Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Phát triển du lịch đà lạt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 129 trang )

Mở đầu
1. Lyự do choùn ủe taứi
Ngaứy nay, treõn phaùm vi thế giới, du lịch đã trở thành một nhu cầu không
thể thiếu được, một hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội và phát
triển với tốc độ ngày càng nhanh. Du lịch đã trở thành một ngành kinh tế quan
trọng và chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân của nhiều quốc gia. Du
lịch là ngành kinh tế hấp dẫn, được ví như “Con gà đẻ trứng vàng” là ngành
“Công nghiệp không khói” được các quốc gia triệt để khai thác, tìm kiếm
những lợi thế riêng cho mình, xúc tiến đầu tư để phát triển ngành du lịch. Đồng
thời du lịch cũng trở thành một yếu tố thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát
triển. Do hiệu quả nhiều mặt như vậy, nên hầu hết các quốc gia kể cả các nước
phát triển như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật… đều chú trọng phát triển du lịch. Nhiều
nước trong giai đoạn đầu phát triển đã coi đây là ngành kinh tế mũi nhọn. Mặt
khác sự phát triển kinh tế ở các nước không thể ở trạng thái riêng biệt mà vận
động theo xu hướng hợp tác, hội nhập và tác động mạnh mẽ với nền kinh tế
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cho nên du lịch là nơi giao lưu về mọi
mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… và thúc đẩy sự hợp tác quốc tế.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghóa, đang từng bước hội
nhập với các nước trong khu vực và thế giới nhằm tạo ra bước phát triển nhanh
và vững chắc. Để góp phần khắc phục sự tụt hậu của nền kinh tế, tạo tích lũy
vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước… Kinh tế
du lịch đã và đang có vai trò rất lớn trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của đất
nước. đ
Đà Lạt, từ lâu nổi tiếng là miền đất du lịch đầy hấp dẫn, được đến Đà
Lạt là niềm mơ ước của nhiều người, Đà Lạt là điểm đến không thể thiếu trong
hành trình du lịch không chỉ đối với khách du lịch trong nước mà còn đối với

1



du khách quốc tế. Với những lợi thế của mình, Đà Lạt có những điều kiện rất
thuận lợi để phát triển du lịch trở thành một địa danh du lịch nổi tiếng của cả
nước và quốc tế, góp phần xứng đáng trong chiến lược tổng thể phát triển
ngành du lịch Việt Nam.
Thời gian qua, ngành du lịch đã có những bước tiến nhất định và ngày
càng tác động tích cực đến nhiều lónh vực trong đời sống kinh tế - xã hội, nhịp
độ tăng trưởng của du lịch Đà Lạt khá cao, bình quân trên 15%. Các nguồn thu
từ du lịch đã góp phần tích cực vào sự tăng trưởng chung, tạo được sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành du lịch - dịch vụ. Từ 56%
năm 1995 - 59% năm 2000 - 62,5% năm 2003 và 67% năm 2005. Điều đó đã
thể hiện sự khởi sắc của nền kinh tế dựa vào các lợi thế so sánh, trong đó phải
kể đến lợi thế to lớn về vị trí địa lý, khí hậu và tiềm năng đa dạng các nguồn
tài nguyên du lịch của địa phương.
Tuy nhiên, du lịch Đà Lạt qua quá trình phát triển cũng đã bộc lộ những
hạn chế tồn tại, đó là: Sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực kinh tế
Nhà nước và dân doanh, cạnh tranh không lành mạnh làm hạn chế phát triển;
phát triển tự phát, không ổn định và thiếu bền vững, chưa có được chiến lược
phát triển phù hợp cả ở tầm vó mô lẫn ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp;
thiếu giải pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường ngoài
nước; chưa có chính sách đồng bộ và nhất quán đủ sức để thu hút đầu tư.
Vì thế việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động của kinh tế du lịch Đà Lạt và
đề xuất những phương hướng, giải pháp phù hợp nhằm huy động, khai thác mọi
nguồn lực và phát huy tiềm năng du lịch của Đà Lạt, làm cho hoạt động của du
lịch có hiệu quả, góp phần chuyển dịch nhanh hơn nữa cơ cấu kinh tế, sớm đưa
du lịch Đà Lạt lên vị trí tương xứng với tiềm năng và tầm vóc là một trung tâm
du lịch lớn của cả nước, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế…

2



là hết sức cần thiết và cấp bách mà chính quyền và các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch thuộc các thành phần kinh tế hết sức quan tâm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế du lịch của Việt Nam nói
chung và Đà Lạt nói riêng đã có những bước phát triển đáng kể. Nhiều dự án
đầu tư kể cả vốn trong nước và vốn nước ngoài đầu tư cho du lịch. Nhiều đề tài
nghiên cứu của các cấp, ngành, cơ sở và nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu
du lịch ở mỗi góc độ và khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, tác giả Trần Quốc
Nhật: Luận văn Thạc só năm 1996 với đề tài: Phát triển du lịch ở Bà Rịa Vũng
tàu. Nguyễn Thị Hóa: Luận văn Thạc só năm 2000 với đề tài: Kinh tế du lịch
Thừa Thiên Huế. Trần Ngọc Tư: Luận văn Thạc só năm 2000 với đề tài: Phát
triển kinh tế du lịch của tỉnh Vónh Phúc - Tiềm năng và giải pháp. Hoàng Đức
Cường: Luận văn Thạc só năm 1999 với đề tài: Phát triển kinh tế du lịch ở
Nghệ An.
Một số bài viết và tạp chí về du lịch như: Đỗ Quang Trương: Phát triển
nhanh, bền vững và lành mạnh du lịch Việt Nam trong tiến trình công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước (Tạp chí Cộng sản số 4, 1996). Đào Thùy Phi: Về
định hướng du lịch năm 1996 - 2000 (Kinh tế và dự báo 1995, số 5). Bùi Xuân
Nhật: Du lịch Việt Nam trước thời cơ mới và thách thức mới (Thương mại năm
1995 - số 8 kỳ 2). Trần Văn Hùng: Về hoạt động xuất khẩu và dịch vụ tại chỗ
đối với khách du lịch nước ngoài tại Việt Nam (Thông tin kế hoạch số tháng
8/1994),...
Song các luận văn, tạp chí và bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu ở các địa
phương khác hoặc du lịch nói chung ở những góc độ và khía cạnh khác nhau. Ở
Đà Lạt cũng có một số tác giả viết và nghiên cứu về du lịch Đà Lạt nhưng cũng
chưa làm nổi bật được tiềm năng to lớn và giải pháp phát triển du lịch Đà Lạt

