Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

(Luận án tiến sĩ) Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 175 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THU HƢƠNG

NGHIÊN CỨU TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THU HƢƠNG

NGHIÊN CỨU TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
Ngành: Hán Nôm
Mã số: 9 22 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
GS. TS. Đinh Khắc Thuân
PGS.TS. Nguyễn Tuấn Cƣờng


HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Bản Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng
dẫn của GS.TS. Đinh Khắc Thuân và PGS.TS. Nguyễn Tuấn Cƣờng, chƣa từng
đƣợc công bố trong các công trình nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã đƣợc tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã đƣợc tiếp thu chân
thực, cẩn trọng trong luận án.

Tác giả

Lê Thị Thu Hƣơng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy cô đang giảng dạy, công tác
tại Học viện Khoa học xã hội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và
nghiên cứu tại Học viện.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Đinh Khắc Thuân và PGS.
TS. Nguyễn Tuấn Cƣờng là hai thầy hƣớng dẫn khoa học đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ
bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cám ơn Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các bậc nghiên
cứu tiền bối, cùng bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và luôn động viên
khích lệ trong quá trình học tập và viết luận án.
Nghiên cứu sinh xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô trong Hội đồng
đánh giá luận án. Kính nhận những góp ý của quý thầy cô để giúp cho nghiên cứu
sinh học tập và nghiên cứu đạt đƣợc kết quả tốt.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã giúp đỡ, động
viên để tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận án

Lê Thị Thu Hương


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

EFEO

Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp

KHNA

Khuyến học của Nghệ An

KHXH

Khoa học xã hội

Nxb

Nhà xuất bản


t.

tờ

TLHN

Tƣ liệu Hán Nôm

tr.

Trang

TTKHXH

Thƣ viện Viện Thông tin Khoa học xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT

Văn hóa thông tin

VNCHN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm



DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH ẢNH TRONG LUẬN ÁN
Bảng 2.1. Thống kê số lƣợng văn bản tục lệ Hán Nôm ............................................41
Bảng 2.2. Tƣ liệu đăng khoa lục đại khoa và số ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An ...45
Bảng 2.3. Tƣ liệu địa chí Nghệ An và số lƣợng ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An ...47
Bảng 2.4. Bảng thống kê tên phủ chép ở bìa sách và tờ 1a trong sách tục lệ ...........55
Bảng 2.5. Sự phân bố về mặt niên đại các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An ......58
Bảng 2.6. Niên đại Cảnh Hƣng ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An ..60
Bảng 2.7. Niên đại Vĩnh Thịnh ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An ..61
Bảng 2.8. Thống kê tỷ lệ % văn bia có ghi soạn giả/không ghi soạn giả .................63
Bảng 2.1. Thống kê số lƣợng văn bản tục lệ Hán Nôm ............................................41
Bảng 2.2. Tư liệu đăng khoa lục đại khoa và số người đỗ đại khoa của Nghệ An
...................................................................................................................................45
Bảng 2.3. Tƣ liệu địa chí Nghệ An và số lƣợng ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An ...46
Bảng 2.4. Bảng thống kê tên phủ chép ở bìa sách và tờ 1a trong sách tục lệ .......55
Bảng 2.5. Sự phân bố về mặt niên đại các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An
...................................................................................................................................58
Bảng 2.6. Niên đại Cảnh Hƣng ngụy tạo trong văn bia khuyến học ........................60
Bảng 2.7. Niên đại Vĩnh Thịnh ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An ..61
Bảng 3.1. Bảng thống kê sự xuất hiện của các nội dung khuyến học ……………107
Ảnh 4.1. Lễ tuyên dƣơng học sinh giỏi quốc tế, quốc gia do Tỉnh ủy - UBND tỉnh
Nghệ An tổ chức………………………………………………………………… 129
Ảnh 4.2. Hòm khuyến học đặt tại nhà thờ dòng họ Nguyễn Phùng xã Xuân Tƣờng,
huyện Thanh Chƣơng……………………………………………………………..132
Ảnh 4.3. Thực trạng khu di tích đình xã Võ Liệt…………………………………137
Ảnh 4.4. Cán bộ Ban quản lý Di tích giới thiệu sản phẩm tƣ liệu Hán Nôm đƣợc
phục chế sau số hóa……………………………………………………………….139


