Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập THẢO LUẬN dân sự 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.27 KB, 17 trang )

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ 6: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 4 năm 2019

MỤC LỤC


1 HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Tóm tắt bản án 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên
Ông Này và bà Trọng là vợ chồng hợp pháp nhưng ông Này lại có quan hệ trai gái
với bà Tâm. Ông Này có lập một di chúc để lại cho ông Hiếu (con ông Này và bà
Tâm) toàn quyền sử dụng lô đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG
67735, diện tích 225m2 đứng tên ông Này, bà Trọng. Di chúc của ông Này để lại là
di chúc viết tay. Ông Này đã cất một căn nhà mang số 27 trên diện tích đất 225m 2
này. Sau khi ông Này mất, ông Hiếu đề nghị Tòa giải quyết di chúc theo ý chí của
ông Này và chia thừa kế diện tích đất 2000m2 ở Ealam. Nhưng tại phiên tòa, ông
Hiếu xin nhận ½ lô đất mà ông Này đã có giấy giao lại cho ông Hiếu sử dụng thuộc
tờ bản đồ , thửa số 83 và xin nhận nhà, thối lại chênh lệch tài sản cho bà Trọng và
rút yêu cầu chia lô đất ở xã Ealam. Bà Trọng trình bày đã đưa cho ông Hiếu
80.000.000đ nhưng ông Hiếu không chịu mà yêu cầu bà Trọng đưa 120.000.000đ.
Bà Trọng yêu cầu bác bỏ di chúc của ông Này, chia di sản theo pháp luật, xin nhận
nhà, đất và có trách nhiệm thối lại chênh lệch cho các thừa kế.
Tòa quyết định: Bà Trọng được quyền sử sở hữu toàn bộ tài sản, nhà và đất có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 677357. Bà Trọng có trách nhiệm thanh toán
cho ông Hiếu số tiền 78.795.000đ là phần thừa kế nhận theo di chúc của ông Này.
Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao
Cụ Đỗ Thị Hựu kết hôn với cụ Đỗ Văn Hằng sinh được hai người con chung là ông
Đỗ Văn Hồng (có vợ là Hoàng Thị Ngâm) và bà Đỗ Thị Lựu. Cụ Hằng chết không


để lại di chúc. Sau đó cụ Hựu quan hệ với cụ Sách và có một con chung là ông Đỗ
Văn Quang. Hiện tại, bà Ngâm quản lí, sử dụng phần di sản do cụ Hựu để lại gồm
thửa đất 56 diện tích 210m², thửa đất 54 diện tích 462m² và thửa đất 57 diện tích
526m², trên thửa đất 57 có 01 ngôi nhà cấp 4 năm gian và một giếng nước, nguồn
nhà đất này là của cụ Hằng và cụ Hựu được thừa hưởng của tổ tiên cụ Hằng để lại.
Dòng họ Đỗ do ông Đỗ Văn Vũ (là trưởng họ) đại diện trình bày: về quan hệ huyết
thống và nguồn gốc di sản như bà Ngâm khai, dòng họ đã nhất trí giao khối tài sản
này cho bà Ngâm quản lí, sử dụng để thờ cúng chung. Ngoài ra khi kê khai đăng kí
quyền sử dụng đất bà Ngâm đã xuất trình 01 bản di chúc của cụ Hựu lập năm 1998
với nội dung cụ Hựu để lại tài sản nhà, đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Nay ông
2


Quang khởi kiện yêu cầu hủy di chúc nêu trên vì bản di chúc này không hợp pháp
và yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ Hựu theo pháp luật, ông xin được
nhận một phần đất, đối với các công trình, cây cối trên đất, bộ thờ cúng... ông
không yêu cầu.
Tòa quyết định: hủy bản án dân sự phúc thẩm, hủy bản án dân sự sơ thẩm và giao
hồ sơ cho Toà án nhân dân xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
1.1 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trước hết, di chúc phải đáp ứng đầy đủ:
• Về chủ thể (Điều 625 BLDS 2015: Người lập di chúc):
“1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630
của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”
• Về nội dung (Điều 631 BLDS 2015: Nội dung của di chúc):
“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội
dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang
thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di
chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người
làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
• Di chúc phải hợp pháp.
3