3



trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn cố gắng khắc phục thiếu sót
đó dưới góc độ Kinh tế chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển du lịch
trong điều kiện hội nhập.
- Đánh giá thực trạng, thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong
phát triển du lịch Đà Lạt hiện nay.
- Khuyến nghị số giải pháp phát triển du lịch Đà Lạt trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị để chỉ ra những mối
quan hệ kinh tế - xã hội trong việc phát triển du lịch tại Đà Lạt trên cơ sở phân
tích đánh giá thực trạng, thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong phát
triển du lịch Đà Lạt kể từ khi đổi mới (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghóa Mác-Lênin, đường
lối chủ trương của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nguồn tư liệu: Luận văn khai thác nguồn tư liệu phong phú, bao gồm:
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghóa Mác-Lênin; Các văn kiện của Đảng
cộng sản Việt Nam; Các ấn phẩm (sách, tạp chí, …); Các luận văn, luận án; Tư
liệu địa phương.
- Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp truyền thống của chuyên ngành kinh tế chính trị,
dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Sử dụng công cụ
trừu tượng hóa. Đồng thời sử dụng những tài liệu thống kê để thể hiện mục
đích nghiên cứu.

4


6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề cơ bản về tiềm năng và điều
kiện phát triển du lịch nói chung và du lịch Đà Lạt nói riêng.
- Đánh giá tiềm năng thế mạnh của du lịch Đà Lạt, chỉ ra những thành
tựu và hạn chế cũng như nguyên nhân hạn chế trong phát triển du lịch Đà lạt
những năm qua
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cơ bản ở
tầm vó mô và doanh nghiệp nhằm phát triển du lịch Đà Lạt trong thời gian tới.
- Luận văn là tài liệu tham khảo để vận dụng tại địa phương trong việc
hoạch định chính sách, là tư liệu tham khảo của các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch tại Đà Lạt.
7. Kết cấu luận văn: Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển du lịch trong điều
kiện hội nhập.
Chương 2. Thực trạng phát triển du lịch ở thành phố Đà Lạt hiện nay.
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch Đà Lạt trong
những năm tới.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Tầm quan trọng của phát triển du lịch trong điều kiện hội nhập
kinh tế
1.1.1. Du lịch và những đặc trưng của hoạt động du lịch trong nền kinh tế

Du lịch là một hiện tượng gắn liền với đời sống kinh tế - xã hội qua các
thời đại. Ngay từ thời cổ đại, với điều kiện kinh tế và kỹ thuật còn ở trình độ

rất thấp nhưng cũng đã có những hoạt động du lịch. Bởi lẽ, con người dù ở bất
cứ hoàn cảnh và điều kiện sinh sống như thế nào cũng không bao giờ chịu cố
định ở một trạng thái, điều đó bắt nguồn từ nhu cầu tự nhiên của con người
nhằm tránh sự đơn điệu, nhàm chán, mệt mỏi. Đây là một thuộc tính tâm lý,
biểu hiện sự đòi hỏi tất yếu về vật chất, tinh thần của con người, phản ánh mối
liên hệ mật thiết và phụ thuộc giữa con người với thế giới xung quanh.
Do những thay đổi và phát triển của môi trường tự nhiên, đặc biệt là
những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, của điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội… qua các thời đại, nhu cầu tự nhiên của con người , trong đó
nhu cầu của du lịch cũng không ngừng thay đổi và phát triển. Lúc đầu, đó chỉ
là hiện tượng của từng cá thể rời khỏi nơi ở, nơi làm việc trong một thời gian
ngắn để nghỉ ngơi, giải trí hoặc thăm viếng bạn bè trong địa phương hay trong
vùng. Những bắt nguồn từ nguyên nhân thay đổi của các điều kiện trên, hiện
tượng đó ngày càng có sức cuốn hút mạnh mẽ và trở thành nhu cầu phổ biến
của nhiều đối tượng dân cư.
Vậy Du lịch là gì ? Có nhiều quan điểm khác nhau:
- “Du lịch là những hoạt động có liên quan đến việc di chuyển của một
người hay đoàn người từ nơi thường trú đến địa điểm khác trong nội địa hoặc ra
nước ngoài (bao gồm các dịch vụ ăn, ở, đi lại, vui chơi, giải trí…)”.

6


- Định nghóa của hai giáo sư Hangiker & Kraff đã được Hội nghị lần thứ
V của các nhà khoa học trong lónh vực Du lịch của thế giới thừa nhận “Du lịch
là tập hợp các mối quan hệ, các hiện tượng và các hoạt động kinh doanh bắt
nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú của cá thể ngoài nơi cư trú thường xuyên
của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc để
hưởng lương”.
Luật Du lịch Việt Nam được công bố ngày 27 tháng 6 năm 2005 giải

thích: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định [20, tr.10].
Trên lónh vực lý luận, các nhà nghiên cứu khoa học về du lịch của thế
giới dưới các góc độ khác nhau cũng đưa ra nhiều định nghóa khác nhau về du
lịch. Tuy vậy, những sự khác nhau đó vẫn không thể phủ nhận bản chất của du
lịch, đó là: một nhu cầu tự nhiên của con người đồng thời là một nhu cầu mang
tính xã hội.
Du khách là gì? “Du khách là bất cứ ai ngủ một đêm tại nơi không phải
là nơi cư trú thường xuyên và mục đích của chuyến đi không phải là để kiếm
tiền”.
Khái niệm này rất khác nhau ở từng quốc gia nên khi sử dụng số liệu
thống kê phải đặc biệt chú ý yếu tố cấu thành của nó. Tổ chức du lịch thế giới
đưa ra sơ đồ phân loại du khách như sau:
* Người đi đây đó (Travellers - Voyageurs):
- Không tính vào thống kê du lịch: Người làm việc ở vùng biên giới;
Nhân viên của lực lượng quân sự; Dân tị nạn; Khách quá cảnh đại sứ quán;
Những người nhập cư tạm thời hoặc thường xuyên; Nhân viên lãnh sự quán;
Dân du cư.
- Tính vào thống kê du lịch: Người đi thăm viếng (Visiteurs)