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
n1.1. Khái niệm khuyến học, tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ...... 7
1.1.1. Khái niệm khuyến học ......................................................................................7
1.1.2. Khái niệm tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An .............................10
1.2. Khái lƣợc quá trình phát triển của khuyến học ..………………………… 18
1.3. Giới thiệu về địa giới hành chính tỉnh Nghệ An …………………………...17
1.4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài……………………..18
1.4.1. Tình hình nghiên cứu khuyến học ở một số nƣớc phƣơng Đông ...................18
1.4.2. Tình hình nghiên cứu khuyến học ở Việt Nam ...............................................22
1.4.3. Nghiên cứu về khuyến học của Nghệ An ...................................................... 31
1.5. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..……………………..35
1.6. Định hƣớng nghiên cứu của luận án .............................................................. 37
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 38
Chƣơng 2
KHẢO SÁT NGUỒN TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
2.1. Thực trạng nguồn tƣ liệu................................................................................. 39
2.1.1. Nguồn tƣ liệu thƣ tịch .....................................................................................39
2.1.2. Nguồn tƣ liệu văn bia ......................................................................................52
2.2. Một số đặc điểm văn bản tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ... 53
2.2.1. Định dạng văn bản ..........................................................................................53
2.2.2. Niên đại ...........................................................................................................57
2.2.3. Tác giả .............................................................................................................62
2.2.4. Văn tự ..............................................................................................................65
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 66
Chƣơng 3
NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
3.1. Nội dung khuyến học qua tƣ liệu Hán Nôm của Nghệ An ........................... 67

3.1.1. Dựng trƣờng, mở lớp.......................................................................................67
3.1.2. Chế độ khen thƣởng ........................................................................................76
3.1.3. Chế tài xử phạt ................................................................................................96
3.2. Đặc điểm nội dung tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ...........104
3.2.1.Khuyến học của Nghệ An gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học, trọng
Nho học truyền thống………………………………………………………..……102
3.2.2. Nội dung khuyến học đa dạng, phong phú……………………………….. 104
3.2.3. Nội dung khuyến học mang tính linh hoạt, phù hợp với thời cuộc…….…..109
3.2.4. Nội dung khuyến học mang tính đặc điểm vùng …………………………...….110
Tiểu kết chƣơng 3………………………………………………………………. 114


Chƣơng 4
GIÁ TRỊ TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TƢ LIỆU
ĐỐI VỚI KHUYẾN HỌC HIỆN NAY
4.1. Giá trị tƣ liệu Hán Nôm về nghiên cứu khuyến học của Nghệ An ............115
4.1.1. Những giá trị nhân văn của tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An.115
4.1.2. Một số hạn chế về tƣ tƣởng khuyến học của Nghệ An xƣa trong bối cảnh hiện nay.... 125
4.2. Bảo tồn và phát huy giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
đối với khuyến học hiện nay .................................................................................128
4.2.1.Thực trạng khuyến học và việc bảo lƣu nguồn tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học
Nghệ An hiện nay....................................................................................................128
4.2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu Hán Nôm về
khuyến học của Nghệ An trong xã hội hiện nay………………………………….138
Tiểu kết chƣơng 4………………………………………………………………..146
KẾT LUẬN………………………………………………………………………147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ............................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………151

PHỤ LỤC LUẬN ÁN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển giáo dục nƣớc nhà, khuyến học, khuyến tài là động lực
quan trọng trong chiến lƣợc phát triển con ngƣời. Khuyến học là một nhu cầu thực
tiễn trong đời sống văn hóa giáo dục của ngƣời dân Việt Nam. Không chỉ có thời
nay, mà từ xa xƣa, khuyến học đã ra đời, tồn tại và phát triển, luôn đƣợc xã hội đặc
biệt quan tâm. Khuyến học giai đoạn 1075-1919, gắn liền với nền giáo dục khoa cử
Nho học, góp phần tạo ra truyền thống hiếu học cho dân tộc Việt Nam.
Nghệ An, một tỉnh nằm ở phía Bắc của Trung Bộ, nổi tiếng là đất học, nơi đây
đã sản sinh nhiều danh nhân lịch sử, nhà khoa bảng, nhà khoa học, nhà văn hóa nổi
tiếng, góp phần vào sự nghiệp dựng nƣớc và bảo vệ đất nƣớc. Qua nhiều thế hệ,
vùng đất Nghệ An luôn dẫn đầu phong trào khuyến học từ dòng họ, thôn, xã, đến
huyện, tỉnh và đƣợc ghi chép cụ thể trong các tƣ liệu Hán Nôm (TLHN).
Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) hiện lƣu trữ nhiều thƣ tịch và thác bản
văn bia, có giá trị nghiên cứu về các lĩnh vực nhƣ văn học, lịch sử, địa lý, tôn giáo,
giáo dục, khoa cử nói chung và khuyến học nói riêng. Qua tìm hiểu kho sách Hán Nôm
và kho thác bản văn bia tại VNCHN, Thƣ viện Thông tin Khoa học xã hội (TTKHXH),
Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện tỉnh Nghệ An và tại địa phƣơng, chúng tôi thấy một trữ
lƣợng không nhỏ TLHN có nội dung khuyến học của Nghệ An (KHNA). Việc tìm
hiểu, nghiên cứu phông tƣ liệu này một cách hệ thống, không chỉ có ý nghĩa khoa học,
mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động khuyến học hiện nay, cùng với việc bảo
tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam.
Nội dung nguồn TLHN về KHNA thể hiện rõ những quy định mang tính chính
sách về khuyến học, có giá trị về mặt tinh thần và vật chất mà ngƣời dân Nghệ An
đã thực hiện trong quá khứ. Những chính sách đó đã góp phần tạo động lực, lan tỏa
tinh thần hiếu học, truyền thống khoa bảng; từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
hữu hiệu đối với chính sách giáo dục cũng nhƣ phát triển nguồn nhân lực của Nghệ