→ Như vậy, di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý khi Người lập di chúc phải tự
viết và ký vào bản di chúc. (Điều 633 BLDS 2015)
1.2 Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp
pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc hợp pháp là em trai, em gái của ông Này.
Theo điều 632 BLDS 2015: Người làm chứng cho việc lập di chúc
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”, cha và
mẹ ông Này là người thừa kế thuộc hàng thứ nhất theo pháp luật. Vì vậy không là

người làm chứng hợp pháp.
1.3 Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông tự viết tay
Vì di chúc đã tuân thủ theo những quy định về hình thức được quy định tại Điều
655, BLDS 2005 về Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:
“ Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”.
Thêm vào đó, lúc lập di chúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối,
đe dọa hoặc cưỡng ép và nhiều người làm chứng
1.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Nay tự viết tay.
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa là chưa thõa mãn lắm tính hợp pháp.
Câu hỏi đặt ra là lúc lập di chúc, ông Này đang minh mẫn, sáng suốt không bị lừa
4


dối, đe dọa hoặc cưỡng ép hay không? Thực tế là không có văn bản để chứng minh
điều này. Ngoài ra bà Trọng có trình bày ông Này thường uống rượu say xỉn, ít
quan tâm tới gia đình, mặc dù không thể lấy lời trình bày của bị đơn làm căn cứ
nhưng cũng cần phải lưu ý đến điểm này. Hơn nữa thời điểm lập di chúc đến lúc
ông Này qua đời là đủ lâu để người mất đi công chứng và chứng thực, vậy thì hoặc
là ông Này không rõ thủ tục hay để che dấu đi tính xác thực của bản di chúc, đó có
thực sự là ý nguyện của người mất hay không? Từ đây có thể thấy, Tòa án đã xem
xét cẩn thận tính hợp pháp về nội dung trong đó nhưng lại chưa đúng khi cho rằng
bản di chúc là hợp pháp.
1.5 Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu được đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ , ông Vũ và cụ Đỗ
Thị Quý ký tên làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho
ông Hoàng Văn Thưởng (Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
1.6 Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả
lời?

Cụ Hựu không biết chữ.
Đoạn của Quyết định 874 cho câu trả lời:
“Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.”
“Mặt khác, qua giám định vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học
hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm
riêng nên không đủ yếu tố giám định.”
1.7 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện của Khoản 3 Điều
630 BLDS 2015: “ Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng
hoặc chứng thực.”
1.8 Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
Di chúc của cụ Hựu đã đáp ứng được các điều kiện:
• Có hai người làm chứng cho việc lập di chúc của cụ Hựu là ông Vũ và cụ
Quý thỏa mãn Điều 632 BLDS 2015.
5


• Di chúc được người làm chứng lập thành văn bản (25/11/1998) thỏa mãn
khoản 3 Điều 630 BLDS 2015.
1.9 Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất
hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và
có công chứng hoặc chứng thực”.
Di chúc của cụ Hựu có 2 người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý, có xác nhận của
ông Thưởng (là Trưởng thôn) và xác nhận của UBND xã Mai Lâm. Nhưng UBND
xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ kí của ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung di

chúc.
Mặt khác qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học
hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm
riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó, chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu
trên thể hiện đúng ý chị của cụ Hựu.
1.10 Theo anh/chị , di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
Theo nhóm em, di chúc của cụ Hựu chưa hoàn toàn thỏa mãn điều kiện về hình
thức. Bởi vì cụ Hựu không biết chữ nên việc lập di chúc phải do người khác viết
hộ. Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
Về việc có dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc, qua giám định dấu vân tay của
cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu
vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.
Về việc bản di chúc được mang ra công chứng, người lập di chúc là cụ Hựu và
người mang di chúc đi công chứng là bà Lựu.
Do vậy không đủ yếu tố để xác định di chúc này thể hiện ý chí của cụ Hựu.
1.11 Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.
Theo nhóm em, các quy định của BLDS 2015 liên quan đến hình thức di chúc của
người không biết chữ là hợp lý. Vì những quy định nghiêm ngặt về hình thức như
thế này xuất phát từ cơ sở pháp lý và cơ sở kỹ thuật của nó. Nhằm bảo vệ ý chí
đích thực của người để lại di sản và cũng để phòng việc người khác lợi dụng những
6


khiếm khuyết của người để lại di sản để giả mạo di chúc, lừa dối, đe dọa, cưỡng
ép…


2 DI CHÚC TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC
Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013
• Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung
chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền phường 5, quận
Phú Nhuận cho năm người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn
Hữu Trí). Cụ Quý (vợ cụ Hương) khởi kiện yêu cầu: tài sản chung vợ chồng
ra làm hai phần; ½ trị giá căn nhà bằng hiện vật; 2/3 xuất thừa kế theo pháp
luật đối với di sản của ông Hương bằng hiện vật là phần diện tích nhà đất nối
tiếp với phần diện tích được hưởng của bà.
• Tại Bản án dân sự sơ thẩm ngày 11/8/2010, Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Mnh quyết định: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cụ Lê Thanh Quý
đoài chia tài sản chung và thừa kế.
• Tại Quyết định kháng nghị ngày 05/08/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao xử hủy bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử xơ thẩm lại.
• Tòa án nhân dân tối cao quyết định: chấp nhận kháng nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao. Hủy bản án sơ thẩm nêu trên và giao hố sơ của Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
2.1 Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của quyết định cho câu
trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất là tài sản chung của cụ Hương và ông Quý.
Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời:
“Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị
Kiều( Vợ ông Nguyễn Hữu Trí)”
7