7


Với mục đích nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, sức khỏe, công việc, hội nghị,
thể thao, thăm viếng gia đình, thăm viếng bạn bè,…
Chia ra du khách (Visiteurs), trên 24 giờ. Có thủ tục xuất nhập cảnh đầy
đủ: Người nước ngoài; Kiều dân ở nước ngoài; Thủy thủ đoàn, phi hành đoàn
đến. Người lữ hành (Excursionnists), dưới 24 giờ. Có thủ tục xuất nhập cảnh
đầy đủ: Người đi chơi trong ngày; Người đi trên các tàu; Thủy thủ đoàn, phi

hành đoàn.
Luật Du lịch Việt Nam được công bố ngày 27 tháng 6 năm 2005 giải
thích:
- Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp
đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
- Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chhức, cá nhân có liên
quan đến du lịch.
Nhu cầu du lịch: Trong thực tiễn cuộc sống, để tồn tại và phát triển con
người có vô số nhu cầu, mỗi nhu cầu đều hàm chứa một nội dung với những
đặc trưng cụ thể. Đối với du lịch, đó là “Nhu cầu được đi đến một địa phương
khác ngoài nơi cư trú của mình để nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu, thưởng thức theo
sở thích cá nhân, nhằm làm cho cuộc sống được thoải mái và thú vị hơn, giảm
bớt những căng thẳng của công việc hằng ngày”.
Đây chính là nhu cầu đặc trưng của mọi cuộc hành trình du lịch. Trong
trường hợp các nhu cầu này không được thực hiện thì có thể xem như chuyến
du lịch không thành công. Chất lượng của cuộc hành trình du lịch cao hay thấp
phụ thuộc vào mức độ thoả mãn các nhu cầu đặc trưng đó.
Những nhu cầu đặc trưng không tồn tại ở trạng thái độc lập mà được thể
hiện trong các nhu cầu cụ thể. Nói cách khác, khách du lịch thoả mãn nhu cầu

8


đặc trưng đó thông qua việc tiêu dùng các dịch vụ hàng hóa cụ thể. Căn cứ vào
vị trí và tính chất của chúng, các nhu cầu được phân thành các nhóm sau:
Các nhu cầu chính và thứ yếu: gồm các nhu cầu đi lại, lưu trú và ăn
uống. Chi phí cho những nhu cầu này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi
phí mỗi chuyến du lịch. Đồng thời đây cũng là nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống.

Các nhu cầu bổ sung: là những nhu cầu ngoài nhu cầu thiết yếu. Trong
đó có một số nhu cầu đã được dự định trước khi đi, nhưng phần lớn nhu cầu này
phát sinh trong quá trình du lịch. Tỷ trọng chi phí cho nhu cầu bổ sung có xu
hướng ngày càng tăng cao, thậm chí có trường hợp còn lớn hơn tỷ trọng chi phí
cho nhu cầu chính và thiết yếu.
Đặc điểm nhu cầu du lịch: Nhu cầu du lịch là một nhu cầu tương đối
trọn vẹn của cuộc sống con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình.
Trong đó bao gồm các nhu cầu thiết yếu, thứ yếu và các nhu cầu khác. Có nhu
cầu ở dạng vật chất cụ thể, nhưng cũng có những nhu cầu về văn hóa tinh
thần.v.v…
Nhu cầu du lịch không những phong phú về nội dung mà còn đa dạng về
hình thức và phương pháp thực hiện nó. Bởi lẽ, khách du lịch thuộc nhiều dân
tộc, khu vực, thành phần xã hội, độ tuổi và giới tính khác nhau. Do môi trường
kinh tế, xã hội, phong tục tập quán và tâm lý của họ khác nhau nên nhu cầu,
thị hiếu và khả năng thanh toán của mỗi con người cũng không giống nhau.
Mức độ thoả mãn nhu cầu du lịch phụ thuộc vào khả năng thanh toán
(nhu cầu có khả năng thanh toán) của từng du khách. Nhu cầu tự nhiên của
từng con người nói chung là không có giới hạn nhưng trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường thì mức độ thực hiện các nhu cầu đó lại phụ thuộc vào nguồn
thu nhập và cách phân bố chi tiêu của mỗi người. Du lịch chỉ là một trong số
các nhu cầu đó mà thôi.

9


Các hoạt động phục vụ du lịch tác động trực tiếp đến nhu cầu du lịch của
du khách một cách tích cực hoặc tiêu cực. Sự hứng thú hay chán nản trong việc
thực hiện các nhu cầu, kéo dài hay rút ngắn thời gian du lịch của du khách có
nguyên nhân khách quan từ phía các hoạt động phục vụ du lịch. Đó là mức độ
gợi mở nhu cầu, các hoạt động thông tin quảng cáo, chất lượng phục vụ, giá cả

các dịch vụ, hàng hoá… do các cơ sở du lịch thực hiện.
Điều kiện thực hiện các nhu cầu du lịch: Du lịch là một nhu cầu tự
nhiên của con người. Nhưng không phải bất cứ ai, với bất cứ lúc nào và ở đâu
cũng có thể thực hiện được các nhu cầu đó. Trái lại, để thực hiện các nhu cầu
du lịch, cần phải có một số điều kiện sau đây: có thời gian rỗi - là điều kiện
cần thiết có của một cuộc hành trình du lịch, có khả năng thanh toán các khoản
chi tiêu trong quá trình du lịch, có người tổ chức và cung ứng các dịch vụ du
lịch.
Sản phẩm du lịch và sự khác biệt của nó
- Sản phẩm du lịch là sự tổng hợp những gì nhằm đáp ứng nhu cầu và
mong muốn của du khách.
- Sự khác biệt của sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch được bán cho du khách (người tiêu dùng) trước khi họ
thấy sản phẩm đó. Sản phẩm du lịch cơ bản là không cụ thể nên nó rất độc đáo.
Thực sự nó là một kinh nghiệm hơn là một món hàng vật chất cụ thể mà khách
hàng tiềm tàng có thể kiểm tra trước khi mua. Khách mua một sản phẩm du
lịch phải tiêu pha thời giờ và tiền bạc trước khi sử dụng sản phẩm này.
Các sản phẩm du lịch thường ở xa nơi khách hàng thường trú, do đó phải
cần đến một hệ thống phân phối thông qua việc sử dụng các đơn vị trung gian
(như cơ quan du lịch và đại lý du lịch).
Sản phẩm du lịch tạo ra sự tổng hợp các nguồn kinh doanh khác nhau có
mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau (như: máy bay, khách sạn, tụ điểm vui chơi giải
trí, nhà hàng…).