An nói riêng và cả nƣớc nói chung. Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài
Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An để thực hiện luận án Tiến
sĩ ngành Hán Nôm.

1


Những kết quả nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm TLHN, cũng nhƣ giá trị
nội dung KHNA, hy vọng sẽ làm phong phú thêm nội dung khuyến học ở Việt
Nam; từ đó, có thể làm rõ hơn vai trò của nghiên cứu Hán Nôm trong việc kết nối
văn hóa truyền thống giữa quá khứ và hiện tại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách toàn diện nguồn TLHN về KHNA, bao gồm:
đặc điểm văn bản, giá trị nội dung cũng nhƣ việc bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu đó
đối với công tác khuyến học, khuyến tài hiện nay. Từ đó, luận án góp phần tìm hiểu
giá trị của di sản Hán Nôm nói chung, TLHN về KHNA nói riêng trong nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa nguồn TLHN có nội dung KHNA một cách đầy đủ nhất từ
trƣớc đến nay. Nguồn tƣ liệu này gồm thƣ tịch và bi kí, hiện lƣu trữ tại VNCHN,
TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ sở địa phƣơng.
- Nghiên cứu đặc điểm văn bản theo các phƣơng diện: định dạng văn bản (bản
in, bản viết tay, văn khắc), sự phân bố theo thời gian và không gian, văn tự (chữ
Hán, chữ Nôm), tác giả…
- Giới thiệu nội dung khuyến học đƣợc ghi chép trong TLHN (thƣ tịch và bi
kí), với các nội dung chủ yếu nhƣ: dựng trƣờng mở lớp; chế độ khen thƣởng (lƣu
danh khoa bảng, vinh quy bái tổ, lễ cầu khoa, tạ khoa, miễn sƣu sai tạp dịch, biếu
phần, lễ cầu khoa); chế tài xử phạt (ngƣời lƣời học, mƣợn danh đi học, coi thƣờng Nho

học, khoa bảng) nhằm đem lại hiệu quả học tập. Từ đó nêu ra những đặc điểm nội dung
TLHN về KHNA (đa dạng, phong phú; linh hoạt, phù hợp với thời cuộc, thiên về Nho
học, mang tính đặc điểm vùng).
- Nghiên cứu giá trị nội dung khuyến học, đề xuất những biện pháp nhằm bảo
tồn, phát huy giá trị TLHN về KHNA trong xã hội hiện nay.
- Phiên dịch một số TLHN có nội dung khuyến học mang tính tiêu biểu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

