Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THANH TÂM

PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THANH TÂM

PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
được bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi thông tin trích dẫn trong
luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc và đảm bảo tính thực tiễn. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học theo chương trình và thực hiện các nghĩa vụ về tài chính
theo quy định của Học viện khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thanh Tâm

năm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT,
LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO
ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT ........................................................................7
1.1. Người khuyết tật...................................................................................................7

1.2. Lao động là người khuyết tật .............................................................................11
1.3. Điều chỉnh của pháp luật về lao động là người khuyết tật .................................16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ..........................................................................................................................33
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay .....................................................................................................................33
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay .....................................................................................................................44
2.3. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ...................................................54
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......61
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ....................61
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật .......................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADA

: The American with

Đạo luật người Mỹ khuyết tật

Disabilities Act
ADAAA : The American with Disabilities
Act Amendments Act


Luật sửa đổi Đạo luật người Mỹ
khuyết tật

BLLĐ

:

Bộ luật lao động

DDA

: Disability Discrimination Act

Đạo luật chống phân biệt đối xử
với người khuyết tật

LNKT

:

Luật người khuyết tật

NKT

:

Người khuyết tật

ILO


: International Labour Organization Tổ chức Lao động Quốc tế

WHO

: World Health Organization

Tổ chức Y tế Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tham gia lực lượng lao động/Participation in labor force .......................47
Bảng 2.2: Tỷ lệ tìm được việc làm của người lao động dựa trên trình độ học vấn .....49

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Lý do người khuyết tật không làm việc hoặc không có nhu cầu tìm việc... 48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là một trong những hoạt động chủ yếu của con người. Ngay từ thuở
sơ khai con người đã ý thức được rằng phải lao động để tạo ra thức ăn duy trì cuộc
sống. Theo thời gian và không gian, xã hội phát triển thì lao động không chỉ đơn
thuần là để tạo ra thức ăn cho bản thân mà sức lao động còn trở thành một loại hàng
hóa đặc biệt được mua bán giữa người lao động và người sử dụng lao động. Có lẽ vì
vậy mà các quy định về lao động của mỗi quốc gia nói riêng và các văn kiện pháp
lý quốc tế hiện đại nói chung luôn dành rất nhiều sự quan tâm cho lĩnh vực lao
động. Mặc dù, tính chất lao động có thể khác nhau giữa công việc này với công việc
kia, sức lao động có thể khác nhau giữa người này với người kia song bất kì ai cũng
đều được quyền tự do lao động nếu họ có đủ khả năng, bao gồm cả người khuyết

tật.
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất
hoặc/và tinh thần dẫn đến suy giảm khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt
hàng ngày. Chính vì vậy, ở tất cả các quốc gia trên thế giới, người khuyết tật luôn
được coi là thành viên thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và bị xâm phạm những
quyền lợi chính đáng. Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và tạo việc làm cho người khuyết
tật, tạo điều kiện cho họ vượt qua những khó khăn, hòa nhập vào đời sống cộng
đồng là những hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc.
Theo Tổ chức y tế thế giới, hiện nay trên thế giới có hơn 1 tỷ người có khiếm
khuyết về thể chất, cảm giác, trí tuệ hoặc tâm thần dưới các hình thức khác nhau.
Con số này tương đương với khoảng 15% dân số thế giới. Quốc gia nào cũng có
người khuyết tật, và hơn 2/3 trong số đó sống tại các nước đang phát triển [56, tr.8].
Tại Việt Nam, lao động khuyết tật chiếm một lượng không nhỏ, khoảng 7,8% tổng
dân số [31, tr.1]. Để bảo vệ và tạo điều kiện tốt nhất cho người khuyết tật dễ dàng
tham gia vào thị trường lao động, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách cũng như ban
hành hệ thống các văn bản pháp luật về dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, tạo
việc làm,…. Đặc biệt là gần đây, ngày 11/3/2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước

1


Nguyễn Phú Trọng đã ký văn kiện phê chuẩn Việt Nam gia nhập vào Công ước 159
của Tổ chức Lao động quốc tế - ILO. Đây là bước phát triển quan trọng trong tái
thích ứng nghề nghiệp và việc làm cho người khuyết tật, khẳng định mạnh mẽ cam
kết của Việt Nam trong việc bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động
khuyết tật không bị phân biệt đối xử về lao động và việc làm. Tuy nhiên, pháp luật
lao động Việt Nam hiện hành về lao động là người khuyết tật chưa đảm bảo được
tính tương thích cao với công ước này. Bên cạnh đó, thực tế lao động là người
khuyết tật vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vay ưu đãi để học nghề
hoặc mở các cơ sở sản xuất, kinh doanh, số người khuyết tật tìm được việc sau đào

