Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.66 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”
Thời gian đã qua lâu rồi, nhưng những lời tuyên ngôn của Bác đã đọc tại
quãng trường Ba Đình lịch sử vẫn luôn ở trong tấm trí chúng ta. Lật lại những
trang sử hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng dân ta đã đấu tranh rất anh dũng
để có được độc lập ngày nay. Hết đánh Pháp ta lại đánh Mỹ, ban đầu chỉ là
những cuộc đấu tranh tự phát sau đó chuyển sang tự giác nhưng hầu hết đều
thất bại. Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ lâm vào bế tắc, nhiệm vụ cấp bách
là phải tìm một con đƣờng cách mạng mới. Chính lúc đó Nguyễn Ái Quốc
xuất hiện. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo trí thức, yêu nước
muốn làm cách mạng nhưng Nguyễn Ái Quốc không tán thành đường lối cứu
nước của các bậc tiền bối. Năm 1911 Nguyễn Ai Quốc đã ra đi tìm đường cứu
nước. Ở đây Người đã nhận thấy nỗi khổ của nhân dân lao động, được tiếp xúc
với luận cương của Lê Nin, người đã tìm thấy con đường đi mới cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Trên con đường tìm đ ư ờng cứu nước và hình thành tư
tưởng người đã gặp không ít khó khăn thử thách nhưng với tấm lòng yêu nước
và sự kiên trì của mình Người đã vượt qua và tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Các
văn kiện như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Đường cách mệnh của Bác
đã góp phần rất lớn trong việ tìm ra thông tin cho cách mạng Việt Nam cũng như
cách mạng các dân tộc bị áp bức.
Quá trình hình thành tư tưởng của Bác trải qua năm giai đoạn, nó dần
được hoàn thiện và bổ sung và những năm 1945-1969. Đây cũng là thời điểm
cách mạng tháng Tám thành công. Cuộc cách mạng này là kết quả của việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và càng chứng minh đường lối cứu nước của Bác
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh
1



là một hệ thống quan điểm toàn diện những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa
là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, đồng thời là sự kết tinh của tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời dại
nhằm giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

2


NỘI DUNG
Chương 1. Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc
1.1.

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con

đường cách mạng vô sản.
1.1.1 Rút ra bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của các con đường
trước đó cứu nước trước đó :
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được
yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí
Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán
thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu
nước mới.
1.1.2 Cách mạng tư sản là không triệt để
Sau khi ra đi và chứng kiến các cuộc cách mạng tư sản lớn trên thê giơi như
cách mạng Anh , Cách mang Pháp , cách mạng Mỹ tuy đã giành thắng lợi hơn
150 năm nay mà nhân dân lao động vẫn khổ và họ đang muốn làm cách mạng

lần nữạ Nhận thức được rằng, cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này
bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ không xóa bỏ được áp bức bóc lột,
vì thế Người cho rằng đó là những cuộc cách mạng không đến nơi, không triệt
để.
1.1.3 Con đường giải phóng dân tộc
Với sự thắng lợi của Cuộc cách mạng tháng 10 Nga.Đây là cuộc cách mạng
vô sản đầu tiên trên thế giới dưới sự lảnh đạo của LêNin. Do đó vào tháng 71920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của V.I. Lênin(Bao gồm 12 luận cương), Người thấy "tin tưởng,
3


sáng tỏ và cảm động". Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta".
Đầu năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le
Paria), Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hòa bình, hạnh phúc..."
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết
tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó. Người đã khẳng định “ Muốn
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản “.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao
hàm những nội dung chủ yếu sau:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã hội
cộng sản".
- Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó
là Đảng Cộng sản.
- Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.

4


1.2.

Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
Sản lãnh đạo

1.2.1. Cách mạng trước hết phải có Đảng
Bác đã xác định công cuộc giải phóng dân tộc phải đi theo cuộc cách mạng
Vô sản.
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công “trước
hết phải có Đảng cách mệnh, Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công”.
“Cách mệnh phải làm cho dân giác ngộ”, “Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa
cho dân hiểu”, “sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng
cách mệnh”.
Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
đảng của phong trào cách mạng nước ta.
1.2.2. Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất
Đầu 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của
giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”,
có tổ chức chặt chẽ, kỹ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Khi khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm quan trọng, định hướng

cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng có sự gắn kết chặt
chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời
kỳ của cách mạng Việt Nam. Và Đảng Cộng Sản chính là người lãnh đạo cũng
như là người đại diện duy nhất của nhân dân Việt Nam .

5


1.3.

Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc

1.3.1. Cách mạng là sự nghiệp của dân tộc bị áp bức
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Người cho rằng: “ để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…”
Trong CM tháng 8 năm 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống pháp và
chống mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy
dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có
tất cả”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người khẳng định: “ dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống
nào cũng không chống lại nổi. Phải dựa vào dân, dựachắc vào dân thì thì kẻ địch
không thể nào tiêu diệt được. Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượngcủa
quần chúng, của dân tộc”.
1.3.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
Để đoàn kết toàn dân tộc, Nguyễn Aí Quốc chủ trương xây dựng mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc đấu tranh giành
độc lập tự do.

Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động
lực CM của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và
nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bịáp bức bóc
lột nặng nề nhất, nên lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…
công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu
được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó Người khẳng định: “công
6


nông là gốc cách mệnh”. Khẳng định vai trò động lực CM của công nhân và
nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu
nước trước đó.
Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo CM giải phóng dân
tộc,Người đề xuất với Đảng thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh.
Người chủ trì Hội nghị đã đề ra nghị quyết xác định “ lực lượng CM là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ,
tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt
trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh
tan giặc pháp- nhật xâm chiếm nước ta”. Tháng 9/ 1955, Hồ Chí Minh khẳng
định: “ Mặt Trận Việt Minh đã giúp CM tháng 8 thành công”.
1.4.

Cách mạng dân tộc cần được tiến hành chủ động , sang tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

1.4.1. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo
- Vận dụng công thức của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm:
“Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện

được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
- Tháng 8-1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
1.4.2. Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là
7


mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính
- phụ.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một
cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
1.4.3. Chứng minh luận điểm “Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải
chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản
ở chính quốc” là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh trong công cuộc giải
phóng dân tộc
Lênin nhận ra vai trò to lớn của hệ thống thuộc địa thế nên ông đã khẳng
định: Cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, của toàn bộ quá trình cách mạng thế giới nói chung. Leenin cho
rằng cách mạng thuộc địa chỉ phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc.Quan điểm này, chưa nhận thức hết tính chủ động, sáng tạo của các phong
trào cách mạng ở thuộc địa.
Nhờ đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh

cũng đã tiếp thu, bảo vệ và phát triển sáng tạo bằng những luận điểm mới mà ở
thời mình Lênin chưa có điều kiện khám phá. Một trong những luận điểm hết
sức sáng tạo đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, đó là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không hoàn
toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc

8


địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”,
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một trong những sáng tạo lý luận đặc sắc của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ
nghĩa Mác – Lênin.
1.5.

Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực

1.5.1. Tính tất yếu của bạo lực cách mạng
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí
Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang, nhưng phải “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu
tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”.
1.5.2. Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo

và hòa bình
Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người,
Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu.Người tìm
mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung
đột bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận
những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng.

9


1.5.3. Hình thái bạo lực cách mạng
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí
Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào
sự giúp đỡ bên ngoài.

10


Chương 2. Vận dụng những tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc vào tình hình nước ta hiện nay
2.1. Khái quát tình hình nước ta hiện nay
Trải qua bao thăng trầm , khó khăn ,gian khổ để giành lại độc lập dân tộc ,tự
do nhân dân thì ngày nay đất nước ta đang trên đà đổi mới , lột xác toàn diện.
Từ một nước làm nô lệ cho thực dân, đế quốc mà giờ đây đã trở thành một trong
những nước có nền kinh tế, chính trị , an ninh –quốc phòng ổn định trong khu
vực. Để làm được điều này phải kể đến công lao to lớn của Đảng với những