2.2 Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản
chung của vợ chồng cụ Hương:
“Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài
sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Qúy”
2.3 Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào Quyết định cho
câu trả lời?
Tòa án công nhận hiệu lực phần tài sản của cụ Hương cho các con .
Đoạn Quyết định ghi nhận điều này:
“Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc cụ Nguyễn Văn Hương (1/2 nhà đất)
nên được chia đều cho 5 người con các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn
Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; còn 1/2 diện
tích đất còn lại được chia cho cụ Quý; phần giá trị căn nhà theo kết quả định giá
của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Quý 1/2 và thêm 2/3 suất thừa kế theo
pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di
chúc của cụ Hương là có căn cứ.”
2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết của Tòa là hợp lý. Vì di chúc của cụ Hương là hợp pháp và nhà
đất đó là tài sản chung của 2 vợ chồng cụ Hương và cụ Quý nên cụ Quý nhận 1/2
diện tích nhà đất và 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là có cơ sở.
2.5 Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần chia toàn bộ di sản của cụ Hương cho 5
người con vẫn có giá trị pháp lý.
Vì:
• Căn cứ theo khoản 2 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
“2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo

đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”
8


→ Theo đó, sau khi cụ Quý chết. Phần tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia
½ cho cụ Quý và ½ cho cụ Hương.
→ Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;”
→ Và căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;”
→ Theo đó, cụ Quý chết trước cụ Hương và không để lại di chú nên phần tài
sản của cụ Quý sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 649 BLDS
2015: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và
trình tự thừa kế do pháp luật quy định.” Như vậy tài sản của cụ Quý sẽ được
chia cho cụ Hương và các con của cụ Quý- những người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất. Tài sản của cụ Hương bao gồm ½ tài sản chung với cụ Quý và
phần được hưởng thừa kế theo pháp luật. Sau khi cụ Hương chết, cụ Hương
có quyền lập di chúc để lại di sản cho các con với phần tài sản của mình.
2.6 Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không?
Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc quyền sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương vẫn chỉ có giá trị pháp lý một phần.
Vì theo Điều 644 BLDS 2015.
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho

hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con chưa thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di
sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
9


Nên dù di chúc có ghi chỉ chia cho 5 người con nhưng thật ra nếu cụ Quý không từ
chối nhận di sản hoặc gặp trường hợp khác trong luật trên thì sẽ chia khác với di
chúc ghi.

10


3 DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C
tỉnh Phú Thọ
Bà Hoàng Thị H và ông Hoàng Minh X kết hôn năm 1960, sinh được 4 người con
và có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 76. Ngày 01/08/2015 bà và
ông X viết với nội dung: Nếu ông X chết trước bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà
quản lý sử dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng
H1. Di chúc được viết khi ông X hoàn toàn khỏe mạnh nhưng không được ai
chứng thực. Ngày 12/01/2016 ông X chết, sau đó bà H họp gia đình để công bố di
chúc thì anh H cho rằng di chúc không phải chữ viết của ông X và gây khó khăn
cho bà H trong việc thay đổi nội dung di chúc.
Bà H yêu cầu Tòa công nhận di chúc của ông X là hợp pháp, giải quyết cho bà H
thay đổi nội dung di chúc phần của H và đề nghị Tòa chia tài sản phần chung cho
bà.

Tòa công nhận di chúc của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là hợp pháp,
không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia
di sản của ông X.
3.1 Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng?
“Ngày 10/8/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng kí với nội
dung:
“Nay hai chúng tôi nhất trí giao lại căn nhà 4 gian, sân gạch, giếng nước ăn và
toàn bộ tài sản trong nhà từ cái nhỏ nhất đến cái to nhất cho con trai Hoàng Hồng
H1 có số chứng minh nhân dân là số

Vậy kính mong UBND Thị trấn xác nhận.””

11


3.2 Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015.
Trong bản án, Tòa lập luận bản di chúc là có giá trị pháp lý tại đoạn: “...ông X
được các bên đương sự thừa nhận có tinh thần minh mẫn, không phải nằm viện
điều trị cho đến thời điểm trước khi chết chứng tỏ ông X viết bản di chúc sáng
suốt, không bị sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điều 630 Bộ luật
dân sự 2015...”.
3.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Theo nhóm em, bằng các lập luận và chứng cứ giám định của phòng kỹ thuật hình
sự, Tòa án đã công nhận di chúc giữa vợ chồng ông X là hợp lí phù hợp với quy

định tại điều 630 BLDS 2015.