2


Toàn bộ TLHN có nội dung khuyến học của tỉnh Nghệ An lƣu trữ tại VNCHN,
TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại địa phƣơng (gồm 96 kí hiệu thƣ
tịch và 100 đơn vị bi kí).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu TLHN về KHNA chúng tôi tập trung vào một số vấn đề: xác định
các khái niệm cơ bản; tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến khuyến học ở
Nghệ An, Việt Nam và một số nƣớc đồng văn nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản; khảo sát, hệ thống hóa nguồn tƣ liệu; nghiên cứu đặc điểm văn bản; nội dung
khuyến học và đặc điểm nội dung TLHN về KHNA; giá trị nội dung khuyến học và
đề xuất những biện pháp bảo tồn và phát huy nguồn TLHN về KHNA trong xã hội
đƣơng đại.
3.3. Phạm vi sử dụng tư liệu
Phạm vi tƣ liệu chủ yếu của luận án là thƣ tịch (tục lệ, đăng khoa lục, địa chí,
gia huấn, gia phả, sách sử…) và bi ký có nội dung về KHNA trong giáo dục Nho
học lƣu trữ tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ
sở địa phƣơng do chúng tôi khảo sát, đƣợc tính đến thời điểm hiện nay (2019) làm nguồn
tƣ liệu chính trong nghiên cứu của luận án.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các bộ sách công cụ nhƣ Di sản Hán Nôm Việt

Nam thư mục đề yếu do Trần Nghĩa và François Gros đồng chủ biên, Di sản Hán
Nôm Việt Nam thư mục đề yếu (Bổ di, quyển Thƣợng, Hạ) do Trần Nghĩa chủ biên,
Thư mục hương ước của TTKHXH, Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam
do Trịnh Khắc Mạnh chủ biên…; các luận văn, luận án, sách đã xuất bản; các bài
nghiên cứu công bố trên các tạp chí chuyên ngành về khuyến học nói chung, khuyến
học Nghệ An nói riêng.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
- Xác định cơ sở lý thuyết dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam trong việc sƣu tầm, bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy văn hóa truyền
thống, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Vận dụng những tri thức về Ngữ văn Hán Nôm, văn bản học, văn tự học, thƣ
tịch học, văn hóa học, nghiên cứu liên ngành đã đƣợc vận dụng lý thuyết nghiên
cứu khoa học trong luận án.
3


- Kế thừa thành quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc từ các công trình khoa học
đã đƣợc công bố liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp văn bản học: là phƣơng pháp đầu tiên và quan trọng đối với
những ngƣời làm công tác Hán Nôm nói riêng, các ngành khoa học liên quan đến
văn bản cổ nói chung. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu văn bản TLHN về
KHNA, luận án luôn đặt nhiệm vụ xác định đƣợc thiện bản làm tiêu chí hàng đầu,
từ đó nghiên cứu giá trị nội dung văn bản, đảm bảo độ tin cậy khoa học cao.
- Phƣơng pháp phiên dịch học: đó là quá trình chuyển ngữ văn bản từ chữ Hán
và chữ Nôm sang tiếng Việt. Việc biên dịch các văn bản Hán Nôm là hết sức quan
trọng, đòi hỏi sự công phu đảm bảo “tín, đạt, nhã”; giúp chúng ta thấu hiểu văn bản,

minh giải sâu văn bản và là cơ sở tƣ liệu cho quá trình phân tích, nghiên cứu.
- Phƣơng pháp thống kê, định lƣợng: việc thống kê, định lƣợng với con số cụ
thể có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xử lý tƣ liệu. Những số liệu thống kê, định
lƣợng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về các mặt nhƣ: số lƣợng thƣ tịch, số
lƣợng bi ký có nội dung khuyến học; tổng số các điều ƣớc khuyến học; sự phân bố
về không gian, thời gian các văn bản tục lệ khuyến học, v.v... Qua đó có thể thấy
đƣợc nét khái quát, hình thức cũng nhƣ nội dung của nguồn tƣ liệu.
- Phƣơng pháp giáo dục học: là khoa học về giáo dục con ngƣời, nhằm nghiên
cứu bản chất, hoạt động giáo dục con ngƣời; cùng những mục đích, nội dung và tổ
chức nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục của xã hội. Thông qua nội dung khuyến học
trong TLHN của Nghệ An tìm hiểu cách thức sử dụng nguồn lực trong giáo dục,
việc xây trƣờng mở lớp, các hình thức khuyến khích để giáo dục ngƣời học.
- Phƣơng pháp liên ngành: để tìm hiểu và vận dụng tri thức của nhiều ngành
khoa học khác nhau nhƣ sử học, văn hóa dân gian, dân tộc học, v.v... nhằm đánh giá
toàn diện nhất giá trị TLHN về KHNA.
- Phƣơng pháp điều tra điền dã: tiến hành sƣu tầm bổ sung các thƣ tịch tại địa
phƣơng Nghệ An, đọc và in rập tại thực địa một số văn bia để giải quyết những nghi
vấn về mặt văn bản, bổ sung một số thác bản văn bia VNCHN hiện chƣa có thác
bản, phỏng vấn những ngƣời phụ trách trách KHNA trong giai đoạn hiện nay.
4


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu TLHN về KHNA có giá trị về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn đối
với công tác giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Đóng góp cụ
thể của luận án nhƣ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về khuyến học nói chung, KHNA nói riêng.
- Lần đầu tiên hệ thống hóa nguồn TLHN có nội dung KHNA hiện đang lƣu trữ
tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ sở địa
phƣơng.