tạo nghề còn thấp. Mặc dù pháp luật cũng đã có các quy định cụ thể về yêu cầu các
cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức không được từ chối tuyển dụng người lao động là
người khuyết tất nếu có đủ tiêu chuẩn, nhưng nhiều đơn vị, doanh nghiệp luôn viện
các lí do để từ chối nhận họ vào làm việc.
Từ thực trạng trên, việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về lao động là người
khuyết tật, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng quy định và hiệu quả thực hiện
các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về lao động là người khuyết tật trong
thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện là một vấn đề mang tính cấp
thiết. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về lao động là người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về lao động là người khuyết tật là một vấn đề không phải mới nhưng
nó luôn mang tính thời sự và cần được quan tâm, nghiên cứu. Nhất là khi các văn
kiện quốc tế về bảo vệ quyền của người khuyết tật và lao động là người khuyết tật
được Liên Hợp Quốcvà Tổ chức lao động thế giới thông qua đã thúc đẩy nhiều công
trình khoa học chọn đây là đề tài nghiên cứu. Trong đó, có một số đề tài liên quan
đến nội dung nghiên cứu luận văn của tác giả, cụ thể là:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam” của
Phạm Thị Thanh Việt, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2009.

2


- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết
việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của Đinh Thị Nga Phượng, Đại học
quốc gia Hà Nội, năm 2011.
- Luật văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Trần Thị Tú Anh, Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2014.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Bích Ngọc, Học viện khoa học xã hội, năm 2016.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật lao động về người khuyết tật” của
Nguyễn Thị Hiền, Đại học Luật – Đại học Huế, năm 2016.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật đào tạo nghề cho lao động khuyết tật,
qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế” của Ngô Thùy Khiêm, Đại học Luật – Đại
học Huế, năm 2019.
Nhìn chung, giải quyết việc làm và bảo vệ quyền lợi cho lao động là NKT đã
và đang được cả xã hội quan tâm, nhưng những vấn đề cụ thể về nó thì chưa được
nghiên cứu nhiều. Các đề tài hiện nay đa phần đều đề cập đến lao động khuyết tật
dưới góc độ quyền con người hoặc vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật,
chưa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về các cải thiện chất lượng môi trường lao động
phù hợp cho người khuyết tật. Trên cơ sở kế thừa và phát huy, đề tài “Pháp luật về
lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” nhằm làm sáng tỏ, bổ sung
thêm ý nghĩa của hệ thống lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là
người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó. Từ đây, có thể đưa ra được
những giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật và tổ chức thực hiện nhằm đóng góp
những bổ sung cần thiết vào khoa học luật về lao động là người khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
lao động là người khuyết tật và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định đó ở Việt

3


Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu này đề tài sẽ tiến hành những nhiệm

vụ sau:
- Phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về người khuyết tật và lao
động là người khuyết tật.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật đối với lao động là
người khuyết tật.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn
thực hiện ở Việt Nam hiện nay.
- Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định đó tại Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại Việt
Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật về
việc làm, học nghề, an toàn lao động, vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi
thông qua các quy định cụ thể của Luật người khuyết tật năm 2010, Bộ luật lao
động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn liên quan đến lao động là người khuyết
tật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và hệ thống hóa: phương này này được sử dụng để
tiến hành liệt kê và hệ thống hóa các quy định trong các văn kiện quốc tế, quy định
pháp luật liên quan đến lao động là người khuyết tật để từ đó phân tích, nghiên cứu
sự phù hợp của từng quy định đó. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở chương 1
và chương 2.

4



- Phương pháp phân tích luật viết: phương pháp này chủ yếu sử dụng ở
chương 2 và chương 3 nhằm phân tích ý nghĩa của các quy định pháp luật điều
chỉnh vấn đề về lao động là người khuyết tật, làm cơ sở đối chiếu với thực tiễn thực
hiện các quy định đó ở Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp.
- Phương pháp phân tích, so sánh: phương pháp này được sử dụng để làm rõ
thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật từ đó đưa ra những đánh giá
vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật thuộc lĩnh vực mà đề tài nghiên cứu.
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 2.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch được sử dụng xuyên suốt đề tài
nhằm luận giải, chứng minh cho các luận điểm khoa học được đề cập.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về người khuyết
tật và lao động là người khuyết tật, tính đặc thù của lao động là người khuyết tật và
pháp luật về lao động là người khuyết tật.
- Luận văn hệ thống hoá và đánh giá thực trạng quy định pháp luật hiện hành
về lao động là người khuyết tật. Trên cơ sở đó nhằm tìm ra những hạn chế, vướng
mắc, bất cập của pháp luật và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật đó ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở những phân tích và đánh giá chung về thực trạng pháp luật hiện
hành, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả thực thi các quy định đó trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện
nay của Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan xây dựng
chính sách và pháp luật về lao động là người khuyết tật. Luận văn cũng có giá trị
tham khảo và là nguồn tài liệu hữu ích sử dụng trong các hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy pháp luật về lao động là người khuyết tật.


5


7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bảng biểu thì
Luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người khuyết tật, lao động là người
khuyết tật và pháp luật về lao động là người khuyết tật;
- Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật và
thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay;
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là
người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.

