Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phát huy giá trị truyền thống việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.87 KB, 99 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh thế giới ngày nay các nhân tố chủ quan và khách quan
cùng gắn bó mật thiết với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình
phát triển của mỗi dân tộc. Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế là mối quan hệ
biện chứng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Do đó
hội nhập quốc tế là đòi hỏi tất yếu, là yêu cầu khách quan trong quá trình phát
triển của mỗi quốc gia, đặc biệt trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của xu thế
toàn cầu hóa, sự ảnh hưởng đa chiều của các thành tựu khoa học kỹ thuật và
công nghệ như hiện nay. Hội nhập là điều kiện quan trọng để tiếp thu những
thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, tiếp thu các giá trị văn minh nhân
loại, hình thành nên những nhân tố ngoại lực cho sự phát triển của đất nước.
Đối với Việt Nam, điều này càng trở nên quan trọng khi chúng ta xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn chậm phát triển. Thực trạng đó
đặt ra yêu cầu tất yếu là chúng ta phải biết tận dụng những lợi thế của thời
đại, tranh thủ những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ để đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp thu những giá trị văn
minh nhân loại để làm giàu thêm, làm mới thêm các giá trị văn hóa bản địa.
Đó chính là những điều kiện không thể thiếu để chúng ta có thể rút ngắn quá
trình lịch sử quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Với
ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy nên trong các nghị quyết, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh
thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" [12, tr.120]. Một trong những bài
học kinh nghiệm lớn đảm bảo cho sự thành công của cách mạng Việt Nam đã
được Đảng ta tổng kết đó là: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
1



Tuy nhiên, quá trình hội nhập hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh
quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp; mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những
thời cơ và thuận lợi trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… nhưng cũng
đang phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Những nước có thế
mạnh về kinh tế, khoa học công nghệ muốn áp đặt giá trị văn hóa của họ; các
thế lực phản động lại nhân danh hội nhập để làm chệch hướng con đường phát
triển của đất nước ta. Vì thế việc kế thừa, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống là hết sức cần thiết nhưng chính trong quá trình đó cũng đã và đang nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp.
Thực tế đã cho thấy có những biểu hiện mang tính chất sai lệch khi
phát huy giá trị truyền thống trong quá trình hội nhập. Một mặt biểu hiện
khuynh hướng hư vô chủ nghĩa, người ta nhân danh hiện đại, nhân danh đổi
mới, hội nhập mà xem nhẹ thậm chí coi thường việc phát huy giá trị truyền
thống. Điều này có thể thấy nhiều hơn ở thế hệ trẻ. Ví như, xu hướng chạy
theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền mà xem nhẹ các giá trị gia đình truyền
thống, các giá trị tình nghĩa nhân văn cộng đồng, vị tha, khoan dung, các
chuẩn mực nhân cách, sự tôn kính người cao tuổi… Mặt khác, một khuynh
hướng khác đó là thái độ bảo thủ đối với truyền thống. Điều này được thể
hiện ở hai khía cạnh, thứ nhất là quan điểm bảo thủ trong việc phát huy giá trị
truyền thống dẫn việc cản trở quá trình chúng ta thực hiện chính sách mở cửa
hội nhập, nhìn những tác động của mở cửa, hội nhập nặng về tiêu cực, không
thấy mặt tích cực của nó. Điều này vừa không biện chứng trong việc xem xét
mối quan hệ giữa phát huy giá trị truyền thống với quá trình hội nhập, vừa
không phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Thứ hai là
việc giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống theo kiểu không có đổi mới ví như
việc khôi phục các giá trị văn hóa cổ nhưng không có tinh thần phê phán, lọc
bỏ những yếu tố không còn phù hợp, những yếu tố lỗi thời. Khuynh hướng

2



này dẫn đến chỗ việc phát huy giá trị truyền thống không những không được
thực hiện mà còn làm mất đi sức sống mới của giá trị truyền thống dân tộc.
Trước thực trạng đó phương án tối ưu cho quá trình hội nhập bền vững
và cũng là phương án cho việc phát triển nền văn hoá Việt Nam theo hướng
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là chúng ta cần có cách nhìn nhận, xem xét
biện chứng, khoa học đối với giá trị truyền thống trong mối quan hệ với hội
nhập để tìm cho được những giải pháp thực hiện việc phát huy giá trị truyền
thống trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Từ những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên chúng tôi chọn đề tài "Phát
huy giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế" làm
luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc khảo sát tài liệu, tổng quan về tình hình nghiên cứu vấn đề, tác giả
luận văn nhận thấy có thể nhóm thành 3 nhóm vấn đề như sau:
Nhóm vấn đề thứ nhất là kế thừa và phát huy giá trị truyền thống Việt
Nam. Đây là vấn đề đã được nhiều tập thể, nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu ở những mức độ khác nhau:
- Công trình "Về giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam" (nhiều tác giả)
gồm 2 tập, nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội, 1983 và "Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam" của GS Trần Văn Giàu, nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản 1993) đã phân tích một cách sâu sắc về các
giá trị tinh thần truyền thống của người Việt Nam. Đặc biệt ở góc độ sử học
và đạo đức học GS Trần Văn Giàu đã phân tích sự vận động của những giá trị
tinh thần truyền thống qua những sự kiện phong phú của lịch sử Việt Nam.
- Các công trình: GS Nguyễn Văn Dân với "Con người và văn hoá Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập", Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
2009; GS,TS Đỗ Huy và Trường Lưu với “Sự chuyển đổi các giá trị văn hoá