10


Khách mua một sản phẩm du lịch thông thường ít trung thành hoặc
không trung thành với một thương hiệu công ty, do đó tạo ra sự bất ổn về nhu
cầu.

Luật du lịch Việt Nam được công bố ngày 27 tháng 6 năm 2005 giải
thích:
- Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
- Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển,
lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Các thể loại du lịch chủ yếu:
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi, du lịch được phân ra: Du
lịch quốc tế và du lịch nội địa.
Căn cứ vào thành phần xã hội của khách, du lịch được phân ra: Du lịch
cao cấp và du lịch đại chúng.
Căn cứ vào nhu cầu và mục đích chuyến đi, du lịch được phân ra: Du
lịch nghỉ dưỡng, du lịch tham quan, du lịch văn hóa, du lịch công vụ, du lịch
hội nghị hội thảo, du lịch thể thao, du lịch du học, du lịch tôn giáo, du lịch chữa
bệnh, du lịch thăm hỏi, du lịch quá cảnh v.v…
Căn cứ vào phương tiện giao thông, điều kiện lưu trú mà khách sử dụng,
du lịch được phân ra: du lịch xe đạp, du lịch mô - tô, du lịch ô - tô, du lịch tàu
hỏa, du lịch tàu thủy, du lịch máy bay, du lịch ở khách sạn, du lịch ở motel, du
lịch dã ngoại - cắm trại, du lịch ở resort, du lịch ở làng du lịch v.v…
Căn cứ vào thời gian, hình thức đi của khách, du lịch được phân ra: Du
lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày, du lịch theo đoàn, du lịch theo nhóm, du lịch
cá nhân v.v…
1.1.2. Tầm quan trọng của phát triển du lịch trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tếá

11


1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế


Hội nhập kinh tế quốc tế, một khái niệm rộng lớn và phức tạp, một khái
niệm có liên quan trực tiếp và là hệ quả tất yếu của toàn cầu hóa kinh tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình hình thành và phát triển quan hệ
kinh tế giữa các nước với nhau theo hướng mở rộng ra phạm vi toàn cầu trên
cơ sở khoa học - kỹ thuật, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tính chất xã
hội hóa sản xuất ngày càng gia tăng với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày
càng sâu rộng.
Do có nhiều cách tiếp cận, nên hội nhập kinh tế quốc tế còn có nhiều
cách hiểu khác nhau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là đấu tranh để dành thị
trường hàng hóa, dịch vụ, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm, tham gia phân công lao
động quốc tế, để khai thác tiềm năng bên ngoài, kết hợp và phát huy tối đa nội
lực nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh kinh tế và vị thế của quốc gia. Mặc
dù ý kiến này đã nêu lên được hội nhập kinh tế với mục tiêu mở rộng thị
trường, tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, nâng cao sức mạnh kinh tế, vị thế
quốc gia, song vấn đề chủ yếu của quá trình hội nhập chưa được đề cập đó là
mở cửa nền kinh tế, điều chỉnh các chính sách, luật lệ, cơ cấu kinh tế cho thích
ứng với tình hình và thông lệ quốc tế. Nó cũng chưa phản ánh được tính chất
hai mặt của hội nhập, không chỉ có mặt đấu tranh mà còn có mặt hợp tác.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình điều chỉnh chính sách kinh
tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường vững mạnh để thực hiện tự do hóa trên
các lónh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác, tài
chính, tiền tệ, đồng thời sẳn sàng tận dụng các ưu đãi của các thành viên khác
đem lại cho mình để phát triển sản xuất, mở mang thị trường hàng hóa và đầu
tư ra nước ngoài. Tuy đã nêu được mục tiêu của hội nhập là mở mang thị
trường hàng hóa và đầu tư ra nước ngoài, tận dụng các ưa đãi để phát triển sản

12



xuất, chỉ ra một khía cạnh trong nội dung của hội nhập là điều chỉnh chính
sách kinh tế, tự do hóa trên các lónh vực của nền kinh tế, song ý kiến này còn
dàn trải, hơn nữa mới chỉ thấy mặt hợp tác mà chưa thấy có mặt đấu tranh.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham
dự phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực
trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian, môi trường để phát triển, để
chiếm lónh vị trí phù hợp nhất có thể có được trong quan hệ quốc tế. Ý kiến
này nhằm mở rộng không gian, môi trường để phát triển, song lại chưa nêu
được phương thức và biện pháp tiến hành mở cửa của nền kinh tế. Thực ra để
mở cửa, hội nhập, các nước phải thực thi nhiều biện phát nhằm đổi mới, điều
chỉnh kỹ thuật công nghệ, cơ cấu kinh tế, luật phát, chính sách kinh tế cho phù
hợp với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Việc điều chỉnh, đổi mới càng
nhanh, tốc độ, hiệu quả và mục tiêu hội nhập càng gần, chủ động và đúng
hướng mà mỗi quốc gia theo đuổi.
Có thể nói các ý kiến trên, mỗi ý kiến đều nhấn mạnh một khía cạnh
nhất định. Song vấn đề đặt ra là làm sao tìm ra nhữn g đặc trưng, đặc điểm cơ
bản, cốt lõi mang tính hệ thống để từ đó đưa ra khái niệm hội nhập kinh tế
quốc tế có thể chấp nhận được. Với cách đặt vấn đề như vậy, khi hội nhập kinh
tế quốc tế cần lưu ý các vấn đề mấu chốt sau đây:
Từ những phân tích trên có thể hiểu: hội nhập kinh tế quốc tế là hệ quả
tất yếu của toàn cầu hóa kinh tế, là sản phẩm vừa hợp tác, vừa đấu tranh với
nhau diễn ra ở nhiều cấp độ, quy mô và phương thức mà trọng tâm là mở cửa
kinh tế thông qua đổi mới và điều chỉnh các luật lệ, chính sách, cơ chế tập
quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế của mỗi nước cho phù hợp với thông lệ quốc
tế, khu vực, nhằm tạo điều kiện huy động tốt nhất nội lực, ngoại lực, mở cửa
không gian để phát triển và chiếm lónh vị trí phù hợp nhất có thể có được trong
quan hệ kinh tế quốc tế.