6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT, LAO ĐỘNG
LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Người khuyết tật
1.1.1. Khái niệm
Người khuyết tật, là một trong các nhóm người dễ bị tổn thương cần được ưu
tiên và bảo vệ. Theo WHO thì NKT có ba mức suy giảm là: “Khiếm khuyết
(impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap) [56, tr.7]. Khiếm khuyết
là tình trạng mất mát hoặc không như bình thường tạm thời hoặc vĩnh viễn về tâm
lý hoặc/và sinh lý của cấu trúc cơ thể con người. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu
chức năng hoạt động hằng ngày, là hậu quả của sự khiếm khuyết gây ra và cần các
biện pháp can thiệp để khắc phục nhược điểm. Còn tàn tật là tình trạng bất lợi hoặc
thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh tác

động lên tình trạng khuyết tật của họ”. Như vậy có thể hiểu, NKT là người bị khiếm
khuyết về tâm lý hoặc/và sinh lý các bộ phận cơ thể người dẫn đến sự hạn chế trong
thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Cách hiểu này cũng gần giống với
cách hiểu trong Đạo luật người Mỹ khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA):
“Khuyết tật là sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một
hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống của một cá nhân và được ghi nhận
trong hồ sơ về sự suy giảm” [52, tr.7]. Pháp luật các nước cũng giới hạn rõ ràng về
thời gian khiếm khuyết kéo dài là bao lâu thì sẽ được xem là NKT để phân biệt giữa
NKT với người bị suy giảm chức năng tạm thời.
Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật do Liên Hợp Quốcthông qua
vào ngày 13/3/2007 định nghĩa: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm
khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với
những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn
của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Cách định nghĩa này
tương tự cách sử dụng thuật ngữ “Người khuyết tật” tại khoản 1, Điều 1 Công ước số

7


159 của ILO về tài thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm
1983: “Thuật ngữ người có khuyết tật dùng để chỉ người mà triển vọng tìm được một
việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về mặt nghề nghiệp, đều bị giảm sút
một cách rõ rệt, do một sự khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần được công nhận
rõ ràng”.
Ở Việt Nam, khái niệm NKT chỉ mới được sử dụng vào khoảng năm 2006,
còn về trước đó chúng ta sử dụng khái niệm “người tàn tật”, thậm chí gọi gộp
“người tàn tật khuyết tật” để nói về những người bị khiếm khuyết về bộ phận cơ thể
hoặc suy giảm chức năng. Cụ thể, trong Pháp lệnh số 06/1998/PL-UBTVQH10 của
Ủy ban Quốc hội về Người tàn tật, tại Điều 1 có ghi nhận và giải thích: “Người tàn
tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là

người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới
những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Tuy nhiên có thể nhìn thấy rằng, luật pháp
quốc tế không cho rằng cách gọi tàn tật là đúng, vì giữa người tàn tật và NKT là hai
khái niệm khác nhau. Theo quan điểm của Ủy ban về các quyền của người khuyết
tật, NKT trở thành “tàn tật” là vì do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội
và có một cuộc sống giống như thành viên khác của xã hội. Do đó, việc đánh đồng
hai khái niệm “tàn” và “khuyết” là một sẽ làm hạn chế sự tham gia và hòa nhập vào
cộng đồng của người khuyết tật.
Ngày 17.6.2010, Quốc hội chính thức thông qua LNKT thay thế cho Pháp lệnh
về người tàn tật năm 1998, từ đây khái niệm NKT chính thức được thừa nhận và sử
dụng rộng rãi: “NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc
bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp khó khăn”. Khái niệm này được sự dụng rộng rãi trong hầu hết các văn
bản điều chỉnh về người khuyết tật sau này, ví dụ như Bộ luật lao động năm 2012,
Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015, Thông tư số 03/2018/TT-BGDĐT quy
định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật. Như vậy, NKT là người khiếm
khuyết về bộ phận cơ thể dẫn đến bị hạn chế trong quá trình tham gia vào các hoạt

8


động hàng ngày. Cũng như các nước Anh, Mỹ, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận
người bị khiếm khuyết về tinh thần và trí tuệ là người khuyết tật. Cụ thể là tại Điều
3 LNKT năm 2010 có quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật, cụ thể: Khuyết tật
vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần kinh, tâm thần;
Khuyết tật trí tuệ… Vì nhìn nhận từ thực tế thì những người bị suy giảm về tinh
thần và trí tuệ, nhất là trẻ em cũng gặp rất nhiều rào cản trong sinh hoạt và hòa nhập
cùng cộng đồng, chẳng hạn trẻ em mắc: bệnh tự kỉ, hội chứng tăng động rối loạn,
tâm thần phân liệt… Các khiếm khuyết này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển

và tăng trưởng bình thường của cá nhân, dễ có những hành vi không kiểm soát
được.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu “Người khuyết tật là người bị khiếm
khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần dẫn đến suy giảm lâu dài về
khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày”.
1.1.2. Đặc điểm người khuyết tật
Thứ nhất, NKT là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể
hoặc/và tinh thần.
Một người bị xem là khuyết tật khi người đó bị khiếm khuyết về các bộ phận
trên cơ thể hoặc/và tinh thần, trí tuệ. Sự khiếm khuyết đó có thể vì nhiều nguyên
nhân như: bẩm sinh, bệnh tật, tai nạn hay nguyên nhân đến từ chiến tranh, thảm họa
thiên nhiên… Điều 3, LNKT 2010 và Điều 2, Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LNKT quy định cụ thể về các dạng
tật mà NKT có thể mắc phải bao gồm:
Một là, khuyết tật vận động. Khuyết tật vận động là một dạng khiếm khuyết
làm cho NKT suy giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình
dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. NKT vận động thường không thể tự
mình hoặc gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hà ng ngày như người
bình thường. Họ chủ yếu phải nhờ sự giúp đỡ của người khác hoặc máy móc hỗ trợ
mới có thể sinh hoạt.
Hai là, khuyết tật nghe, nói. Khuyết tật nghe, nói là tình trạng suy giảm hoặc

9


mất hoàn toàn chức năng nghe, nói hoặc cả hai, không thể phát âm thành tiếng, câu
rõ ràng và nghe hiểu dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói
với những người xung quanh.
Ba là, khuyết tật nhìn. Khuyết tật nhìn là tình trạng cá nhân bị giảm hoặc mất
khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh

sáng và môi trường bình thường. Tuy nhiên, so với khái niệm này thì người cận thị
nặng cũng có thể xem là NKT vì họ cũng bị giảm về khả năng nhìn, cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, sự vật. Theo WHO định nghĩa thì khuyết tật nhìn là tình trạng suy
giảm khả năng nhìn ở một mức độ nhất định gây ra những vấn đề không thể khắc
phục bằng phương tiện hỗ trợ thông thường như kính, mà sau khi điều chỉnh thị lực
tốt nhất kém hơn 20/40 hoặc 20/60 theo thang điểm thị lực [56, tr.20].
Bốn là, khuyết tật thần kinh, tâm thần. Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình
trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện
với những lời nói, hành động bất thường.
Năm là, khuyết tật trí tuệ; khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả
năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân
tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc như người thường.
Thứ hai, khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc/và tinh thần của NKT phải là
nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm lâu dài về khả năng thực hiện các hoạt động, sinh
hoạt hằng ngày
Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật (DDA) do Quốc
hội Anh ban hành - nay chỉ có hiệu lực ở Bắc Ireland, khi xét về mặt thời gian tác
động của những khiếm khuyết dẫn đến suy giảm về khả năng thực hiện các hoạt
động, sinh hoạt của NKT thì sự suy giảm đó phải kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài,
nếu ít hơn 12 tháng bình thường thì không được coi là NKT, trừ khi là bị tái phát đi
tái phát lại [49, tr.51]. Nghĩa là, NKT thì ngoài sự khiếm khuyết về cơ thể hoặc/và
tinh thần, thì còn phải đáp ứng điều kiện về mặt thời gian mà sự suy giảm về cơ thể
hoặc/và tinh thần đó gây ra cho họ dẫn đến những hạn chế trong cuộc sống. Khoảng
thời gian suy giảm đó phải đủ lâu để làm ảnh hưởng đến các hoạt động sinh hoạt

10


thông thường cũng như là khả năng tự lao động nuôi sống bản thân của chính NKT
đó.

Pháp luật Việt Nam không giới hạn cụ thể sự suy giảm kéo dài bao lâu thì
được xem là khuyết tật. Tuy nhiên, dựa vào các quy định về “xác nhận khuyết tật”
tại chương II, LNKT năm 2010 và mẫu phiếu 01 xác định mức độ khuyết tật quy
định tại Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH về việc xác định mức độ khuyết tật do
hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện thì có thể thấy tình trạng khiếm
khuyết được đánh giá là phải diễn ra rất lâu dài, không có cơ hội phục hồi hoặc có
nhưng tỉ lệ phục hồi rất thấp. Chính sự suy giảm lâu dài đó là rào cản hạn chế NKT
trong thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày và hòa nhập với cộng đồng.
Ở Mỹ, lần đầu tiên cụm từ khuyết tật được sử dụng trong các văn bản pháp
luật là vào năm 1880 và khái niệm lúc bấy giờ cũng khác so với cách định nghĩa về
NKT như hiện nay. Cụ thể, vào thời kỳ này khái niệm NKT chỉ tập trung nhận dạng
NKT dựa vào các điều kiện sức khỏe như bệnh liên quan đến giác quan, tứ chi,
trạng thái tinh thần mà không tập trung vào mối quan hệ giữa sự suy giảm sức khỏe,
chức năng với sự tham gia vào các hoạt động xã hội của cá nhân đó. Khái niệm này
mãi đến năm 1970 mới được điều chỉnh và một người được xem là NKT khi và chỉ
khi sự suy giảm về cơ thể hoặc/và tinh thần khiến họ hạn chế trong khả năng sinh
hoạt và làm việc. Như vậy, có thể thấy rằng NKT là người bị khiếm khuyết về cơ
thể hoặc/và tinh thần thôi là chưa đủ, mà khiếm khuyết đó phải dẫn đến sự suy giảm
như thế nào về vận động, di chuyển và thực hiện các hoạt động cần thiết để phục vụ
nhu cầu của cá nhân đó và gia đình họ. Thông qua đó, mỗi quốc gia sẽ có những
chính sách hỗ trợ phù hợp để kéo ngắn khoảng cách tham gia vào cộng đồng của
người khuyết tật, giảm thiểu dần đi sự khó khăn bởi các khiếm khuyết tạo ra.
1.2. Lao động là người khuyết tật
1.2.1. Khái niệm lao động là người khuyết tật
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi
các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Theo từ điển Tiếng Việt
năm 2018 do giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên thì: “Lao động là hoạt động có mục