3



trong văn hoá Việt Nam" Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993 là
những công trình có tính chất chuyên sâu về kế thừa giá trị truyền thống văn
hoá Việt Nam.
- Công trình của TS. Hồ Sĩ Quý “Giá trị và giá trị Châu Á”, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Dưới góc độ tiếp cận của tác giả là tìm
hiểu bản chất giá trị Châu Á và vai trò của giá trị Châu Á đối với sự phát triển
của các quốc gia Châu Á, tác giả đã làm rõ nội hàm của một số khái niệm như
giá trị, truyền thống, hay giá trị truyền thống.
Nhìn chung tác giả những công trình này đã nghiên cứu vấn đề kế thừa
các giá trị truyền thống trên bình diện chung của văn hoá dân tộc Việt Nam.
- Ở phạm vi hẹp hơn, trong luận án tiến sĩ tác giả Cù Huy Chử (1995) đã
đứng trên quan điểm giá trị để nghiên cứu vấn đề "Kế thừa giá trị truyền thống
văn hoá dân tộc trong xây dựng nền văn hoá nghệ thuật Việt Nam". Ở đây tác
giả đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự kế thừa các giá trị truyền thống
văn hoá dân tộc để xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam; Luận án tiến sĩ
"Vấn đề kế thừa và phát huy giá trị văn hoá truyền thống trong việc xây dựng
lối sống ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Trọng Nhật (2006) đã chỉ rõ
việc kế thừa và phát huy giá trị truyền thống như một quá trình tất yếu trong
xây dựng lối sống mới ở nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Mỗi tác giả có một bình diện nghiên cứu, xem xét vấn đề khác nhau
nhưng nhìn chung có thể nhận thấy những vấn đề lớn mà các tác giả đã đi sâu
nghiên cứu: Thứ nhất, các khái niệm truyền thống và giá trị truyền thống đã
được bàn đến khá kỹ như truyền thống là gì, cần phải hiểu như thế nào về giá
trị truyền thống… Thứ hai là luận giải tính tất yếu của sự kế thừa giá trị
truyền thống trong quá trình phát triển của đất nước.
Nhóm vấn đề thứ hai là: mở cửa hội nhập quốc tế. Đã có một số công
trình tiêu biểu như:


4


- Công trình của nhóm tác giả: K. Bubl, R. Kuege, H. Marienburg
“Toàn cầu hóa với các nước đang phát triển”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Hà Nội, 2002; công trình “Những mảng tối của toàn cầu hóa” nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 (nhiều tác giả); công trình “Những đặc điểm
lớn của thế giới đương đại”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007…
Những công trình này đã đề cập đến quá trình hội nhập như một yêu cầu
khách quan đối với các quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
- Hội thảo khoa học Việt Đức về: "Vấn đề toàn cầu hoá và tác động đối
với hội nhập Việt Nam" diễn ra trong hai ngày 27 và 28/11/2002. Các tham
luận của hội thảo đã làm rõ những tác động đa chiều của hội nhập quốc tế đối
với Việt Nam.
Ở nhóm vấn đề này dù dưới cái nhìn của các nhà nghiên cứu nước
ngoài hay trong nước thì những vấn đề lớn được bàn thảo nhiều đó là: vấn đề
tính tất yếu và sự cần thiết của quá trình hội nhập, thời cơ và thách thức do
quá trình hội nhập mang lại.
Nhóm vấn đề thứ ba là: mối quan hệ giữa giá trị truyền thống với quá
trình mở cửa hội nhập quốc tế. Xung quanh vấn đề này đã có những công
trình nghiên cứu và những hội thảo khoa học chuyên sâu như:
- GS. TS Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS. TS Nguyễn Văn Huyên (đồng
chủ biên) với "Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá"
gồm 28 bài viết; tác giả Trường Lưu với “Toàn cầu hóa và vấn đề bảo tồn văn
hóa dân tộc”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Trong các công
trình đó đã đề cập đến những vấn đề cơ bản như thực chất của toàn cầu hoá,
hội nhập quốc tế hiện nay, phát huy các giá trị truyền thống Việt Nam trong
điều kiện mới của thời đại dưới tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế.
- GS. TS Đỗ Huy với cuốn "Nhận diện văn hoá Việt Nam và sự biến

đổi của nó trong thế kỷ mới" Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
5


trên cơ sở nhìn lại văn hoá Việt Nam trong thế kỷ XX, tác giả đã đề cập đến
việc xây dựng những giá trị truyền thống Việt Nam trong thế kỷ mới.
Nhìn chung nhóm vấn đề này đã nêu bật những tác động của hội nhập
quốc tế đối với việc phát triển của các quốc gia nói chung, tác động đến việc
bảo lưu, phát huy không gian văn hóa, giá trị văn hóa truyền thống của các
quốc gia nói riêng.
Về mặt lý luận và thực tiễn các công trình nêu trên ở những phương
diện tiếp cận khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho việc kế thừa các
giá trị truyền thống trong xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là trong quá trình đẩy mạnh công cuộc
hội nhập quốc tế đa phương hoá, đa dạng hoá hiện nay.
Tuy nhiên đây là một trong những vấn đề phong phú và phức tạp đòi
hỏi phải tiếp tục được nghiên cứu ở nhiều phương diện khác nhau cả chiều
rộng lẫn chiều sâu. Nghiên cứu vấn đề phát huy giá trị truyền thống của dân
tộc trong quá trình Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ trương
tích cực, chủ động đẩy mạnh công cuộc hội nhập quốc tế theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế từ bình diện triết học như là một
công trình nghiên cứu chuyên biệt có hệ thống và hoàn chỉnh vẫn là một đề tài
khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ biện chứng
giữa việc phát huy giá trị truyền thống với quá trình hội nhập quốc tế và phân
tích những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ đó, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò giá trị truyền thống của dân tộc trong quá
trình tích cực và chủ động hội nhập quốc tế hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Xác định một số khái niệm cơ bản như: Giá trị, truyền thống, giá trị
truyền thống.

6


+ Hệ thống hoá những giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam.
+ Phân tích vai trò của giá trị truyền thống Việt Nam trong việc thực
hiện hội nhập quốc tế hiện nay.
+ Phân tích sự biến đổi của giá trị truyền thống trong quá trình hội nhập
và chỉ ra những vấn đề nảy sinh khi giải quyết mối quan hệ giữa phát huy giá
trị truyền thống với mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị truyền
thống Việt Nam trong bối cảnh hội nhập đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
giữa giá trị truyền thống với hội nhập quốc tế hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa giá
trị truyền thống với hội nhập quốc tế trong quá trình đổi mới (tính từ Đại hội
VI của Đảng, đặc biệt là trong quá trình chúng ta đi sâu vào hội nhập quốc tế
từ Đại hội VIII của Đảng).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phép biện chứng
duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là cơ sở phương pháp luận
cho việc nghiên cứu xem xét. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn
hóa mới, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hội nhập quốc tế đa
phương đa dạng… Đó là những cơ sở lý luận trực tiếp nhất để luận văn triển

khai thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
* Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng hệ thống các phương pháp khoa
học cơ bản của các ngành khoa học xã hội và khoa học nhân văn như: quy nạp,
7