13



1.1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, đến giữa những năm 70 của thế kỷ XX, nước ta đã gia nhập Hội
đồng tương trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghóa (SEV), tích cực tham gia
phong trào không liên kết, nhóm 77, Liên Hợp Quốc… mà một trong những nội
dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng, thúc đẩy
quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước kể cả những nước tư bản.
Bước vào thời kỳ đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện
tích cực hơn.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi
mới nhằm đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, các Đại hội và các Hội
nghị Trung ương tiếp theo, nhất là Nghị quyết 13 (tháng 5 năm 1988) của Bộ
Chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 3 năm 1990) đã phân
tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp với nội dung
chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước
ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông
qua luật đầu tư nước ngoài, cho đến nay đã qua nhiều lần điều chỉnh và bổ
sung với những quy định ngày một thông thoáng hơn.
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã mở ra một bước đột phá mới, đưa ra
khẩu hiệu trong đường lối đối ngoại: Với chính sách đối ngoại mở rộng, chúng
ta tuyên bố rằng: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấu đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục
thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa


14


dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Về toàn cầu hóa kinh tế, Đại hội lần thứ IX đã nhận định: “toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lónh
vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh tính tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế… Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình
thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lónh vực kinh tế. Sự cách biệt
giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng tăng”.
Đại hội lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với các quan
hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước cộng
đồøng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [28, tr35-36].
Cụ thể hóa đường lối nói trên, ngày 27 - 11 - 2001, Bộ Chính trị ban
hành Nghị Quyết số 07 - NG/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đã
chỉ rõ mục tiêu, những quan điểm chỉ đạo và xác định một số nhiệm vụ cụ thể
cần tập trung thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong
những năm tới.
Về mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết nêu rõ: “Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm rộng mở thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,
kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêu cầu xây dựng
nền kinh tế độc lập theo định hướng xã hội chủ nghóa. Nghị quyết còn chỉ ra
những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập:
Một là, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự


15


chủ và định hướng xã hội chủ nghóa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
gữi gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá
trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh
và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc ứng xử tính hai mặt của hội nhập tùy theo
đối tượng, vấn đề, trường hợp cụ thể, vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ
động, vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng.
Bốn là, nhận thức đầy đủ những đặc điểm của nền kinh tế nước ta, từ đó
đề ra kế hoạch và lộ trình hội nhập hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển
của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà
nước ta tham gia, tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và
các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường.
Năm là, kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh
tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, đồng thời
cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thưcï hiện ý đồ “Diễn
biến hòa bình” đối với nước ta.
Đại hội lần thứ X khẳng định “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ
của nền kinh tế”, tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh
tế đối ngoại.

Tóm lại, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế như Đảng
ta nhận định, là xu thế khách quan và ngày càng có nhiều nước tham gia, mà

16


Việt Nam không ngoại lệ. Từ nhận định đó Đảng đã có những chủ trương và
quan điểm đúng đắn, toàn diện thông qua hàng loạt những điều chỉnh về cơ
cấu kinh tế, về nâng cao sức mạnh cạnh tranh, về luật pháp, chính sách và cơ
cấu kinh tế sao cho vừa phù hợp với thực tế nước ta, vừa phù hợp với thông lệ
quốc tế, thể hiện rõ trong các điều khoản của các hiệp định song phương và đa
phương mà chúng ta đang tích cực đàm phán và ký kết trong quá trình tiến đến
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Để làm được điều đó một cách có hiệu quả, mọi ngành, mọi cấp, đặc
biệt đối với các nhà doanh nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế trong cả
nước, cần có những hiểu biết tương đối đầy đủ những vấn đề cơ bản về tổ chức
thương mại thế giới cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế khác.
1.1.2.3. Tầm quan trọng của phát triển du lịch trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
Phát triển du lịch là hướng chiến lược quan trọng trong mục tiêu làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Du lịch phát triển có ý nghóa trên nhiều mặt: Kinh tế chính trị, văn hóa,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ mội trường sinh thái, phát huy truyền thống và
bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế, sự phát triển của du lịch là phương
tiện, một công cụ quan trọng để mở rộng giao lưu với các nước, góp phần tham
gia vào quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa đời sống kinh tế thế giới hiện
nay.
Ở nước ta, khi đánh giá vai trị của du lịch còn có những quan điểm khác
nhau. Nhìn chung có hai quan điểm.

Loại thứ nhất, cho rằng du lịch chỉ là loại hình hoạt động vui chơi giải trí
của người giàu, là hiện tượng văn hóa đơn thuần, ý nghóa về mặt kinh tế không
đáng kể… từ đó ít quan tâm đầu tư phát triển hoặc có đầu tư nhưng lại nghiêng
về phúc lợi công cộng.