11



đích của con người nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội”
[33, tr.485]. Hay nói cách khác, lao động chính là quá trình kết hợp của sức lao
động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người. Ngày
nay, con người sử dụng sức lao động của mình không chỉ gói gọn trong việc tạo ra
sản phẩm phục vụ nhu cầu cấp thiết của mình mà còn sử dụng nó để tìm kiếm thu
nhập nuôi sống bản thân và gia đình.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật việc làm 2013 thì: “Người lao động là công dân
Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc”. Và
khoản 1 Điều 3 của BLLĐ năm 2012: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở
lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu
sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Khi có nhu cầu tìm kiếm việc
làm, các cá nhân phải ứng tuyển và đáp ứng các yêu cầu đặt ra của người tuyển
dụng thì mới được tuyển vào doanh nghiệp. Tại đó, quyền và nghĩa vụ phát sinh
giữa người lao động và người sử dụng lao động được thể hiện thông qua một hợp
đồng. Và người sử dụng lao động sẽ phải chi trả một khoản tiền lương xứng đáng
với sức lao động mà người lao động đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói lao động không
đơn thuần chỉ dừng lại ở việc tạo ra giá trị phục vụ nhu cầu cần thiết của bản thân,
mà nó còn là nguồn đem lại thu nhập lớn cho cá nhân biết khai thác và sử dụng.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Đại hội đồng Liên Hợp
Quốcghi nhận: “Mỗi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những
điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại nạn thất
nghiệp”. Và NKT cũng không là ngoại lệ. Để tham gia vào quan hệ lao động, trở
thành người lao động thì NKT phải đảm bảo các điều kiện về chủ thể đặt ra theo
yêu cầu của pháp luật lao động.
Thứ nhất, về độ tuổi. Theo quy định của BLLĐ năm 2012 và Nghị định
148/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 05/2015/NĐ-CP
ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số nội dung của BLLĐ thì NKT muốn trở thành chủ thể và tham gia kí kết hợp
đồng lao động phải là người thuộc các trường hợp sau đây: (i) Người lao động từ đủ


12


18 tuổi trở lên; (ii) Người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
và có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người lao động;
(iii) Người đại diện theo pháp luật đối với người dưới 15 tuổi và có sự đồng ý của
người dưới 15 tuổi; (iv) Người lao động được những người lao động trong nhóm ủy
quyền hợp pháp giao kết hợp đồng lao động.
Thứ hai, NKT phải có khả năng lao động. NKT là người có những khiếm
khuyết làm hạn chế trong thực hiện các hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên không vì
thế mà nhầm lẫn giữa khiếm khuyết và không có khả năng lao động hay mất khả
năng lao động. Dẫn chiếu theo quy định tại mục 1 phần II của Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao tối hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng , quy định về “mất khả năng lao động” được bồi thường
thiệt hại như sau: “Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả
năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không
còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng
và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm
khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho
việc chăm sóc người bị thiệt hại”. Theo khoản 2 Điều 3 LNKT năm 2010 thì NKT
được chia thành ba nhóm dựa theo mức độ khuyệt tật gồm có: NKT đặc biệt nặng,
NKT nặng và NKT nhẹ. Từ những phân tích trên, ngoại trừ những NKT mà được
cơ quan có thẩm quyền xác định mức độ khuyết tật làm suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên thì NKT vẫn có đủ khả năng lao động và tiếp ứng công việc theo yêu
cầu đặt ra của người sử dụng lao động.
Thứ ba, phải do chính NKT thực hiện trên thực tế. Quan hệ lao động là quan
hệ tồn tại yếu tố phụ thuộc pháp lý giữa người lao động và người sử dụng lao động
phát sinh thông qua hợp đồng lao động. Trên cơ sở hiệu quả công việc mà người lao