diễn dịch, phân tích, tổng hợp… trong đó chúng tôi sẽ đặc biệt quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thống nhất giữa lôgic và lịch sử.
Tuy nhiên truyền thống dân tộc, giá trị văn hóa truyền thống là một lĩnh
vực nghiên cứu rộng lớn, để nghiên cứu nó cần phải đi vào nghiên cứu tất cả
lịch sử dân tộc. Trong khuôn khổ của luận văn không đặt ra nhiệm vụ nghiên
cứu về truyền thống mà nhiệm vụ trực tiếp của luận văn là phải nghiên cứu
việc phát huy nó như thế nào trong quá trình hội nhập. Vì vậy, trong khi nói
về giá trị truyền thống Việt Nam, luận văn chủ yếu kế thừa các công trình
nghiên cứu và những nhận định mang tính khái quát trong các văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam và của các nhà nghiên cứu lớn như Trần Văn Giàu,
Vũ Khiêu…
Đánh giá về tác động của hội nhập đối với việc phát huy giá trị truyền
thống, phương pháp cũng là dựa trên những đánh giá của các văn kiện Đảng
Cộng sản Việt Nam, kế thừa, tiếp thu kết quả của những công trình nghiên
cứu đồng thời có những nội dung có sự so sánh, đối chiếu, khái quát những
biểu hiện thực tế để đi đến những nhận định, đánh giá của tác giả luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa việc phát huy
giá trị truyền thống với quá trình hội nhập quốc tế.
- Luận văn nêu lên những vấn đề nảy sinh trong việc phát huy giá trị truyền
thống Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, từ đó đề xuất phương hướng,
các giải pháp chủ yếu trong việc phát huy các giá trị truyền thống Việt Nam.
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức vai trò lâu dài của việc phát
huy giá trị truyền thống Việt Nam trong quá trình tích cực và chủ động đẩy

mạnh công cuộc hội nhập quốc tế hiện nay.
- Kết quả của luận văn có thể được dùng làm tư liệu tham khảo cho
sinh viên, học viên cao học chuyên ngành triết học, chính trị học, văn hóa
học… và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

8


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong hai chương, năm tiết:
Chương 1: Giá trị truyền thống Việt Nam và vai trò của nó trong quá
trình hội nhập.
Chương 2: Phát huy giá trị truyền thống Việt Nam trong hội nhập quốc
tế - vấn đề và giải pháp.

9


Chương 1
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

1.1. Giá trị truyền thống Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về giá trị truyền thống
Giá trị là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học
xã hội và khoa học nhân văn như triết học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội
học, kinh tế học... dùng để chỉ ý nghĩa văn hoá và xã hội của các sự vật hiện
tượng, của sự đa dạng trong hoạt động người, của các quan hệ xã hội, bao
gồm cả những hiện tượng tự nhiên có liên quan với những nội dung rộng, hẹp,

cụ thể khác nhau.
Giá trị của các sự vật hiện tượng chỉ tồn tại trong mối quan hệ chủ thể khách thể, ngoài mối quan hệ đó thì các sự vật hiện tượng không được định
hình về mặt giá trị. Giá trị là mặt xã hội của khách thể, nó nêu lên tính tích
cực hoặc tiêu cực của khách thể đối với chủ thể. Những đặc tính đặc trưng của
khách thể nói lên những chức năng khác nhau của khách thể trong mối quan
hệ với nhu cầu, hoạt động sinh sống hàng ngày của con người. Thực tế khi
mọi vật tồn tại với tư cách tự nó thì tự thân chúng không mang lại bất kỳ giá
trị nào, chúng không được nhìn nhận, không được đánh giá trong những
khuôn thước của tốt và xấu, chân lý và sai lầm, được phép và cấm kỵ, chính
nghĩa và phi nghĩa, thiện và ác, giá trị và không giá trị... Khi sự vật hiện tượng
đặt trong mối quan hệ với con người, nghĩa là nó tồn tại với tư cách cho cái
khác, vì cái khác thì chúng mới được nhìn nhận đánh giá, mới có hệ thống các
thuộc tính để nhận xét về sự tồn tại của chúng.
Giá trị có vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của con người,
nó là cơ sở để con người căn cứ vào đó xác định mục đích, phương hướng

10


sống cho hoạt động của mình. Vì vậy nói đến giá trị tức là khẳng định mặt
tích cực, mặt chính diện, bao hàm cả việc coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái
tốt, cái hay, cái đẹp. Như thế, giá trị là "thành phần quan trọng nhất của văn
hoá con người bên cạnh các chuẩn mực và các lý tưởng. Sự tồn tại của giá trị
bắt rễ sâu trong tính tích cực của chủ thể sáng tạo văn hoá, trong sự đối thoại
của chủ thể sáng tạo với người khác. Giá trị định hướng không chỉ đối với các
lĩnh vực hiện tồn mà còn đối với cả các ý nghĩa và các chuẩn mực có thể" [68,
tr.45]. Giá trị bao gồm hai thuộc tính cơ bản đó là thuộc tính xã hội và thuộc
tính lịch sử.
Thuộc tính xã hội của giá trị một mặt khẳng định giá trị chỉ được định
hình, chỉ có nội dung khi nó nằm trong mối quan hệ chủ thể - khách thể.

Trong mối quan hệ đó do lợi ích, mục đích của chủ thể nên các sự vật hiện
tượng mới được xác định về mặt giá trị. Mặt khác, tính xã hội của giá trị còn
nói lên rằng giá trị có thể có ý nghĩa với cộng đồng này nhưng có thể không
có ý nghĩa thậm chí phản ý nghĩa đối với cộng đồng khác. Xét đến cùng giá
trị có ý nghĩa tích cực hoặc tiêu cực là do quan niệm, tín ngưỡng của cộng
đồng người quy định. Ví dụ, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là tín
ngưỡng thể hiện sự nhớ ơn, biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên; thể hiện
truyền thống uống nước nhớ nguồn. Ở cộng đồng người theo Thiên chúa giáo
thì tín ngưỡng này không có giá trị bởi theo giáo lý của Thiên chúa giáo, khi
con người ta chết đi không phải là kết thúc cuộc sống mà đó chỉ là kết thúc
một giai đoạn sống và bắt đầu một giai đoạn sống mới, họ sẽ được lên Thiên
Đàng, cả thể xác và linh hồn người chết đều được về bên Chúa và cuộc sống
trong giai đoạn này mới thực sự là cuộc sống mà con người ta mong muốn.
Do vậy, nhiệm vụ của những người sống không phải là thắp hương tưởng nhớ
những người đã chết mà là dâng hoa, cầu kinh tỏ lòng thành kính đối với
Thiên chúa và để cho thể xác, linh hồn người chết được siêu thoát.