chính sách chiến lược đúng đắn, thích hợp. Trải qua gần 30 năm thực hiện chính
nhờ những đường lối Đổi mới, những quan điểm, tư tưởng , lý luận của Đảng đã
đưa đất nước từng bước vượt qua mọi khó khăn, thách thức và ngày càng phát
triển vững chắc.
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc để
xây dựng đất nước
2.2.1. Con đường cách mạng vô sản
Vai trò của con đường cách mạng vô sản trong thời kì xây dựng đất nước.
Trong quá khứ ,Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân
dân không còn con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản. Thắng lợi của cách
mạng tháng( 8/1945 ) cũng như những thắng lợi trong suốt ba mươi năm đấu
tranh kiên cường của dân tộc Việt Nam(1945-1975) trước hết là nhờ vào vào
thắng lợi trong tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính cách mạng và đặc
biệt sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vô sản.
Và ngày nay, khi đất nước đã đã hoàn toàn độc lập và chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn đó chính là nhờ vào việc xây dựng đất nước trên chính
con đường cách mạng vô sản. Nó vẫn còn nguyên giá trị, luôn là cơ sở, nền tảng
11


để xây dựng đất nước trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Ngày nay,
Đảng ta vẫn đang vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo cách mạng vô sản
vào từng trường hợp cụ thể. Công cuộcchống giặc ngoại xâm, giành được đất
nước, mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân đã khó nhưng công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước còn khó hơn. Trong thời khắc quan trọng của đất nước
– thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta luôn phải đối mặt với nhiều thử
thách, khó khăn về các mặt như kinh tế, chính trị ,xã hội… Đặc biệt là sự chống
đối của các thế lực phản động, thù địch , cơ hội về chính trị , “diễn biến hòa
bình’’ chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của

nhân dân ta phủ nhận luôn cả tư tưởng quan điểm của Hồ Chí Minh và đường
lối, quan điểm của Đảng ta. Có thể nói, trong thời bình nhưng chiến tranh vẫn
ngầm diễn ra và còn mang tính nguy hiểm hơn nhiều. Chính bởi vậy, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới, cấp thiết,
“Cách mạng vô sản’’ vẫn đang tiếp tục rèn luyện cho mỗi cá nhân ý thức độc lập
tự chủ, tự lực tự cường, giúp dân vượt lên sự đói nghèo và lạc hậu, đặc điệt là
chống lại chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người giúp chúng ta luôn luôn trong
tư thế cảnh giác cao độ, dập tắt những âm mưu phản động ngay từ khi le lói,
chống mọi âm mưu can thiệp của nước ngoài dưới mọi hình thức .
Phương thức vận dụng cách mạng vô sản của Đảng ta.
Để phát huy tinh thần của “Cách mạng vô sản” đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta cần quán triệt thực tốt những bài học quan trọng chỉ đạo tiến trình
cách mạng Việt nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội năm 2011, đó là:
- Một là, trước hết trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử vì vậy phải luôn
coi trọng vai trò của nhân dân.
12


- Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng,
toàn dân, đoàn kết quốc tế.
- Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế.
- Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ mới, mỗi cán bộ đảng viên phải luôn không ngừng phấn đấu
rèn luyện mình thực sự có lòng yêu nước chân chính, biết đặt lợi ích của đất

nước, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, tiếp tục phát huy những phẩm chất
anh hùng cách mạng, xây dựng niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào đường lối
các mạng của Đảng góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Vai trò của Đảng trong thời kì xây dựng và phát triển đất nước
Trong tác phẩm đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trước hết
phải có đảng cách mệnh , để trong thì vận động và tổ chức dân chúng , ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam, tất cả các lực lượng, xu
hướng chính trị khác đều tan rã, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đứng vững và
lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Do vậy, Đảng ta nắm quyền lãnh đạo cách
mạng là tất yếu lịch sử và trở thành đội tiên phong cách mạng. Sang thế kỷ XXI,
vai trò, chức năng của Đảng chẳng những không suy giảm mà ngày càng chiếm
giữ vị thế quan trọng hơn trong lòng dân.Trong công cuộc xây dựng và giữ
nước, Đảng ta vẫn là tổ chức duy nhất có khả năng lãnh đạo, điều tiết mọi hoạt
động, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư cách là
người chèo lái con thuyền của một dân tộc, Đảng ta phải thực sự là người cách
13