động thực hiện, người sử dụng lao động sẽ trả một khoản tiền công tương ứng.
Chính vì vậy, quan hệ lao động mang tính đích danh, phải do chính người lao động
thực hiện. NKT khi kí hợp đồng và trở thành người lao động, thì phải tự mình thực

13


hiện những công việc được giao theo đúng thỏa thuận.
Ngoài ra, với tính đặc thù là sự khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần
khiến NKT gặp nhiều khó khăn để có thể thực hiện các công việc trong điều kiện và
môi trường làm việc như người bình thường. Theo ILO thì cơ hội có một việc làm
phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó của NKT bị bị hạn chế rất nhiều bởi hậu quả
của các khiếm khuyết. Vì vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có những chính
sách và cơ chế riêng đối với lao động là người khuyết tật. Một phần là để hỗ trợ họ
trong quá trình lao động tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, phần khác làm tốt các
chính sách này sẽ giúp quốc gia đó khai thác và sử dụng nguồn lao động trong xã
hội một cách hợp lý và hiệu quả. Do đó, không doanh nghiệp nào được quyền từ
chối nếu NKT tham gia ứng tuyển và đáp ứng được tất cả các điều kiện tuyển dụng
mà người sử dụng lao động đặt ra cũng như các điều kiện về mặt chủ thể do pháp
luật quy định.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm: “Lao động là người khuyết
tật là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có những khiếm khuyết về bộ phận cơ thể hoặc/và
tinh thần nhưng vẫn có khả năng lao động và làm việc theo hợp đồng lao đồng,
được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Nhà
nước luôn tạo điều kiện tốt nhất để NKT phục hồi khả năng lao động, được làm việc
phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật. LNKT năm 2010 cũng
nghiêm cấm các doanh nghiệp từ chối tuyển dụng hoặc đặt ra các yêu cầu trái pháp
luật nhằm hạn chế hoặc từ chối cơ hội tìm kiếm việc làm của lao động là người
khuyết tật.
1.2.2. Tính đặc thù của lao động là người khuyết tật

Lao động đặc thù là lao động có những đặc điểm riêng biệt về thể chất, tinh
thần, chức năng sinh học… Cũng như lao động nữ, lao động chưa thành niên hay
lao động cao tuổi, lao động là NKT có những đặc điểm riêng dẫn đến họ chỉ phù
hợp trong những điều kiện lao động nhất định:
Một là, lao động là NKT là người lao động mà khả năng lao động, trụ lâu dài
với một công việc và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của sự khiếm

14


khuyết về thể chất và tinh thần được thừa nhận.
Đây là quy định được ghi nhận đầu tiên ngay tại khoản 1 Điều 1 Phần 1 Công
ước 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm (Người khuyết tật)
năm 1983 và được nhắc đi nhắc lại xuyên suốt trong bản công ước này. Như đã đề
cập ở phần khái niệm về NKT, thì NKT gặp nhiều hạn chế trong vận động, di
chuyển và sinh hoạt. NKT có thể cố gắng vượt qua các hạn chế về chức năng do
tình trạng khuyết tật gây ra bằng cách điều trị y khoa và/hoặc sử dụng các dụng cụ
trợ giúp y tế, ví dụ như xe lăn, máy trợ thính...[32, tr.32]. Tuy nhiên, để tham gia
với điều kiện thông thường thì với họ là rất khó khăn. Do vậy, các quốc gia đều
được Liên Hợp Quốcvà ILO khuyến cáo áp dụng các cải tiến lao động phù hợp để
người lao động được làm việc tốt nhất. Ví dụ như một người bị khuyết tật vận động
sẽ được hỗ trợ các phương tiện chuyên dụng để di chuyển và làm việc trong nông
trại, thông dịch viên phiên dịch cho người khiếm thính.
Hai là, lao động là NKT không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm hoặc tiếp xúc với những chất độc hại có tác động không tốt đến các
khiếm khuyết của bản thân.
Người khuyết tật, nhất là NKT có khả năng suy giảm ở mức độ đặc biệt nặng
thì cùng thực hiện một công việc có tính chất như nhau, nhưng NKT có mức độ hao
phí sức lao động và có nhu cầu chăm sóc y tế cao hơn người bình thường [42,
tr.69]. Do đó, khả năng phục hồi sức khỏe, tái tạo sức lao động của lao động là

NKT đòi hỏi khoảng thời gian dài hơn so với lao động là người bình thường. Chưa
kể, việc sử dụng lao động là NKT làm việc trong các điều kiện môi trường khắc
nghiệt, độc hại, công việc có tính chất nặng nhọc và nguy hiểm càng dễ dẫn đến
nguy cơ tai nạn lao động và mất khả năng lao động. Chính vì thế, bảo vệ sức lao
động của NKT, không để họ đảm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với những chất độc hại có tác động xấu đến các khiếm khuyết của bản thân là
một trong những nội dung quan trọng mà hầu hết các công ước quốc tế và pháp luật
quốc gia hướng đến.
Điều 27, Công ước về quyền của người khuyết tật có quy định: “Cấm phân