- Triển khai nghiên cứu TLHN về KHNA một cách toàn diện, mang tính hệ thống
từ đặc điểm văn bản cho đến giá trị nội dung. Về văn bản: nêu những đặc điểm văn bản
của TLHN về KHNA nhƣ: loại hình văn bản, phân bố về không gian và thời gian, xác
định thiện bản, v.v... Về nội dung khuyến học: thể hiện ở những chính sách, nhƣ: dựng
trƣờng mở lớp, chế độ khen thƣởng và chế tài xử phạt.
- Nghiên cứu những đặc điểm nội dung TLHN về KHNA: thể hiện tính chủ động
trong công tác khuyến học với những hình thức đa dạng, phong phú; linh hoạt, phù hợp
với thời cuộc; đề cao tinh thần Nho giáo.
- Nêu lên thực trạng khuyến học ở Nghệ An trên cơ sở kế thừa truyền thống
khuyến học, từ đó đề xuất việc bảo tồn và phát huy giá trị nguồn TLHN về KHNA
trong giai đoạn hiện nay.
- Phần phụ lục trích dịch một số văn bản thƣ tịch và bi kí có nội dung khuyến
học tiêu biểu.
- Luận án sẽ là hƣớng mở cho các công trình nghiên cứu liên quan đến khuyến
học ở các địa phƣơng và trên cả nƣớc nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Trong suốt chiều dài lịch sử của nền giáo dục khoa cử Nho học, khuyến học là
chính sách quốc gia, là động lực trong chiến lƣợc phát triển nhân tài đất nƣớc, đƣợc
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, chƣa có nghiên cứu nào đi sâu
vào nội dung KHNA qua TLHN.
Nội dung khuyến học qua TLHN của Nghệ An giúp chúng ta thấy đƣợc những
chính sách khuyến học mà ngƣời dân Nghệ An thực hiện trong quá khứ, rộng khắp
từ thôn xóm đến hội giáp. Những chính sách đó mang lại những giá trị vô cùng quý

5


giá, nhƣ đề cao tinh thần tự học, coi trọng việc học, đề cao giá trị của Nho học
truyền thống, tác động tích cực đến thành tựu khoa bảng của Nghệ An.
Nêu ra những mặt tích cực cũng nhƣ những điểm còn hạn chế về mặt tƣ tƣởng

của khuyến học xƣa, liên hệ với thực tiễn, đƣa ra những giải pháp, nhằm bảo tồn và
phát huy giá trị của nguồn tƣ liệu; góp phần đƣa công tác khuyến học, khuyến tài
của Nghệ An nói riêng, cả nƣớc nói chung đạt đƣợc những kết quả tốt nhất.
7 . Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của
luận án gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án:
Nêu khái quát chung về tình hình nghiên cứu khuyến học nói chung ở các nƣớc
đồng văn (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu
TLHN về khuyến học, cùng sự nghiên cứu về TLHN về KHNA, từ đó định hƣớng
nghiên cứu của luận án.
Chƣơng 2: Khảo sát nguồn tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An: Khảo
sát, thống kê thƣ tịch và bi kí có nội dung KHNA tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện
Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và cơ sở địa phƣơng; nêu một số đặc điểm văn bản
của nguồn tƣ liệu này.
Chƣơng 3: Nội dung và đặc điểm tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An:
Giới thiệu nội dung khuyến học đƣợc thể hiện bằng những chính sách cụ thể nhƣ:
dựng trƣờng mở lớp, chế độ khen thƣởng và chế tài xử phạt. Qua đó thấy đƣợc đặc
điểm nội dung TLHN về KHNA: đa dạng, phong phú về mặt chính sách, chủ động
linh hoạt phù hợp với thời cuộc, mang tính đặc điểm vùng, nội dung khuyến học
gắn liền với giáo dục khoa cử Nho học.
Chƣơng 4: Giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An và vấn đề
bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu đối với khuyến học hiện nay: Thông qua những
những giá trị tích cực cũng nhƣ những hạn chế về mặt tƣ tƣởng khuyến học, luận án
tìm hiểu thực trạng hoạt động KHNA, tính kế thừa từ truyền thống đến hiện tại, đƣa
ra một số giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu đó trong giai đoạn hiện nay.

