa
phương mà cả du khách.
1.2. Các nguyên tắc và mục tiêu đảm bảo cho phát triển du lịch bền
vững
1.2.1. Các nguyên tắc
1.2.1.1. Khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lý
Mọi hoạt động phát triển kinh tế đều liên quan đến việc sử dụng
các nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn. Nhiều nguồn tài nguyên
trong số đó không thể tái tạo hay thay thế được hoặc khả năng tái tạo
phải trải qua một thời gian rất dài hàng triệu năm.
Chính vì vậy, đối với các ngành kinh tế nói chung và ngành du
lịch nói riêng, việc khai thác sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên là
nguyên tắc hàng đầu mặc dù phần lớn các nguồn tài nguyên được xem là
tài nguyên có khả năng tái tạo được hoặc ít biến đổi. Nếu các tài nguyên
du lịch được khai thác một cách hợp lý, bảo tồn và sử dụng bền vững
18
18


đảm bảo quá trình tự duy trì hoặc tự bổ sung được diễn ra theo những
quy luật tự nhiên hoặc thuận lợi hơn do có sự tác động của con người
thông qua việc đầu tư, tôn tạo thì sự tồn tại của các tài nguyên đó sẽ lâu
dài đáp ứng được nhu cầu phát triển của du lịch qua nhiều thế hệ. Việc
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên cần dựa trên cơ sở nghiên cứu kiểm
kê đánh giá, quy hoạch sử dụng các mục tiêu phát triển cụ thể.


Hình 1.2. Hòn đảo Tioman - Malaysia
Sự phát triển bền vững nói chung và phát triển du lịch bền vững
nói riêng cần đảm bảo việc lưu lại cho thế hệ tương lai nguồn tài nguyên
không kém hơn so với những gì mà thế hệ trước được hưởng. Điều này
có nghĩa là trong quá trình khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên phải
tính đến các giải pháp nhằm ngăn chặn sự mất đi của các loại sinh vật, sự
suy giảm các chức năng thiết yếu của các hệ sinh thái có giá trị du lịch
như các khu rừng nguyên sinh, các vùng đất ngập nước, các rạn san hô…
và khả năng bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Điều này
cũng còn có nghĩa là tài nguyên và môi trường du lịch cần được hiểu đó
không phải là “hàng hóa cho không” mà phải được tính vào chi phí đầu
vào của sản phẩm du lịch để có được nguồn đầu tư cần thiết cho việc bảo
tồn và tái tạo tài nguyên, kiểm soát và ngăn chặn sự xuống cấp môi
19
19


trường.

Hình 1.3. Một góc hòn đảo Tioman - Malaysia
Nguyên tắc này có thể cụ thể hóa bằng một số hành động cụ thể
cần được tính đến trong quá trình phát triển:
- Ngăn chặn sự phá hoại các nguồn tài nguyên tự nhiên, các giá trị văn
hóa lịch sử, truyền thống dân tộc.
- Phát triển và thực thi các chính sách môi trường hợp lý trong mọi lĩnh
vực của du lịch.
- Nguyên tắc “phòng ngừa” cần được tính đến trong tất cả các hoạt động
và phát triển mới.
- Bảo vệ và ủng hộ việc thừa hưởng các di sản văn hóa và lịch sử các dân

tộc cũng như tôn trọng các quyền lợi của người dân địa phương trong
việc khai thác các tài nguyên du lịch.
- Duy trì hoạt động trong giới hạn sức chứa được xác định.
1.2.1.2. Phát triển phải gắn liền với nỗ lực bảo tồn tính đa dạng
Tính đa dạng về thiên nhiên, về văn hóa và xã hội là nhân tố đặc
biệt quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của du lịch, làm thỏa mãn nhu cầu đa
dạng của khách du lịch, tăng cường sự phong phú về sản phẩm du lịch.
Nơi nào có tính đa dạng cao về tự nhiên, văn hóa và xã hội thì nơi đó sẽ
20
20


có khả năng cạnh tranh cao về du lịch và có sức hấp dẫn lớn, đảm bảo
cho sự phát triển. Chính vì vậy, việc duy trì và tăng cường tính đa dạng
thiên nhiên, văn hóa và xã hội là hết sức quan trọng cho sự phát triển bền
vững lâu dài của du lịch và cũng là chỗ dựa sinh tồn cho ngành du lịch.