15


biệt trên cơ sở sự khuyết tật trong mọi vấn đề liên quan đến việc làm, bao gồm điều
kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng, thăng tiến
nghề nghiệp và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe”. Nhà nước phối
hợp với xã hội tạo ra điều kiện lao động an toàn, thân thiện và không cưỡng bức,
bóc lột NKT làm việc trong môi trường khắc nghiệt. Như quy định tại LNKT của
Việt Nam: “Người khuyết tật không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định. Người khuyết tật
bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên không phải làm thêm giờ, làm việc
ban đêm. Ngoài ra, hàng năm người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khỏe
định kỳ cho lao động là người khuyết tật ít nhất 6 tháng một lần”.
Ngoài ra, pháp luật các nước rất chú trọng đến việc bảo vệ sức lao động và
hạn chế suy giảm chức năng lao động ở NKT thông qua các quy định về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi để lao động là NKT có thời gian nghỉ dưỡng, phục hồi
khả năng lao động. Tránh tình trạng làm thêm giờ, làm việc ban đêm gây ảnh hưởng
không tốt đến các khiếm khuyết của bản thân
1.3. Điều chỉnh của pháp luật về lao động là người khuyết tật

1.3.1. Vai trò và sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về lao động là người
khuyết tật
Thứ nhất, bảo đảm quyền con người được sống và làm việc trong môi trường
xã hội công bằng.
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế. Và quyền lao động và việc làm là một trong các quyền cơ bản được ghi
nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Tuyên ngôn toàn thế
giới về Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và
văn hoá năm 1966 của Liên Hợp Quốcvà một số công ước của ILO.
Điều 35 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có ghi nhận: “Công dân có quyền làm
việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương

16


được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế
độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân
công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Như vậy, có thể thấy mọi công dân đều có
quyền tự do lao động, kể cả người khuyết tật. Tuy nhiên, hiện nay cơ hội tìm kiếm
việc làm trong điều kiện và môi trường làm việc thông thường là rào cản đối với
NKT vì họ không thể sử dụng sức lao động hạn chế của mình để tạo ra thành phẩm
như người lao động bình thường được. Theo ADA năm 1990 của Hoa Kì có ghi
nhận: “Sự khiếm khuyết về thể chất hoặc/và tinh thần không là lí do làm giảm quyền
tham gia của một cá nhân vào bất kì khía cạnh nào của xã hội, nhưng nhiều người
đã bị từ chối chỉ vì khuyết tật hoặc có hồ sơ ghi nhận sự khuyết tật” [52, tr.48].
Chính vì lẽ đó, việc Nhà nước ban hành các quy định pháp luật bảo vệ người lao
động là NKT là hết sức cần thiết. Vì bình đẳng về quyền được làm việc không có
nghĩa là tất cả mọi người cùng làm việc dưới một chế độ và điều kiện như nhau, mà
là tạo ra điều kiện phù hợp nhất để bất kì ai dù khỏe mạnh hay khiếm khuyết vẫn

đều có thể dùng sức lao động của mình tạo ra một thành quả lao động ngang nhau.
Và sự đối xử đặc biệt với lao động khuyết tật so với lao động thông thường không
bị coi là phân biệt đối xử giữa những người lao động với nhau. Theo khuyến nghị
111 của ILO về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp năm 1958 thì mọi
biện pháp đặc biệt nào nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của những người mà việc bảo
vệ hoặc sự trợ giúp đặc biệt đối với họ nói chung được thừa nhận là cần thiết vì
những lý do như là giới tính, độ tuổi, tàn tật, gánh nặng gia đình, trình độ xã hội
hoặc văn hoá đều không xem là sự phân biệt đối xử.
Thứ hai, tạo ra các điều kiện phù hợp để NKT có cơ hội tiếp cận việc làm của
mình một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử.
Trước đây, hầu hết các quốc gia đều xem vấn đề hỗ trợ NKT là một hoạt động
phúc lợi xã hội hoặc hành động nhân đạo từ phía cộng đồng dành cho người khuyết
tật. Tuy nhiên, nhờ vào sự nổ lực đấu tranh của các tổ chức, hiệp hội và đặc biệt là
bản thân NKT mà các quan điểm không đúng đắn trên dần được thay đổi. Ví dụ,
một bệnh nhân khiếm thính tại Úc đã gặp khó khăn trong việc hiểu các nội dung