mạng, đủ sức lãnh đạo đưa Việt Nam trở thành một nước hùng cường trên con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Trong một số lĩnh vực, Đảng và Nhà Nước
luôn có sự can thiệp giúp đỡ :
- Kinh tế : Đảng và Nhà Nước Luôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong và ngoài nước phát triển đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
khuyến khích giúp đỡ doanh nghiệp.
- Chính trị: Đảng luôn phát huy khả năng nắm bắt tình hình, đưa ra nhận

định các vấn đề trong xã hội, Đảng là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu
chiến đấu cho nhân dân .
- Văn hóa, xã hội : Đảng luôn đưa ra đường lối, phương pháp tiếp thu
những nền tinh hoa văn hóa của nhân loại, bảo tồn và phát huy những nét
đẹp văn hóa của dân tộc.
- Ngoài ra, trên các lĩnh vực giáo dục, khoa học, nghệ thuật, phúc lợi xã
hội… Đảng luôn tìm cách phát huy năng lực, tạo điều kiện tốt cho sự phát
triển và nâng cao chất lượng,....
Tóm lại, từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay đất nước ta đã đạt được nhiều
thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước ,là người
cầm lái đưa con thuyền mang tên Việt Nam vượt qua mọi chông gai, thách thức
để cập bến bờ mang tên chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy mỗi chúng ta hãy luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng , tăng cường xây dựng Đảng trong sạch , vững
mạnh; phê phán mọi biểu hiện xem nhẹ vai trò của Đảng; chung tay, góp sức
làm những gì có thể để cùng Đảng xây dựng đất nước làm nền tảng cho tư
tưởng chủ đạo cho mục tiêu “vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ ,
công bằng văn minh”.
2.3. Vai trò của quần chúng nhân dân trong công cuộc đổi mới đất nước
2.3.1. Vai trò của nhân dân
Từ xưa đến nay mỗi khi nhắc đến dân tộc Việt Nam cả thế giới đều phải nể
phục tinh thần đoàn kết toàn dân, tính kiên cường , dũng cảm chính những yếu
14


tố đó đã làm nên những thắng lợi vẻ vang . Và quan điểm “Lấy dân làm gốc’’
của chủ tịch Hồ Chí minh đã đúng đắn xuyên suốt quá trình đấu tranh của nhân
dân ta, không những vậy ngày nay quan điểm đó vẫn mãi là cơ sở để xây dựng
một đất nước vững mạnh .Đảng lãnh đạo luôn đề cao tinh thần đoàn kết của
dân, chú trọng vào việc xây dựng và phát huy vai trò, tinh thần đoàn kết trong
nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

2.3.2 Đảng phát huy vai trò của nhân dân
Toàn bộ hoạt động của Đảng xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính
của nhân dân Đảng và nhân dân phải gắn bó mật thiết với nhau. Quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường đối với vận
mệnh của đất nước. Tổng kết 25 năm đổi mới, Đảng khẳng định đổi mới phải
dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn , luôn luôn sáng
tạocoi quần chúng nhân dân mãi là chỗ dựa vững chắc để Đảng củng cố, xây
dựng và tiếp tục phát triển phong trào cách mạng. Chính sức mạnh của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những thắng lợi to lớn
của cách mạng Việt Nam cho đến ngày nay.
Các cấp ủy, tổ chức đảng phải luôn nhận thức đúng đắn về vai trò, trách
nhiệm của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chọn lọc, phân tích ý kiến của
họ , chủ động phối hợp trong việc xử lí các ý kiến, kiến nghị, đơn thư phản ánh,
tố cáo đối với đảng viên, kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lí đúng người, đúng
việc thì cấp ủy, tổ chức đảng ngày càng vững mạnhluôn nhận được sự tin tưởng
ủng hộ nhiệt tình của toàn thể nhân dân.
Đảng và Nhà Nước đã nêu cao tinh thần dân chủ , gắn bó tình đoàn kết giữa
quan và dân thông qua việc cho quần chúng nhân dân đóng góp ý kiến, kiến
nghị của nhân dân tại các cơ quan (nhất là trụ sở xã, phường, thị trấn) thông qua
hòm thư ý kiến hoặc một số chương trình truyền thông để giải đáp các vấn đề
dân thắc mắc; tổ chức các hội nghị đóng góp ý kiến về năng lực điều hành, đạo
15