Hình 1.4. Cưỡi voi ở buôn Đôn - Tây Nguyên
Trong thực tế, nếu phát triển du lịch được đúng theo nguyên tắc
thì đảm bảo hoạt động du lịch sẽ là một động lực góp phần tích cực duy
trì sự đa dạng của thiên nhiên. Ví dụ điển hình là hoạt động du lịch sinh
thái ở các vườn quốc gia, các khu bảo tồn tự nhiên ở nhiều nơi trên thế
giới đều nhận được sự hỗ trợ to lớn từ du lịch thông qua đóng góp cụ thể
về tài chính, việc tạo ra tăng thu nhập cho việc bảo tồn đa dạng sinh học.

Hình 1.5. Lễ hội tại buôn Đôn - Tây Nguyên
Du lịch cũng góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa bằng việc khích
lệ các hoạt động văn hóa dân gian, thúc đẩy việc sản xuất các mặt hàng
21
21



truyền thống, chia sẻ lợi ích từ nguồn thu cho việc tôn tạo, bảo vệ các di
tích lịch sử văn hóa… Du lịch còn tạo thêm công ăn việc làm, góp phần
làm đa dạng hóa xã hội.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình, bên cạnh những
đóng góp tích cực vào quá trình bảo tồn tính đa dạng, hoạt động du lịch
cũng dễ làm tổn hại đến nó nếu không được quản lý và giám sát có hiệu
quả.
Sự đa dạng văn hóa bản địa cũng bị đe dọa khi người dân bản địa
biến nó thành hàng hóa bán cho khách du lịch. Việc tiêu chuẩn hóa các
sản phẩm văn hóa để phục vụ khách đang làm mất đi nhiều giá trị văn
hóa đặc sắc độc đáo riêng của địa phương. Tính đa dạng văn hóa cũng sẽ
bị ảnh hưởng khi cộng đồng địa phương có những điều chỉnh văn hóa
bản địa riêng của mình để đáp ứng thị hiếu theo nhu cầu của khách và
điều này còn thường dẫn tới sự điều chỉnh về tinh thần “phục vụ”.
1.2.1.3. Phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao
nên mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phù hợp với các
quy hoạch chuyên ngành nói riêng và quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
nói chung ở phạm vi quốc gia, vùng, địa phương. Ngoài ra đối với mỗi
phương án phát triển cần tiến hành đánh giá tác động môi trường nhằm
hạn chế các tác động tiêu cực đến tài nguyên và môi trường. Điều này sẽ
góp phần đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch trong mối quan
hệ với các ngành kinh tế khác cũng như với việc sử dụng có hiệu quả tài
nguyên, đảm bảo môi trường.
Việc đánh giá tác động môi trường đối với mỗi phương án quy
hoạch phát triển đảm bảo sự nhìn nhận toàn diện về những tác động của
du lịch tới tài nguyên, môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội. Nó còn đánh
22

22


giá được các lợi ích cũng như sự bất lợi về kinh tế trong mối quan hệ với
tài nguyên và môi trường. Bên cạnh đó, các đánh giá tác động còn tính
tới những mâu thuẫn quyền lợi có thể xảy ra giữa các thành phần kinh tế
khác như: Cộng đồng địa phương, du khách, chính quyền Trung ương và
địa phương, các doanh nghiệp… Điều này là rất cần thiết làm căn cứ cho
việc điều hòa quyền lợi, tránh những xung đột tiêu cực, đảm bảo sự phát
triển lâu dài, bền vững của mọi ngành kinh tế trong đó có du lịch.
1.2.1.4. Chú trọng việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương trong
phát triển
Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói
riêng, việc khai thác các tiềm năng tài nguyên là điều tất yếu. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy trên mỗi địa bàn lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi
ích của mình không có sự hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế và chia sẻ
quyền lợi với cộng đồng địa phương thì sẽ làm cho kinh tế và cuộc sống
người dân địa phương gặp nhiều khó khăn, kém phát triển. Điều này
buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tiềm năng tài
nguyên của mình làm đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại
đến môi trường sinh thái. Kết quả các quá trình đó sẽ gây những tác
động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói riêng và
kinh tế - xã hội nói chung. Chính vì vậy, việc chia sẻ lợi ích với cộng
đồng địa phương là một nguyên tắc quan trọng trong phát triển bền
vững.
Bên cạnh đó, việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương còn
được thể hiện thông qua những chi phí cần thiết từ nguồn thu du lịch cho
việc bảo tồn tài nguyên và duy trì môi trường. Điều này sẽ góp phần đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và sự phát
triển bền vững nói chung của lãnh thổ.