11


Ngược lại, tín ngưỡng này lại mang giá trị rất lớn ở cộng đồng người
không theo Thiên chúa giáo (những người bên lương). Nó chi phối tư tưởng,
phong tục tập quán của họ. Nếu ai đó mà hành động như những người theo
Thiên chúa giáo, nghĩa là không thờ cúng ông bà, tổ tiên, không nhớ ngày giỗ
tết ông bà, cha mẹ sẽ bị coi là bất hiếu, vô đạo bởi trong quan niệm của họ khi
con người ta chết đi thì chỉ phần thể xác mất đi, còn linh hồn vẫn tồn tại, vẫn
"quẩn quanh" đâu đó bên con cháu, phù hộ và giúp đỡ con cháu. Vì thế mới
có tục cúng cơm 49 ngày, tục cải táng...
Ngoài ra bản thân mỗi giá trị còn bao hàm trong nó tính lịch sử. Điều
đó có nghĩa là mỗi thời kỳ lịch sử xác định, có những giá trị nổi lên trở thành

hệ tiêu chuẩn Chân - Thiện - Mỹ để nhìn nhận, đánh giá về hành vi, thái độ,
trách nhiệm của cá nhân hay cộng đồng người. Tuy nhiên sự tồn tại đó không
có tính vĩnh viễn và bất biến, nghĩa là trong giai đoạn này giá trị này mang ý
nghĩa tích cực nhưng cũng giá trị ấy đặt trong giai đoạn lịch sử khác thì nó
không còn mang ý nghĩa tích cực nữa, mặc dù vậy cũng không hẳn là giá trị
đó đã mang ý nghĩa tiêu cực.
Những năm trước Cách mạng tháng Tám, tiêu chuẩn để đánh giá nét
đẹp của một cô gái Kinh Bắc là khăn mỏ quạ, áo tứ thân, răng đen... những
tiêu chuẩn đó đã được ngợi ca trong văn, thơ ca. Trong bài thơ: "Bên kia sông
Đuống" nhà thơ Hoàng Cầm có viết:
"Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng..."
Đó là nét đẹp đại diện cho một thời kỳ lịch sử đã qua, trong xã hội hiện
đại những điều đó không còn là tiêu chí của cái đẹp nữa. Nếu ai đó xuất hiện
với những nét đặc trưng đó thì chỉ là trên sân khấu, thông qua những vở kịch,
những nhân vật nhằm tái hiện lại một giai đoạn lịch sử.

12


Như vậy, mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, sẽ có sự chuyển đổi thang các giá
trị. Các giá trị sẽ được gạn lọc để phù hợp với những điều kiện mới, có những
giá trị chung, toàn nhân loại, cũng có những giá trị lâu bền được kế thừa qua
nhiều thời đại và được bổ sung nâng cao lên nhưng cũng có những giá trị có
phạm vi ảnh hưởng và thời gian tồn tại ít hơn. Có những giá trị sẽ mất đi hoặc
mờ nhạt dần khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi và có những giá trị mới được hình
thành. Những giá trị chung, phổ biến chính là cơ sở quan trọng tạo nên sự liên
kết các thành viên trong cộng đồng.
Mỗi dân tộc đều có hệ thống những giá trị có tính chất truyền thống do
lịch sử để lại. Truyền thống được hiểu là những hiện tượng văn hóa xã hội,

bao gồm các chuẩn mực trong giao tiếp ứng xử, các phong tục tập quán, các
nghi lễ, các thiết chế xã hội… đã trở nên ổn định được đông đảo thừa nhận và
đã ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội, được nối dài theo nhiều thế hệ, qua
nhiều đời của dân tộc. Trong từ điển tiếng việt, truyền thống được hiểu là:
"thói quen đã hình thành lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác" [65, tr.634]. Như vậy truyền thống chính là một bộ
phận tương đối ổn định của ý thức xã hội, được thể hiện ở những đặc trưng cơ
bản là tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền. Đây là ba tính chất cơ
bản nhất để xác định những yếu tố truyền thống với những gì không phải là
truyền thống.
Trong đời sống xã hội sự tác động và chi phối của truyền thống là rất
lớn; nó là cái định hướng, hướng đích cho mọi hành động của cộng đồng
người. Thực tế "bằng cách không lãng quên truyền thống, khai thác những giá
trị nhân bản của truyền thống, làm cho các giá trị hiện đại ăn nhập hoặc không
mâu thuẫn với các giá trị truyền thống. Đó là con đường tự nhiên và tất yếu
mà các xã hội dù muốn hay không, dù nhận thức được hay chưa nhận thức
được cũng đều phải thực hiện để đạt tới sự phát triển bền vững" [9, tr.59-60].

13


Nói đến truyền thống là nói đến những hiện tượng văn hoá, chuẩn mực,
phong tục tập quán được định hình trong thời gian. Tuy nhiên độ dài lịch sử
chưa phải là phẩm chất cốt lõi của truyền thống, mà cái chính là ý nghĩa xã
hội của nó. Trong truyền thống bao hàm cả mặt tích cực, tiêu cực, thậm chí
phản giá trị. Một truyền thống đóng vai trò là cơ sở làm thành bản sắc, "cốt
cách" của cộng đồng dân tộc, nó định hướng cho việc xác lập thể chế chính
trị, là hệ chuẩn giá trị để nhìn nhận, đánh giá những tư tưởng ngoại lai được
du nhập vào cộng đồng phải là một truyền thống mang trong mình nhiều ý
nghĩa tích cực. Nó sẽ là cái định hướng cho sự phát triển của dân tộc trong