đức, lối sống và lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ chủ chốt ở cơ
sở được dân bầu ,để quần chúng nhân dân thực hiện phê bình, góp ý và giám sát
cán bộ, đảng viên…
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã đưa ra một số biện
pháp để phát huy tinh thần , sức mạnh của toàn dân:
- Thứ nhất, Các tổ chức phải giúp quần chúng nhân dân hiểu rõ mục đích,

ý nghĩa của nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay để quần chúng
nhân dân tin tưởng và thực hiện việc phê bình, góp ý kiến xây dựng Đảng
với tất cả tấm lòng, trách nhiệm của mình.
- Thứ hai, Tích cực phát huy vai trò giám sát của quần chúng nhân dân
thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Các Đảng viên , các cấp các
ngành phải thường xuyên đối thoại , nắm bắt tâm tư tình cảm của dân và
có biện pháp giải quyết kịp thời .
- Thứ ba, Đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ,hoàn thiện cơ
chế, chính sách, văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở các cấp, các
ngành phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân trong quá trình
xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước .
- Thứ tư, Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.Bằng cách tăng cường giáo dục, nâng
cao chất lượng sinh hoạt đảng, năng lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của đảng viên; nghiêm túc trong thực hiện tự phê bình và phê bình để kịp
thời phát hiện, ngăn chặn tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo
đức, lối sống.
Thực hiện tốt việc phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham gia xây
dựng, chỉnh đốn Đảng về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
nhất định sẽ nâng cao sự vững mạnh của các tổ chức cấp ủy đảng, củng cố sự
16


liên hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng nhân dân. Việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là nhiệm vụ đầy khó khăn, thách thức, mang tính sống còn của Đảng hiện
nay và sẽ thành công khi quần chúng nhân dân chung tay, góp sức.
2.4. Phát huy, vận dụng thích hợp con đường cách mạng bạo lực vào con
đường bảo vệ đất nước trong thời đại mới
HCM đã khẳng định : “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của

giai cấp và của dân tộc , cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền ” và thực tiễn cũng đã
chứng minh Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng đều không thể thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng.
Ngày nay , tuy đất nước ta đã giành được độc lập nhiệm vụ xây dựng đất
nước có điều kiện thuận lợi hơn so với các thời kì trước đây, song cũng gặp
không ít khó khăn và thách thức; đặc biệt là sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch trong và ngoài nước. Các thế lực thù địch chống phá quân đội ta về
chính trị với nhiều thủ đoạn vừa ngấm ngầm, tinh vi, xảo quyệt, vừa công khai
trắng trợn; việc đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận và văn hóa
của quân đội ta không chỉ đơn thuần là đấu tranh vũ trang mà còn phải kết hợp
nhuần nhuyễn với đấu tranh trên mặt trận chính trị và hiện nay thực sự là một
cuộc đấu tranh nóng bỏng, rất quyết liệt, phức tạp và còn nhiều khó khăn.Vì
vậy, bạo lực cách mạng chính là công cụ quan tringj nhất để bảo vệ công cuộc
xây dựng đất nước.
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy mạnh mẽ
sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục
tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng
trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững
ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với
17


các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động,
bất ngờ trong mọi tình huống”1.
Để thực hiện được bạo lực cách mạng. Hoàn thiện các chiến lược quốc
phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong
điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy

chế phối hợp giữa quân đội với công an và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng ta đã chú trọng đến việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại phát triển công
nghiệp quốc phòng, an ninh ,tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho
các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực
lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát
cơ động.
Để chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”cũng
như các luận điệu bịp bợm chống phá quân đội ta về chính trị, tư tưởng, trước
hết cần phải nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn hết sức xảo quyệt, tinh vi
của các thế lực thù địch. .Trong tình hình hiện nay Đảng ta đã đấu tranh chống
lại các thế lực một cách mềm dẻo mà cứng rắn, kiên quyết , mạnh mẽ, luôn kêu
gọi tinh thần đoàn kết của toàn dân .
Ngày nay, xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại không hề bác bỏ quan
điểm mácxít về cách mạng bạo lực, bởi vì xu thế đó được tạo ra từ chính sự lớn
mạnh của các phong trào cách mạng và hòa bình, bởi tương quan giữa cách
mạng và phản cách mạng.
Mua sắm một số trang thiết bị quốc phòng, an ninh hiện đại để có thể ứng
phó với xung đột vũ trang, chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao,…
Bên cạnh phát huy tư tưởng bạo lực cách mạng, Đảng ta luôn kêu gọi tinh
thần đoàn kết, làm bạn với nhiều nước trên thế giới và thiết lập quan hệ ngày
1(

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG, H, 2011, Tr, 233)
18


càng tốt đẹp; trân trọng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của các nước
bạn; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát

triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;Ưu tiên thông qua các biện pháp
hòa bình, đàm phán để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các nước trong khu
vực. Luôn kiên trì phương châm hợp tác hữu nghị với các nước tạo điều kiện
thuận lợi để thúc đẩy giao lưu hợp tác giữa hai nước; Đẩy mạnh thực hiện hiệu
quả các thỏa thuận hợp tác cùng phát triển. Đảng và Nhà Nước ta luôn phát huy
tư tưởng nhân đạo yêu chuộng hòa bình,thương yêu con người.Nhưng một khi
đã hết sức kiềm chế, bày tỏ mọi thiện chí, sử dụng mọi biện pháp đối thoại mà
kẻ thù vẫn không hợp tác thì quân và dân ta sẽ phải tiến hành chiến tranh, sử
dụng bạo lực cách mạng để bảo vệ những gì đã và đang thuộc về dân tộc.

KẾT LUẬN
Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh đã không tự khuôn mình trong những nguyên lý có sẵn,
không rập khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở
thuộc địa mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải
quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc ,gắn độc lập dân tộc với phương
hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó
19


phải trải qua những thử thách hết sức gay gắt. Song thực tiễn đã chứng minh lý
luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn
dân và chiến tranh nhân dân.
Người đã kết hợp các quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh. Phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc và dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc để tiến hành
khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng.
Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của

Đảng.Vận dụng sáng tạo và phát triển các học thuyết của V.I .LêNin về cách
mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ.
Người đã thành công trong việc đưa từ lập trường tư sản chuyển sang lập
trường vô sản . Làm chuyển hoá phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra
đời của Đảng cộng sản Việt Nam.Đấy là sự chuyển hóa mang tính cách mạng
đưa sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chiến
thắng cách mạng thang 8-1945 và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam đã
chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, soi đường cho Dân tộc Việt Nam tiến lên, cùng nhân loại biến thế kỷ 20
thành một thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Nếu nói rằng các quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của HCM
là ánh sáng soi đường cho thắng lợi cuả dân tộc Việt Nam thì ngày nay các quan
điểm đó vẫn còn nguyên giá trị, là kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng, bảo
vệ đất nước . Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại tiến bộ
trên toàn thế giới một kho tàng lý luận quý giá cho sự nghiệp cách mạng của
giai cấp vô sản và công nhân toàn thế giới. Có thể khẳng định, sự đúng đắn của
20


quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định sự
thành công của công cuộc đổi mới nước ta gần 30 năm qua.

21



×