12


4 DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Về việc “tranh chấp di sản thừa kế” giữa nguyên đơn anh Phan Văn Được và bị
đơn anh Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương.
Tài sản gồm có 01 căn nhà cấp 4 trên diện tích khoảng 100m2.
Nguyên đơn anh Được yêu cầu chia di sản thừa kế của mẹ anh cho 07 anh chị em,
anh được sử dụng nhà đất và chia bằng tiền cho 6 anh chị em giá trị tương ứng với
phần di sản được hưởng.
Các đồng thừa kế khác đồng ý chia di sản thừa kế, phần di sản thừa kế các anh chị
được hưởng, các anh chị để lại anh Được được quyền sở hữu sử dụng.
Sau khi nghiên cứu kĩ hồ sơ có trong vụ án Tòa quyết định:
• Giao cho anh Được quyền được sở hữu, sử dụng tài sản trên.
• Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân
và chị Hương.
• Sau khi bản án có hiệu luật anh Được phải liên hệ với cơ quan có thẩm
quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
4.1 Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.


Điều 645 BLDS2015 quy định về quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng
như sau:

"1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng

thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ
định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định
không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa
kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ cúng.

13


Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
• Nghị định 166/2013/NĐ-CP Quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính:
Điều 19. Những tài sản không được kê biên
1. Nhà ở duy nhất của cá nhân và gia đình người bị cưỡng chế có diện tích tối thiểu
theo quy định của pháp luật về cư trú.
2. Thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu cho cá nhân
bị cưỡng chế và gia đình họ sử dụng.
3. Công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho cá nhân bị
cưỡng chế và gia đình họ sử dụng.
4. Đồ dùng thờ cúng; di vật, huân chương, huy chương, bằng khen.
5. Tài sản phục vụ quốc phòng và an ninh.
6. Tài sản đang được cầm cố, thế chấp hợp pháp.

4.2 Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng

vào việc thờ cúng?
Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con
đồng hưởng để thờ cúng cha, mẹ, anh Được là người quản lý di sản.
4.3 Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp:
• Di sản của người chết để lại phải thanh toán xong các nghĩa vụ.
• Di sản thờ cúng phải ghi rõ trong di chúc và chỉ định người quản lý.
14


• Nếu di chúc không chỉ định thì các đồng thừa kế cử người đại diện ra quản
lý.
Căn cứ vào các điều kiện trên thì di sản dùng vào việc thờ cúng hoàn toàn thỏa
mãn.
4.4 Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Những người đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp:
• Anh Phan Văn Được
• Anh Phan Văn Thảo
• Anh Phan Văn Xuân
• Anh Phan Văn Nhành
• Chị Phan Thị Hoa
Những người không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh
chấp:
• Anh Phan Văn Tân
• Chị Phan Thị Hương
Đoạn của bản án cho câu trả lời:
“Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại nhà đất cho 7 anh chị em,
hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ

anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý.”
4.5 Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào trong bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng.
Đoạn trong bản án cho câu trả lời:
“Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn Được đối với anh
Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh
Phan Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân, anh Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về
việc “Tranh chấp di sản thừa kế”
15


.……
Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị
Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm
hai mươi bốn ngàn đồng).”
4.6 Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
Theo nhóm em, căn cứ theo khoản 1 Điều 645 BLDS 2015
“Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không
thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
…”
Trong bản án này, Tòa đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được,

giao cho anh Được được quyền sở hữu và sử dụng căn nhà do bà Lùng để lại. Anh
Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị
Hương mỗi người số tiền là 37.424.000đ.
Xét về mặt lý thì giải pháp của Tòa có phần không đúng. Vì nếu theo di chúc của
bà Lùng thì bà để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha
mẹ. Căn nhà chính là di sản dùng để thờ cúng, là tài sản chung của những người
thừa kế nên không thể định đoạt, chia lẻ mà chỉ được quyền quản lí và dùng cho
mục đích thờ cúng. Nhưng Tòa lại quyết định chia di sản dùng vào việc thờ cúng,
anh Được phải thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương mỗi
người số tiền là 37.424.000đ. Như vậy di sản đã bị xé lẻ ra, mất đi bản chất chỉ
dùng để thờ cúng mà không được định đoạt.
Xét về tình thì cách xử của Tòa đã đáp ứng được nguyện vọng của những người
thừa kế, vẫn đưa đến kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà
đất được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa
không nhận di sản mà cho lại anh Được; anh Được có trách nhiệm thanh toán giá
trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương. Căn nhà vẫn được giữ nguyên, anh
Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính.
16


17



×