17


Loại thứ hai, cho rằng du lịch là ngành công nghiệp không khói, mang
lại lợi nhuận siêu ngạch, là “Con gà đẻ trứng vàng”, là “Ngành kinh tế mũi
nhọn”, “ngành kinh tế động lực” v.v… từ đó đề cao vị trí ngành du lịch không
đúng với bản chất thực của nó, dẫn đến tình trạng đầu tư phát triển tràn lan,
không hoạch định phương hướng, mục tiêu cụ thể. Hiện tượng “Khủng hoảng
thừa” cơ sở kinh doanh du lịch, phát triển “Không cân đối” các loại hình du
lịch… khá phổ biến. Không ít đơn vị kinh doanh du lịch đang gặp phải khó
khăn, bế tắc.
Trong khi phê phán sự lệch lạc, thái quá của hai loại quan niệm về vai
trò, vị trí ngành du lịch nêu trên, chúng ta thừa nhận vấn đề phát triển du lịch ở
Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với đường lối phát triển
kinh tế của Đảng, là điều kiện để khai thác, sử dụng có hiệu quả tiềm năng tài
nguyên du lịch quý báu của đất nước, cùng với các nguồn lực khác đưa đất
nước ta phát triển, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Ngày nay, trên thế giới, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể
thiếu được trong đời sống xã hội và đang phát triển với tốc độ ngày càng cao.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển
nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân về khách 6,93%, về thu nhập
11,8%/năm. Vốn đầu tư vào du lịch chiếm 7% tổng số vốn đầu tư toàn cầu, chi
tiêu của người tiêu dùng cho du lịch chiếm 13% tổng chi tiêu cho tiêu dùng
trên thế giới. Tổ chức du lịch thế giới (WTO) đánh giá: “Du lịch ngày nay trở
thành một hiện tượng quan trọng nhất của đời sống hiện đại” và trở thành một

trong những ngành kinh tế hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Tổ chức này dự
báo năm 2010 lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới ước lên tới 1.006
triệu lượt khách, thu nhập từ du lịch đạt 900 tỷ USD và ngành du lịch sẽ tạo
thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Du lịch thực sự đã và đang khẳng định vị trí và ưu thế của
mình trong tổng thể kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Du lịch không chỉ là
ngành mang lại hiệu quả kinh tế cao, là nguồn thu lớn trong tổng thu nhập

18


quốc nội (G.D.P) của nhiều nước, là đòn xeo thúc đẩy các ngành kinh tế khác,
mà còn là “Phương thức hiệu quả nhất cho việc phân phối lại thu nhập giữa các
nước và như thế cũng góp phần cho sự nghiệp phát triển cân bằng hơn của nền
kinh tế thế giới…” như tuyên bố du lịch OSAKA 1994 nêu rõ .
Trong quá trình phát triển, du lịch thế giới đã hình thành các khu vực
lãnh thổ với các thị phần khách du lịch quốc tế khác nhau. Năm 2000, Châu Âu
là khu vực đứng đầu với 57,8% thị phần khách du lịch quốc tế. Theo dự báo
của WTO, đến năm 2010 thị phần đón khách du lịch quốc tế của khu vực Đông
Á - Thái Bình Dương đạt 22,08% thị trường toàn thế giới, sẽ vượt Châu Mỹ, trở
thành khu vực đứng thứ 2 sau Châu Âu, và đến năm 2020 sẽ là 27,34% . Trong
khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, du lịch các nước Đông Nam Á (ASEAN)
có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% thu nhập du lịch
của toàn khu vực. Theo dự báo của WTO, năm 2010 lượng khách quốc tế đến
khu vực Đông Nam Á là 72 triệu lượt, với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn
1995 - 2010 là 6%/năm, so với 1 - 2% của thời kỳ 1998 - 2000 do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực.
Sự hình thành của ngành du lịch trên thế giới được lấy mốc từ khi xuất
hiện tổ chức du lịch đầu tiên trên thế giới tại nước Anh năm 1842 do giáo sư
Thomas Cook sáng lập. Tổ chức này ban đầu xây dựng các chuyến du lịch
bằng tàu thuỷ ở trong nước, sau mở rộng sang Paris, Ai cập, rồi tới châu Mỹ,

châu Úc, Trung Đông và Ấn Độ, đến nay đã có trên 400 chi nhánh đại diện
trên khắp năm châu.
Khi du lịch đã phổ biến thành một nhu cầu xã hội, nhiều đơn vị kinh
doanh du lịch ra đời thì một tổ chức du lịch mang tính toàn cầu đã được hình
thành, đó là Liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành IUOTO (International
Union Official Travel Organization) được thành lập năm 1925 ở Hà Lan. Đến
năm 1975 do phong trào du lịch ở các nước phát triển cần một tổ chức có đủ
thẩm quyền để giải quyết các vấn đề cấp nhà nước nên IUOTO được chuyển

19


thành Tổ chức du lịch thế giới WTO. Đến nay WTO đã có trên 100 quốc gia là
hội viên mà Việt Nam đã được tham gia từ năm 1981.
Tầm quan trọng của sự phát triển du lịch trong điều kiện hội nhập kinh
tế thế giới có thể được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, là một ngành kinh tế tổng hợp, do tính chất liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao, nên du lịch góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế phát
triển, tạo được nguồn thu lớn, chiếm tỷ lệ trong GDP ngày càng cao.
Sự phát triển của các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, năng
lượng, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, y tế, giáo dục… trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện tiên quyết cho sự mở mang ngành kinh tế
du lịch. Ngược lại sự phát triển của du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế cũng
trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy các ngành kinh tế khác gia tăng.
Sự phát triển của Du lịch sẽ mở ra thị trường rộng lớn đa dạng, phong
phú cho các ngành kinh tế. Trong tình hình của nước ta hiện nay, phát triển du
lịch chính là tạo thị trường “xuất khẩu tại chỗ”, giới thiệu mặt hàng, mở rộng
giao tiếp để ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quan hệ hợp tác sản
xuất giữa các ngành kinh tế nước ta với các nước khác trên thế giới.
Sự phát triển của Du lịch sẽ tạo điều kiện của các ngành kinh tế và các

doanh nghiệp tận dụng các cơ sở vật chất hiện có, đổi mới công nghệ, tăng
doanh lợi, cải thiện thu nhập cho người lao động, gia tăng tích lũy để đầu tư
nâng cao năng lực sản xuất, tăng cường được khả năng cạnh tranh trong môi
trường hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự phát triển của du lịch sẽ góp phần làm cho nền kinh tế của một quốc
gia tham gia rộng rãi vào sự phân công lao động của kinh tế thế giới. Nói cách
khác du lịch góp phần đáng kể thúc đẩy nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng.
Sự tăng trưởng của kinh tế du lịch sẽ làm tăng thu nhập ngoại tệ và tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng tạo nguồn vốn cho