tương lai, đảm bảo cho một sự phát triển bền vững. Nhưng mặt khác, truyền
thống cũng chính là nơi di dưỡng, tạo điều kiện cho những yếu tố lạc hậu, lỗi
thời được phát triển, nó có thể làm chậm, thậm chí kìm hãm sự phát triển của
cộng đồng dân tộc. Truyền thống về thực chất là cái nằm trong quan hệ giữa
hiện tại với quá khứ để vươn tới tương lai. Con người của hiện tại có thái độ
như thế nào đối với truyền thống, xã hội hiện tại cần đến truyền thống ở mức
độ nào, điều đó sẽ quy định giá trị của truyền thống.
Tính hai mặt của truyền thống, xét đến cùng lại phụ thuộc phần lớn vào
thái độ của chính chủ thể đang sử dụng và khai thác. Điều này giúp chúng ta
nhận thức rằng trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế chúng ta cần phải phát huy truyền thống như thế nào để vừa
tận dụng được tối đa những mặt tích cực và hạn chế tới mức có thể đối với
những mặt tiêu cực của truyền thống. Nói cách khác là chúng ta phải xác định
được giá trị của truyền thống để từ đó nâng cao ý thức bảo tồn, duy trì và phát
triển của mỗi người trong cộng đồng dân tộc.
Mỗi cộng đồng được phân biệt với các cộng đồng khác bởi các truyền
thống của mình và các giá trị của những truyền thống ấy. Với tư cách là hành
vi của cộng đồng truyền thống sẽ gia nhập thành cơ chế của cộng đồng và với

14


cách riêng biệt của mình truyền thống xuất hiện trước mắt chính bản thân
cộng đồng qua những giá trị chủ yếu của mình.
Dân tộc nào cũng có nơi "chôn nhau, cắt nhốn", cái nôi sinh thành với
những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử - chính trị của riêng mình.
Chính cái nôi đó tạo ra một tính chỉnh thể riêng, tự phân biệt với các dân tộc
khác, trước tiên là về mặt tự nhiên, sau đó là diện mạo, phẩm chất, năng lực
sáng tạo. Sự tự phân biệt và tự xác định đó được quy định bởi những cái gọi là
giá trị truyền thống dân tộc. Chẳng hạn để đáp ứng nhu cầu cuộc sống vật chất,

các dân tộc cũng lựa chọn đồ ăn, thức uống khác nhau: Ở Đông Nam Á, các
dân tộc sống bằng lúa gạo; ở Châu Âu chủ yếu là lúa mì. Về mặc thì người Ả
Rập thích mặc rộng, áo dài, màu trắng; các dân tộc ở Châu Âu thích màu đen; ở
Châu Á thì thích mặc màu nâu. Cùng với đó thì các sản phẩm văn hoá tinh thần
như ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hoá dân gian, lễ hội... dân tộc nào cũng có
những nét riêng. mỗi khi nghe một làn điệu dân ca, âm thanh một nhạc cụ, điệu
múa dân tộc là ta có thể nhận diện được sắc thái của dân tộc đó. Tâm hồn
phóng khoáng Nga; phong cách tự do Di Gan; lối tư duy Đức; đầu óc thực tiễn
Mỹ; chủ nghĩa yêu nước Việt Nam... đó là những nét độc đáo nói lên cái diện
mạo có hồn của mỗi dân tộc, khu biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Như vậy, giá trị truyền thống là những yếu tố của di tồn văn hóa cộng
đồng dân tộc được hình thành trong lịch sử, truyền từ đời này sang đời khác, có
ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của con người và xã hội. Đó là những giá
trị có tính chất bền vững được tích lũy lại, lưu truyền trong không gian và thời
gian của cộng đồng dân tộc. Trên đường đi của mình, giá trị truyền thống sẽ
tích hợp các giá trị mới bằng cách thích nghi với các giá trị cũ. Bản chất nó
không chỉ có tính giáo dục, cũng không chỉ thuần tuý mang tính tư tưởng mà
nó còn tồn tại với tư cách là một thực thể mang tính biện chứng trong việc điều
hoà giữa yếu tố cũ và yếu tố mới. Như thế mức độ bao quát của khái niệm
truyền thống rộng hơn so với khái niệm giá trị truyền thống. Nghĩa là, đã là

15


những giá trị truyền thống thì phải có tính chất truyền thống, nhưng ngược lại
những yếu tố có tính chất truyền thống chưa chắc đã phải là giá trị truyền
thống. Ví dụ, truyền thống trọng lão là một giá trị truyền thống của dân tộc Việt
Nam, còn tư tưởng trọng nam khinh nữ là tư tưởng có tính chất truyền thống
nhưng không phải là tư tưởng có giá trị hay là một giá trị truyền thống.
1.1.2. Những giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam

Đối với một dân tộc có đến 4000 năm lịch sử, có truyền thống dựng
nước và giữ nước, truyền thống khắc phục khó khăn thiên nhiên và một nền
văn hoá đặc trưng có bề dày lịch sử như dân tộc Việt Nam thì việc xây dựng,
định hình một hệ thống giá trị truyền thống là hoàn toàn hợp quy luật. Những
giá trị truyền thống ấy đã được tích hợp trong suốt quá trình phát triển của
lịch sử dân tộc, nó là cái làm nên sự khác biệt của dân tộc ta với các dân tộc
khác trên thế giới. Nó không phải là những thuộc tính chung chung trừu tượng
mà là những phẩm chất cụ thể hình thành và tồn tại trong quá trình phát triển,
mang đặc trưng riêng của dân tộc ta. Hiện nay những giá trị ấy đang có vai trò
và vị thế hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, là yếu tố kiểm soát sự tiếp thu các giá trị văn hoá ngoại
nhập và thực tế nó đang tác động một cách có ý thức đối với việc hình thành
các chuẩn mực giá trị mới nhằm xây dựng cuộc sống mới mang tính văn minh
hiện đại.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội, cho nên những giá trị truyền thống Việt Nam,
nhân cách con người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa là bắt nguồn từ những
hoàn cảnh địa lý, môi trường tự nhiên, lịch sử xã hội của dân tộc.
Việt Nam là nước có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời, đời sống của
người dân quanh năm gặp nhiều khó khăn vất vả, phần lớn phụ thuộc vào
thiên nhiên. Mặt khác, do Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa
Đông Bắc và Đông Nam nên điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt, nắng
16


mưa thất thường, gặp nhiều thiên tai, hạn hán... Dân tộc Việt Nam với các
điều kiện địa lý, môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội đã hình thành nên
những nét giá trị truyền thống riêng. Nó là một bộ phận trong hệ giá trị tinh
thần của dân tộc Việt Nam, là một dòng chảy liên tục nảy sinh, phát triển
trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta và được tích luỹ,
lưu truyền, chắt lọc, chuyển giao, tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ

đời này qua đời khác. Đó là cái tồn tại mãi mãi với dân tộc sau tất cả những gì
đã biến đổi trong quá trình vận động của lịch sử dân tộc.
Từ trước tới nay, quan tâm đến vấn đề xác định hệ thống giá trị truyền
thống Việt Nam; quá trình lịch sử hình thành, vận động biến đổi của nó; vai
trò của nó đối với sự hiện tồn của dân tộc... đã có nhiều người, nhiều nhà khoa
học với những cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau:
GS. Trần Văn Giàu cho rằng: Giá trị truyền thống của dân tộc Việt
Nam bao gồm: Chủ nghĩa yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa. [20, tr.94].
GS. Vũ Khiêu đưa ra quan điểm: Trong những truyền thống quý báu
của dân tộc nổi bật nhất là: Lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động
cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con
người. Trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị truyền
thống của dân tộc [36, tr.74].
Những giá trị truyền thống cũng được đề cập đến trong một số văn kiện
của Đảng và các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết 09 của Bộ
Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay khẳng
định: "Những giá trị văn hoá bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu
nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc. Đạo lý "thương người như thể
thương thân", đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động" [11, tr.19].

17


Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc đã viết:
"Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp lên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng

nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung,
trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tình giản dị trong lối sống..." [13, tr.56].
Từ cách tiếp cận về giá trị, truyền thống, giá trị truyền thống và từ quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như của các nhà nghiên cứu, có thể
khẳng định các giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm:
- Chủ nghĩa yêu nước
- Truyền thống đoàn kết, gắn kết cộng đồng
- Truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động
- Lòng nhân nghĩa, nhân ái, "thương người như thể thương thân"
Các giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành từ những mảng văn
hoá khác nhau, trong đó chủ nghĩa yêu nước gắn với ý chí kiên cường bất
khuất, tự lực tự cường được hình thành từ mảng văn hoá chiến đấu; trong văn
hoá ứng xử thì hình thành nên truyền thống đoàn kết, gắn kết cộng đồng, lòng
nhân nghĩa nhân ái, "thương người như thể thương thân", tinh thần trọng tình
nghĩa, đạo lý "uống nước nhớ nguồn"; truyền thống cần cù sáng tạo lại là kết
quả được hình thành từ mảng văn hoá sản xuất... Nói như GS. Vũ Khiêu:
"trong lao động thì cần cù, trong chiến đấu thì dũng cảm, trong tình nghĩa thì
thuỷ chung, trước quân thù thì bất khuất..." [37, tr.36].

18


Trong hệ thống các giá trị truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa yêu
nước là "động lực, tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc
thang cao nhất trong hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc ta" [36, tr.74].
Chủ nghĩa yêu nước: "thể hiện ở việc góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
làm cho đất nước độc lập tự do, giầu mạnh" [39, tr.242]. Đó là tình yêu đối
với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành

động tích cực để phục vụ và đem lại lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân. Nó trở
thành một giá trị, một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao
thế hệ kiên cường, anh dũng hi sinh để giành lại và giữ gìn nền độc lập của Tổ
quốc, bảo vệ những phẩm giá của chính con người.
Lịch sử Việt Nam trong quá trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta
luôn phải đối đầu với những kẻ thù mạnh hơn hẳn chúng ta về tiềm lực kinh
tế, súc mạnh quân sự. Những đạo quân mà dân tộc ta từng phải đối mặt đó là:
Tần, Hán, Lương, Tuỳ, Đường, Nam Hán (thời Bắc Thuộc); Tống, Nguyên
(thế kỷ XI - XIV); Minh (thế kỷ XV); Thanh (thế kỷ XVII); Pháp, Mỹ (thế kỷ
XIX - XX). Số lượng và tần xuất những cuộc đối đầu này là rất lớn. Các nhà
nghiên cứu đã khẳng định thời gian mà dân tộc ta chịu chiến tranh là 12/20
thế kỷ, gần 20 cuộc chiến tranh lớn và gần 100 cuộc đấu tranh khởi nghĩa. Dù
cho những cuộc đối đầu ấy, trong từng giai đoạn lịch sử, dân tộc ta có gặp
phải những khó khăn, tổn thất nhất định nhưng cuối cùng chúng ta đã thắng
lợi rực rỡ, nhân dân ta đã hoàn thành một cách vẻ vang sứ mệnh lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi đó là kết quả của hành động gắn kết
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự lực tự cường với vận mệnh của đất nước, với
tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Sự gắn kết ấy đã trở thành
một hằng số trong tâm thức người Việt trong mọi thời đại. Nó sống mãi trong
lòng mỗi người dân Việt Nam, nó là tình cảm lớn và ý thức lớn trong suy nghĩ
và hành động của họ.

19


Chủ nghĩa yêu nước đã tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc
ta làm nên những chiến công mang tính chất thời đại. Nó là sợi chỉ đỏ cơ bản
nhất, đặc sắc nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và trong hệ
thống giá trị truyền thống Việt Nam nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống

quý báu của ta. Từ xưa tới nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
nguy hiểm, khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ cướp nước và lũ bán nước" [54,
tr.171].
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu
đã thống nhất cho rằng: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sản phẩm tinh thần
cao quý nhất của dân tộc Việt Nam là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị
trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá trị dân tộc. Nó là
thước đo đánh giá giá trị nhân phẩm con người, nó trở thành chuẩn mực để
phân biệt, xác định phải - trái; đúng - sai; làm hay không làm, nó chi phối tư
tưởng, tình cảm, hành động trong quan hệ ứng xử giữa người với người; nó là
cơ sở để phân biệt những hành vi chính nghĩa và những hành vi phi nghĩa.
Hành động của Nguyễn Trãi về với Lê Lợi; Ngô Thì Nhậm về với Quang
Trung hay là Đào Duy Anh, Tôn Thất Tùng được Pháp đào tạo nhưng quay trở
về phục vụ đất nước. Tất cả những ứng xử đó đều đã bỏ qua cái lợi ích cá nhân
để vì lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, vì một nghĩa lớn đó là chính nghĩa.
Chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị truyền
thống Việt Nam, nó không chỉ là một giá trị mà nó còn là cội nguồn, là cơ sở
của các giá trị khác, đóng vai trò là hệ giá trị chuẩn làm phát sinh một loạt
những giá trị kéo theo như: Tinh thần tự lực tự cường dân tộc, ý chí kiên
cường bất khuất... với nghĩa "càng nén càng bật, càng dìm càng nổi, càng tắc
càng thông, càng cấm đoán càng lan toả".