Thu nhập du lịch cũng cần được điều hòa thông qua kế hoạch đầu
tư phát triển các hoạt động kinh doanh du lịch nhỏ với sự tham gia của
23
23


cộng đồng địa phương, các hoạt động này ngược lại sẽ góp phần làm đa
dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Nguyên tắc này cũng
cần được xem xét áp dụng đối với các hoạt động du lịch ở quy mô khu
vực và quốc tế. Điều khác ở đây là thay vì cộng đồng địa phương, quốc
gia có điểm du lịch sẽ được hưởng sự điều hòa lợi ích từ nguồn thu của
các công ty du lịch xuyên quốc gia cho mục đích tạo công ăn việc làm,
nâng cao mức sống của người dân và bảo tồn duy trì các nguồn tài
nguyên, môi trường sinh thái, góp phần vào quá trình phát triển bền
vững.
Cần thiết có sự đầu tư thỏa đáng vào việc ứng dụng các công nghệ
bảo vệ môi trường và phục hồi sự giảm sút về tài nguyên có liên quan
trực tiếp đến hoạt động phát triển du lịch.
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch
không chỉ giúp họ tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống mà còn làm
cho họ có trách nhiệm hơn với tài nguyên, môi trường du lịch, cùng
ngành du lịch chăm lo đến sức khỏe, nâng cao chất lượng sản phẩm du
lịch. Điều này rất có ý nghĩa, góp phần quan trọng đối với sự phát triển
bền vững của du lịch.
Kinh nghiệm thực tế và phát triển du lịch ở nhiều nước cho thấy sự
tham gia của địa phương là cần thiết bởi bản thân người dân địa phương,
nền văn hóa, môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân
tố quan trọng thu hút khách du lịch.
Bên cạnh đó, có thể thấy việc phát triển du lịch đã mang lại lợi ích
kinh tế, môi trường và văn hóa cho cộng đồng, song ngược lại sự tham

gia thực sự của cộng đồng sẽ làm phong phú thêm tài nguyên và sản
phẩm du lịch. Hơn thế nữa khi cộng đồng địa phương được tham gia chỉ
đạo phát triển du lịch thì sẽ tạo ra được những điều kiện đặc biệt thuận
lợi cho du lịch bởi cộng đồng là chủ nhân và là người có trách nhiệm
24
24


chính với tài nguyên và môi trường khu vực. Điều này sẽ tạo ra khả năng
phát triển lâu dài của du lịch, sự tham gia của cộng đồng địa phương vào
hoạt động du lịch được thực hiện thông qua việc khuyến khích họ sử
dụng các phương tiện, cơ sở vật chất của mình để phục vụ khách như
chuyên chở, cho thuê nhà để ở, nấu ăn cho khách, sản xuất các hàng thủ
công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm v.v…
Ngoài ra, họ còn được khuyến khích tham gia trực tiếp vào các hoạt
động nghiệp vụ trong khách sạn, hướng dẫn khách du lịch, quản lý kinh
doanh dịch vụ v.v…
Mặt khác, cần trao đổi tham khảo ý kiến quần chúng là một quá
trình nhằm dung hòa giữa phát triển kinh tế với những mối quan tâm lớn
hơn của cộng đồng địa phương, với những tác động tiềm ẩn của sự phát
triển lên môi trường tự nhiên, văn hóa - xã hội. Sự tham khảo ý kiến của
các ngành kinh tế với cộng đồng địa phương là cần thiết để có thể đánh
giá được tính khả thi của một dự án phát triển, các biện pháp để giảm
thiểu các tác động tiêu cực và tối đa hóa sự đóng góp tích cực của quần
chúng địa phương.
Thực tế cho thấy, ở những mức độ khác nhau luôn tồn tại những mâu
thuẫn xung đột và quyền lợi trong khai thác tài nguyên phục vụ sự phát
triển giữa du lịch với cộng đồng địa phương, giữa du lịch với các ngành
kinh tế khác. Kết quả là sự thiếu trách nhiệm với tài nguyên và môi
trường và sự phát triển thiếu tính bền vững đối với kinh tế- xã hội của

địa phương cũng như đối với mỗi ngành kinh tế trong đó có du lịch.
Chính vì vậy, việc thường xuyên trao đổi ý kiến với cộng đồng địa
phương và các đối tượng có liên quan để cùng nhau giải quyết các mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển là hết sức cần thiết. Điều này sẽ
đảm bảo sự gắn kết và có trách nhiệm hơn giữa các ngành kinh tế với địa
25
25


×