20


đầu tư đầu tư phát triển đất nước, nhất là phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
trong đó có cơ sở hạ tầng phát triển du lich. Là điều kiện cần thiết cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm đưa quốc gia sớm thoát khỏi tình
trạng kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước côn g nghiệp năm 2020.
Nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế, bảo đảm được hiệu quả tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng cao. Ở những nước có nền kinh tế kém phát
triển như nước ta, họ coi du lịch như là phương thức chủ yếu để thu ngoại tệ
đảm bảo sự thăng bằng trong cán cân thu chi ngân sách, đóng góp vào sự ổn
định và phát triển xã hội, là một trong những điều kiện để đón nhận những tiến
bộ kỹ thuật do cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đưa lại.
Thứ hai, hoạt động du lịch càng trở nên nhộn nhịp và mang lại hiệu quả
cao sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung trên phạm vi toàn thế giới.
Du lịch là “Ngành xuất khẩu vô hình”. Thông qua du lịch, du khách có
dịp mở rộng tầm hiểu biết sâu hơn về nền văn hóa, lịch sử, truyền thống trong
bản sắc của mỗi dân tộc, tạo nên cầu nối thúc đẩy sự giao lưu chính trị, kinh tế,
văn hóa giữa các dân tộc. Các doanh nhân thông qua việc đi du lịch, một mặt

để thỏa mãn nhu cầu nghó ngơi - giải trí sau những ngày làm việc căng thẳng,
mặt khác còn để tìm kiếm và chớp lấy những cơ hội đầu tư tốt hơn.

Thứ ba, du lịch phát triển càng tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước
và các dân tộc, góp phần thúc đẩy và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Thông qua hoạt động du lịch, nhân dân thế giới, nhất là các doanh nhân
sẽ hiểu rõ đất nước Việt Nam đang là nơi đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư
nước ngoài. Việt Nam đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập, bắt đầu quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang cần nguồn vốn đầu tư rất lớn vào nhiều
lónh vực để phát triển kinh tế. Việc đẩy nhanh nhịp độ phát triển của du lịch
một mặt góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
phát triển nhanh kinh tế dịch vụ, mặt khác giới thiệu cho nhân dân thế giới
hiểu biết sâu sắc hơn về một Việt Nam hòa bình ổn định, năng động và giàu
tiềm năng, là nơi có nhiều cơ hội cho sự liên doanh, liên kết, đầu tư để phát

21


triển kinh tế, một điểm hẹn trong giao lưu văn hóa đặc sắc và đa dạng. Thông
qua hoạt động du lịch góp phần thực hiện tốt hơn chính sách mở cửa, đa dạng
hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
1.2. Những điều kiện cơ bản để phát triển du lịch
Muốn phát triển du lịch của một nước, một địa phương cũng như của một
doanh nghiệp đều phải có những điều kiện nhất định. Đây là những điều kiện
khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Các điều kiện này có
tác động đến quy mô, tốc độ, thể loại, nội dung và phương thức phát triển du
lịch của một quốc gia, một địa phương và của từng doanh nghiệp cụ thể. Có thể
phân các điều kiện phát triển du lịch thành hai nhóm: các điều kiện ở tầm vó
mô và điều kiện ở tầm doanh nghiệp.
1.2.1. Các điều kiện ở tầm vó mô

Các điều kiện này tác động đến sự phát triển của tất cả các lónh vực, các
ngành kinh tế, xã hội trên một địa bàn và trên toàn lãnh thổ. Liên quan đến
các điều kiện này bao gồm
Thứ nhất, các điều kiện riêng đặc trưng của phát triển du lịch, gồm:
nguồn tài nguyên du lịch, các cơ hội và sự kiện đặc biệt, điều kiện về thị
trường du lịch. Tuy nhiên cũng cần thừa nhận một thực tế là, không nhất thiết
một quốc gia, một tỉnh, một huyện thị… có nhiều tài nguyên du lịch, thì nơi đó
phát triển mạnh và thu hút nhiều khách du lịch. Trên thế giới, rất nhiều quốc
gia có nguồn tài nguyên du lịch dồi dào, phong phú nhưng lượng khách du lịch
đến không nhiều và du lịch ở đó cũng phát triển chậm. Ở châu Á, nhiều nước
giàu có về tài nguyên du lịch như Trung Quốc, Ấn Độ… nhưng du lịch phát
triển mới ở mức độ nhất định và các nước đó trong một thời gian dài chưa coi
du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, hiện nay ở Trung Quốc quan điểm này đã
thay đổi.
Thứ hai, điều kiện kinh tế của quốc gia, trình độ phát triển của các
ngành nghề kinh tế có liên quan. Chúng ta biết rằng, du lịch là ngành kinh tế

22


tổng hợp, do đó du lịch phát triển trong điều kiện các ngành kinh tế kỹ thuật
khác phát triển. Không thể nói du lịch phát triển trong lúc cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, giao thông, bưu điệ n,
ngân hàng, điện, nước… vẫn ở trình độ thấp. Bởi vì các ngành đó là đối tượng
trực tiếp cung cấp các dịch vụ chủ yếu cho hoạt động du lịch. Du lịch phát triển
phải có những điều kiện về kinh tế - xã hội nhất định và không thể tự mình
“bứt phá” thoát ly các yếu tố nền tảng và tương hỗ khác. Ngược lại sự phát
triển của Du lịch sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy các ngành kinh tế khác
gia tăng.
Thứ ba, điều kiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch. Liên quan