20


1000 năm Bắc thuộc, đất nước ta nằm dưới sự đô hộ của các triều đại
phong kiến phương Bắc là Tần, Hán, Lương, Tuỳ, Đường, Nam Hán. Các triều
đại này với những chính sách đô hộ khác nhau nhưng đều có chung mục đích là
"dĩ hoa biến di", đồng hoá những người dân đất Việt, chúng đã cấm đoán đủ

điều, ra sức ép buộc con em đất Việt học sử Bắc, tất cả mọi phong tục tập quán
của người Việt đều bị xoá bỏ mà phải tuân theo phương Bắc. Quá trình đó luôn
gặp phải các cuộc khởi nghĩa nhằm lật đổ chế độ thống trị và chủ trương đồng
hoá của phong kiến phương Bắc. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của hai Bà
Trưng (40 - 43); khởi nghĩa Lý Bí (544) và năm 938 Ngô Quyền đã dìm quân
Nam Hán xuống sông Bạch Đằng giành lại quyền tự chủ dân tộc. Yêu nước với
tinh thần "càng cấm đoán càng lan toả" còn có thể nhận thấy qua sự phát triển
của phong trào cách mạng Vô sản thế kỷ XIX - XX.
Cần phải nói thêm rằng chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam khác
về bản chất với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa sô vanh dân tộc. Chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi là "chỉ biết có mình hoặc bộ phận của mình" [65,
tr.433]; Chủ nghĩa sô vanh dân tộc là "thái độ miệt thị các dân tộc khác... là
một phương tiện tinh vi để đè bẹp ý thức giai cấp của nhân dân lao động, chia
rẽ phong trào công nhân quốc tế, bào chữa cho cuộc chiến tranh giữa các dân
tộc và cho chủ nghĩa thực dân" [76, tr.123]. Như thế, chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi và chủ nghĩa xô vanh dân tộc là những phạm trù dùng để chỉ những quốc
gia có tham vọng biến những quốc gia khác thành những dân tộc phụ thuộc
vào quốc gia mình. Đó là tham vọng bành trướng thế giới. Ví như sự tồn tại
của nhà nước Aten thời kỳ cổ đại; thế kỷ XX là sự bành trướng của chủ nghĩa
phát xít và trong giai đoạn hiện nay với những hành động trong hoạt động
toàn cầu hoá, diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch... Trong khi đó, chủ
nghĩa yêu nước trong tâm thức người Việt là tình yêu quê hương đất nước,
đấu tranh chống mọi âm mưu của kẻ thù để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,
là hành động "thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định

21


không chịu làm nô lệ" [52, tr.480]; là quá trình giữ gìn và bảo lưu các giá trị
truyền thống dân tộc.

Việt Nam trong giai đoạn mới với những đặc trưng của sự phát triển đất
nước là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở cửa hội nhập;
tích cực và chủ động giao lưu quốc tế, trong quá trình đó sự biến đổi của hệ
thống thang giá trị truyền thống càng trở nên rõ ràng. Trong đó sự gia tăng nội
hàm và mở rộng ngoại diên của chủ nghĩa yêu nước cũng là một tất yếu. Nó
không thuần tuý là sẵn sàng xung phong ra ngoài mặt trận, cống hiến sức
mình cho những trận đánh với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh";
không chỉ là tăng gia sản xuất, xây dựng một hậu phương mạnh về vật chất
cho một trận tuyến lớn mà yêu nước trong giai đoạn hiện nay trước hết là
chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá để tạo sức
mạnh bên trong bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc; yêu nước
cũng chính là yêu chủ nghĩa xã hội, là tinh thần tự tôn dân tộc không cam chịu
nghèo nàn lạc hậu vươn ra hết mình để sánh vai với các nước trong khu vực
và trên thế giới, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giầu - nước
mạnh - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; yêu nước là ý thức muốn bảo
lưu, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc; là việc khẳng định những giá trị truyền
thống của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Khi đề ra những
giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ
rõ: "Giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với phong trào thi đua yêu nước
và giáo dục về chủ nghĩa xã hội, về nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu" [13, tr.70-71].
Yêu nước Việt Nam gắn liền với các địa danh: "Gươm núi Sóc, cọc
Bạch Đằng"; "Ba Đình lịch sử rực rỡ cờ hoa"; "Hoa ban trắng nở rộ đồi A1"...
Yêu nước Việt Nam gắn liền với những phẩm chất: "Anh hùng, bất khuất,
trung hậu, đảm đang"; "Ba xung phong, ba sẵn sàng"... Yêu nước Việt Nam

22



thực sự là "sợi chỉ đỏ xuyên qua tất cả lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện
đại" [20, tr.94].
Chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với tinh
thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Tinh thần đó là một giá trị được tạo nên từ
trong sâu thẳm văn hoá dân tộc. Truyền thuyết "Hồng Bàng" với "bọc trăm
trứng nở ra một trăm người con" nói rất rõ tinh thần cùng chung Tổ quốc và
tình đồng bào. Trong lịch sử xây dựng đất nước, người Việt đã phải chung
lưng đấu cật, tương trợ, hợp tác giúp đỡ nhau tạo ra sức mạnh vật chất phi
thường chiến thắng thiên tai địch hoạ. Chính từ thực tế đấu tranh với thiên tai
và chống giặc ngoại xâm cha ông ta đã đúc rút ra bài học kinh nghiệm đó là:
"đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết"; "Một cây làm chẳng nên non, ba cây
chụm lại nên hòn núi cao"... cho nên có thể nói tinh thần đoàn kết là nguồn
sức mạnh lớn lao giúp nhân dân ta vượt qua những thử thách khắc nghiệt của
thiên nhiên và đánh thắng mọi thế lực xâm lược. Tinh thần đoàn kết cộng
đồng là nét quan trọng trong ý thức và tâm hồn của người Việt Nam, được thể
hiện trong mọi không gian và thời gian. Trong gia đình thì: "Thuận vợ thuận
chồng tát biển Đông cũng cạn". Trong sản xuất cũng như trong đời sống hàng
ngày giữa cá nhân với cá nhân thì: "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm
lại nên hòn núi cao", "Một giọt máu đào hơn ao nước lã", "Bán anh em xa,
mua láng giềng gần", "Lá lành đùm lá rách"... Trong chiến đấu chống thiên
nhiên và kẻ thù thì: "Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết". Những lễ hội truyền
thống với niềm hân hoan và sự đồng cảm được tổ chức hàng năm lại thắt chặt
thêm mối quan hệ cộng đồng. Đoàn kết thể hiện rõ nhất, quý nhất khi gặp
hoạn nạn, khó khăn. Khi đói rét thì "nhường cơm xẻ áo", lúc khó khăn thì "chị
ngã em nâng". Chính nhờ có tinh thần đoàn kết chặt chẽ sâu sắc ấy mà cộng
đồng người Việt Nam luôn duy trì được các mối quan hệ xã hội hài hoà, giữ
được sự đồng thuận bình yên cho xóm làng, quê hương, đất nước.