17


truyền đạt từ bác sĩ điều trị của mình và đã khởi kiện bệnh viện này vì không đảm
bảo quyền bình đẳng trong sử dụng các dịch vụ y tế. Sau vụ kiện này, pháp luật của
quốc gia này đã có quy định các bệnh viện phải chịu trách nhiệm cung cấp phiên
dịch ngôn ngữ ký hiệu cho các bệnh nhân điếc [10, tr.29].
Nội dung của Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội cho NKT năm 1993 đã
ghi nhận lại rằng: “Trong nhiều năm qua, chính sách khuyết tật đã phát triển từ
mức chăm sóc cơ bản tại các cơ sở đến việc giáo dục cho trẻ em khuyết tật và phục
hồi chức năng cho người bị khuyết tật trong giai đoạn trưởng thành. Thông qua
việc giáo dục và phục hồi chức năng, NKT trở nên hoạt bát hơn và trở thành động
lực đối với sự phát triển hơn nữa của chính sách dành cho người khuyết tật. Các tổ
chức của người khuyết tật, gia đình và những người ủng hộ họ đã được thành lập

với cam kết cung cấp điều kiện tốt hơn cho họ. Khái niệm hòa nhập và bình thường
hóa mới chỉ xuất hiện sau Chiến tranh thế giới II đã phản ánh nhận thức ngày càng
cao về khả năng của người khuyết tật”. Chẳng hạn, Hoa Kỳ có ADA năm 1990 và
nay là Đạo luật sửa đổi ADA năm 2008 (ADAAA) nhằm bảo vệ quyền dân sự toàn
diện cho NKT trong những lĩnh vực việc làm, dịch vụ của chính phủ tiểu bang và
địa phương, nhà ở công cộng, vận tải và viễn thông, nhằm giúp cho người bị khuyết
tật sống vui vẻ và có một đời sống hòa nhập với cộng đồng [52, tr.50]. Người bị
khuyết tật được đi học, lập gia đình hoặc trở thành cha mẹ, đi làm, lái xe, chơi thể
thao, và trở thành một nhà chuyên nghiệp theo khả năng của mình. Đường sá, các
tòa nhà… đều được quy hoạch, thiết kế hợp lý để người gặp khuyết tật vận động
vẫn có thể tự dùng xe lăn di chuyển, mà không gặp bất kỳ sự bất tiện hay cần đến sự
trợ giúp nào. [53, tr.65]
Tại Việt Nam, bên cạnh các pháp luật riêng biệt bảo vệ quyền của NKT thì
pháp luật lao động cũng có những quy định cụ thể về tìm kiếm việc làm, học nghề
và ban hành các quy định cấm đối với bản thân các doanh nghiệp không được
ngược đãi, phân biệt đối xử với người lao động là người khuyết tật. Các quy định
này đều được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Nhờ đó mà người lao
động là NKT có nhiều cơ hội tiếp cận việc làm, nếu cá nhân, tổ chức có hành vi

18


xâm phạm hoặc phân biệt đối xử sẽ bị áp dụng các chế tài xử lý.
Thứ ba, giúp NKT có thể tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, không trở thành
gánh nặng của gia đình và xã hội.
Trong suốt một thời gian dài, hầu hết chúng ta đều cho rằng nguyên nhân dẫn
đến tình trạng không có việc làm và thu nhập thấp của NKT là đến từ sự sút kém về
tinh thần và thể chất của họ. Hầu hết những người không khuyết tật đều có thái độ
tiêu cực khi tiếp xúc với người khuyết tật. Xem NKT như là một gánh nặng về mặt
phúc lợi xã hội. Nhưng phải thừa nhận rằng nguyên nhân chính của những bất lợi

mà NKT đang phải đối mặt, cũng như việc họ thường xuyên bị tách biệt khỏi xã hội
không phải do tình trạng khuyết tật của từng cá nhân, mà chính là hậu quả của
những phản ứng tiêu cực xã hội đối với người khuyết tật. Do đó, NKT chưa có
nhiều cơ hội và môi trường để họ thể hiện khả năng của bản thân và tự tin phát huy
trong học tập cũng như lao động. Chính luật pháp và các chính sách đã góp phần tạo
ra các thay đổi tích cực. Theo công ước số 159 của ILO Về phục hồi chức năng lao
động và việc làm (Người khuyết tật) năm 1983 tại Điều 2 quy định: “Mọi Nước
thành viên phải coi mục đích của tái thích ứng nghề nghiệp là làm cho người có
khuyết tật có thể tìm được và duy trì một việc làm thích hợp, có thể tiến bộ được về
mặt nghề nghiệp, và do đó dễ dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã
hội”. Được lao động, được có cơ hội tìm kiếm một việc làm tạo ra thu nhập là tiền
đề cho NKT thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của mình. Vì chỉ khi NKT có thể
nuôi sống bản thân bằng sức lao động, không phụ thuộc vào gia đình và xã hội thì
khi đó họ mới đủ tự tin để tham gia vào các hoạt động văn hóa – xã hội tại khu dân
cư mình sinh sống, tại cơ quan nơi mình làm việc.
Thứ tư, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ người lao động là người
khuyết tật, là cơ sở để cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực lao động.
Tổ chức Lao động Quốc tế là một cơ quan chuyên trách của Liên Hợp Quốccó
nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao động bình đẳng và phù hợp trên toàn thế giới.
Với sứ mệnh được giao, tổ chức này đã soạn thảo nên các điều khoản dưới hình

19


×