đến điều kiện nay là hệ thống giao thông, phương tiện và điều kiện đi lại
thuận lợi, thông suốt. Bên cạnh các điểm tham quan, du lịch còn phải có những
cơ sở dịch vụ, thu hút khách, tạo cơ hội cho họ nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, góp
phần tái tạo sức lực sau những ngày căng thẳng về công việc. Như vậy, cơ sở
kết cấu hạ tầng du lịch phải làm cho hoạt động du lịch là một hệ thống liên
hoàn, có tính thu hút cao.
Thứ tư, điều kiện về cơ chế, chính sách, luật pháp và chính trị xã hội.
Ngoài các yếu tố về tự nhiên, kinh tế - xã hội, du lịch phát triển không chỉ dựa
trên tiềm năng du lịch dồi dào, phong phú, mà còn phải dựa vào chính sách
phù hợp, phải tạo được bầu không khí du lịch lành mạnh, có cơ chế liên doanh,
liên kết với các hãng du lịch lớn và có uy tín, khai thác tốt các thị trường
khách, có sản phẫm du lịch đặc thù và không ngừng nâng cao chất lượng phục
vụ… tạo khả năng thu hút lớn.
Tại các nước đang phát triển, nền kinh tế đang ở trình độ thấp, thời gian
qua phát triển “Du lịch đại chúng”, “Du lịch bình dân” là chủ yếu . Nếu không
tính toán kỹ lưỡng và điều chỉnh kịp thời thì mức độ ô nhiễm môi trường sẽ
tăng lên, ảnh hưởng đến phát triển bền vững, khả năng thu hồi vốn chậm, hiệu
quả thấp, thậm chí thua lỗ và phá sản.

23


Vấn đề đặt ra là nhận thức về khả năng, điều kiện phát triển du lịch
nước ta như thế nào cho đúng, từ đó có định hướng, cơ chế chính sách phù hợp.
Đầu tư cái gì? ở đâu? loại hình nào? làm sao thu hút du khách ngày càng
nhiều?… là một bài toán khó, nhiều ẩn số, cần bình tỉnh để tìm lời giải, không
nên nóng vội và phải khách quan trong việc đánh giá các lợi thế cũng như
những hạn chế, mặt trái của vấn đề. Nhưng cũng không được thụ động, chần
chừ, do dự làm mất đi những cơ hội tốt.
1.2.2. Các điều kiện liên quan đến doanh nghiệp

Đây là những điều kiện đảm bảo cho sự sẳn sàng tổ chứcvận hành toàn
bộ hoạt động kinh doanh du lịch. Liên quan đến các điều kiện này phải kể đến
những vấn đề then chốt như:
- Hệ thống các doanh nghiệp du lịch, tổ chức mạng lưới hoạt động kinh
doanh du lịch,
- Điều kiện về cơ sở vật chất của doanh nghiệp du lịch
- Năng lực tổ chức quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý và đội
ngũ lao động làm việc trong ngành du lịch.
Là quốc gia nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, sự phát triển của du
lịch Việt Nam không nằm ngoài xu thế phát triển chung của du lịch khu vực.
Bên cạnh đó, do lợi thế về địa lý kinh tế - chính trị và tài nguyên, du lịch Việt
Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng cường phát triển trong xu thế hội
nhập của khu vực và thế giới: Lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa vừa
thông rộng với đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường biển,
đường sông, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Đây là tiền đế rất
quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch quốc tế. Việt Nam có chế
độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào, người Việt Nam thông minh,
cần cù, mến khách là những yếu tố quan trọng đảm bảo cho du lịch phát triển.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam phong phú và đa dạng,
các đặc điểm đa dạng về cấu trúc địa hình biển và hải đảo, đồng bằng, đồi núi,

24


cao nguyên đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam sự đa dạng và phong phú về cảnh
quan và các hệ sinh thái có giá trị cho phát triển nhiều loại hình du lịch, đặc
biệt là các hệ sinh thái biển - đảo, hệ sinh thái sông, hồ, hệ sinh thái rừng,
hang động… Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài đứng thứ 27 trong 156 quốc
gia có biển trên thế giới và là nước ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á,
đường bờ biển Việt Nam trải dài trên 3.260km qua 15 vó độ với 125 bãi biển có

các điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghó dưỡng, tắm biển và vui chơi giải trí,
trong đó có nhiều bãi biển hấp dẫn như Trà Cổ , Sầm Sơn, Cửa Lò, Thuận An,
Lăng Cô, Non Nước, Văn Phong - Đại Lãnh, Nha Trang, Phan Thiết, Long
Hải, Vũng Tàu, Hà Tiên. Đặc điểm hình thái địa hình vùng ven biển tạo ra
nhiều vịnh đẹp có tiềm năng phát triển du lịch lớn như: Vịnh Hạ Long, Vịnh
Văn Phong, Vịnh Cam Ranh… Trong đó Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công
nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Trong tổng số hơn 2.700 đảo lớn nhỏ ven
bờ, nhiều đảo như Cái Bầu, Cát Bà, Tuần Châu, Cù Lao Chàm, Phú Qúy, Côn
Đảo, Phú Quốc… với các hệ sinh thái phong phú, cảnh quan đẹp, là nơi có điều
kiện hình thành các khu, điểm du lịch hấp dẫn [6, tr.6].
Với khoảng 50.000 km2 địa hình karst, Việt Nam được xem là nước có
tiềm năng du lịch hang động, thác, ghềnh to lớn, trong đó có hơn 200 hang
động đã được phát hiện, điển hình là động Phong Nha với chiều dài là 80 km,
đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Nguồn nước khống phong phú có ý nghĩa to lớn đối với phát triển du
lịch. Đến nay đã phát hiện được hơn 400 nguồn nước khoáng tự nhiên với nhiệt
độ 27oC đến 150oC. Thành phần hóa học của nước khoáng rất đa dạng, từ
bicabonat natri đến clorua natri với độ khống cao có giá trị đối với du lịch nghỉ
dưỡng bệnh.
Việt Nam có hệ sinh thái động - thực vật ràng đa dạng. Tính đến nay, cả
nước đã có 107 khu rừng đặc dụng trong đó có 25 vườn quốc gia, 75 khu bảo tồn
thiên nhiên và 34 khu rừng văn hóa - lịch sử - mơi trường với tổng diện tích là
2.092.466ha. Đây là nguồn tào nguyên du lịch sinh thái quý giá, nơi bảo tồn
khoảng 12.000 loài thực vật, gần 7.000 loài động vật với nhiều loại đặc hữu và

25


×