23



Truyền thống đoàn kết bắt nguồn từ chính quá trình hình thành dân tộc
và trong yêu cầu tồn vong của đất nước. Nếu ở phương Tây quy luật hình
thành nhà nước là sản phẩm của mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong
xã hội thì sự hình thành nhà nước Việt Nam là do tính cố kết cộng đồng trong
việc đáp ứng yêu cầu chống giặc ngoại xâm và trị thuỷ. Nhà nước là sự liên
kết của các làng thành một làng lớn - Siêu làng. "Khi cộng đồng tộc người đã
tiến tới trình độ dân tộc thì cộng đồng siêu làng lớn nhất là nước, là dân tộc"
[82, tr.48]. Trị thuỷ và chống giặc ngoại xâm là hai điều kiện căn bản cho sự
đoàn kết, cố kết giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng. Đây chính
là một trong những đặc trưng của "Phương thức sản xuất Châu Á" mà Mác đã
sử dụng khi nghiên cứu về phương Đông.
Ngay từ buổi bình minh trong lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta
đã phải đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội hết sức khắc nghiệt. Môi
trường đó đã tạo ra những thế lực có sức mạnh chi phối sự phát triển của dân
tộc. Đó là Thuỷ - Hoả - Đạo - Tặc, cụ thể là nạn ngoại xâm và lũ lụt. Trong
điều kiện đó chỉ với sức mạnh tinh thần là lòng yêu nước thì tự thân mỗi cá
nhân không thể đối phó với sức mạnh vật chất của kẻ thù và sức mạnh tàn phá
của thiên nhiên. Yêu cầu tất yếu và bản năng sinh tồn khiến mỗi người dân
đất Việt phải có sự liên kết với nhau tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng
dân tộc. Truyền thống đoàn kết, cố kết cộng đồng đã tạo nên sức mạnh huyền
thoại của dân tộc ta. Sức mạnh đó đã được giáo dục lại cho thế hệ sau từ
những câu truyện "Bó đũa", hay những truyền thuyết Thánh Gióng, Sơn Tinh
Thuỷ Tinh...
Ở câu chuyện "Bó đũa" tính giáo dục sự đoàn kết, nhất trí trong gia
đình được thể hiện ở sức mạnh của một cây đũa trong mối tương quan với sức
mạnh của một bó đũa; Ở truyền thuyết Thánh Gióng, truyền thống đoàn kết,
cố kết cộng đồng là hành động cụ thể mà gần gũi, mang tính tự giác của dân
làng. Cả dân làng không ai bảo ai, khi Gióng biết ăn, biết nói, họ đã chung


24


tấm áo, chung chén gạo, chung bát cơm cùng bố mẹ Gióng nuôi Gióng vụt
lớn thành một tráng sĩ. Ở truyền thuyết "Sơn Tinh Thuỷ Tinh", bằng việc
miêu tả câu chuyện tình tay ba giữa Mỵ Nương, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, tác
giả dân gian đã cho ta thấy môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, qua đó cũng
thể hiện được truyền thống đoàn kết của dân tộc trong việc đắp đê trị thuỷ.
Như thế, cùng với chủ nghĩa yêu nước, như một biểu hiện khác, ý thức
cố kết cộng đồng cũng là một giá trị văn hóa truyền thống cơ bản của dân tộc
ta. Lẽ dĩ nhiên, tính cộng đồng, trách nhiệm cộng đồng thì ở dân tộc nào cũng
có, tuy vậy, không phải dân tộc nào cũng mang những nét đặc thù về tính
cộng đồng như ở người Việt Nam. Tính cộng đồng dân tộc Việt Nam bắt
nguồn trước hết từ việc giữ nước, phải đoàn kết, quy tụ thành sức mạnh mới
có khả năng chiến thắng giặc ngoại xâm. Người Việt Nam hay nói đến “nước
nhà”, nước có độc lập nhà mới yên vui. Vả lại, hoàn cảnh thiên nhiên khắc
nghiệt, việc sản xuất lúa nước khó khăn đã không cho phép người Việt Nam
sống tách biệt, độc lập nhau. Việc duy trì mối liên kết cộng đồng cũng chính
là sự duy trì cuộc sống bản thân mình. Ở người Việt, các giá trị cộng đồng lại
dễ được ưu tiên so với các giá trị khác. Cơ sở của nó bắt nguồn từ nhân cách
Việt Nam, trước hết tiêu biểu ở tinh thần trách nhiệm, sống vì bổn phận, trách
nhiệm vì người khác hơn vì mình.
Truyền thống cố kết cộng đồng còn là một nét đặc trưng của nền văn
hoá nông nghiệp. Khác với nền văn hoá du mục phương Tây là "Trọng động"
thì nền văn hoá nông nghiệp phương Đông là "Trọng tĩnh". Các cư dân trong
nền văn hoá nông nghiệp tôn trọng sự ổn định, luôn luôn có xu hướng tạo lập
những cộng đồng người có sự liên kết, gắn bó với nhau theo những tiêu chí
nhất định như: huyết thống, địa bàn cư trú, nghề nghiệp, sở thích, giáp... "văn
hoá nông nghiệp lo tạo dựng cuộc sống ổn định lâu dài, không xáo trộn,
chúng mang tính chất trọng tĩnh" [74, tr.41]. Làng của người Việt là một hệ

quả của tính cố kết cộng đồng trong đặc điểm nền văn hoá nông nghiệp, nó là

25


×