6



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Khuyến học là chính sách, là nhu cầu thực tiễn trong đời sống văn hóa giáo dục,
trải qua nhiều thời đại, ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong những năm gần
đây, khuyến học nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều học giả trong nƣớc cũng nhƣ một số
nƣớc phƣơng Đông. Trong chƣơng này, chúng tôi chọn một số tác phẩm tiêu biểu về
khuyến học làm cơ sở triển khai nội dung ở các chƣơng tiếp theo.
Nhận thức đƣợc giá trị của khuyến học, các học giả Việt Nam và một số nƣớc
phƣơng Đông đã để tâm nghiên cứu, công bố nhiều công trình khoa học liên quan đến
khuyến học. Trƣớc khi tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài, chúng tôi xác định khái niệm về khuyến học, khái niệm TLHN về KHNA.
1.1. Khái niệm khuyến học, tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
1.1.1. Khái niệm khuyến học
Ở Trung Quốc
Từ điển Từ nguyên 辭源 giải thích: 勸學: 鼓勵勤於學習 (khuyến học: cổ vũ,
khích lệ chăm chỉ học tập). [306. tr.208].
Khuyến học: thời cổ đại nên tách làm hai từ: “khuyến” có nghĩa là khuyên giải,
khích lệ, “học” đƣơng nhiên là học tập; hai từ đó hợp lại, là thuyết phục và khích lệ
ngƣời khác nỗ lực học tập. Xã hội Trung Quốc từ cổ đại đến nay, học tập luôn là
vấn đề trọng yếu đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, thậm chí là điều kiện mang
tính quyết định, “học giỏi thì làm quan” luôn là mục tiêu lý tƣởng của ngƣời đi học,
nên khuyến học trở thành một hiện tƣợng văn hóa, một loại tƣ tƣởng truyền thống
kéo dài liên tục”. [316, tr.6].
Cũng theo tác giả Tống Tƣờng “Khuyến học là phƣơng thức giáo dục đặc sắc
của Trung Quốc cổ đại, hình thành tƣ tƣởng khuyến học một cách hệ thống, có tác
dụng tƣơng đối lớn trong quá trình bồi dƣỡng nhân tài thời kỳ cổ đại. Trong xã hội
hiện đại, đặc biệt đối với giáo dục cơ sở, khuyến học vẫn có tác dụng chỉ đạo và gợi
mở rất lớn”. [317, tr.136].


7


Ngô Dân Tƣờng và Lộ Thế Bằng cho rằng: “Khuyến học là thuyết phục, khích
lệ, động viên ngƣời khác nỗ lực học tập”. [318, tr.77].
Trƣơng Thứ Đệ đƣa ra quan niệm về khuyến học Nho gia: “Khuyến học trong
văn hóa Nho gia là chỉ Nho gia Trung Quốc cổ đại dùng một hình thức nhất định để
cổ vũ, khích lệ cá nhân hoặc tập thể thực hiện lòng nhân, tu lễ, chú trọng đạo đức,
học tập, bao gồm hai phƣơng diện là hình thức khuyến học và nội dung khuyến
học”. [309, tr.28].
Điền Kiến Bình cho rằng: “Tuân Tử viết thiên “Khuyến học” nổi tiếng, dốc
tâm sức khuyên mọi ngƣời cố gắng nỗ lực tìm tòi học vấn. Bản thân khuyến học
thực ra không phải mục đích, mục đích là bồi dƣỡng, giáo dục nhân tài. Rõ ràng,
Tuân Tử cho rằng, chỉ có thông qua khổ học mới có thể trở thành tài, không học thì
chắc chắn không thành ngƣời tài đƣợc”. Trong “khuyến học” chữ khuyến là trọng
tâm, Tuân Tử cho rằng “khuyên từ đầu đến cuối, khuyên mãi khuyên hoài không
chán, khuyên đi khuyên lại, sử dụng hết ví dụ này đến ví dụ khác, hết lời khuyên
bảo, tuần tự tăng tiến, ân cần dạy bảo, mục đích là khuyên mọi ngƣời học tập”. [314,
tr.95].
Ở Việt Nam
Từ điển tiếng Việt viết: “Khuyến học: khuyến khích việc học”. Từ “khuyến
khích” đƣợc từ điển này giải thích thêm: khuyến khích: tác động đến tinh thần để
gây phấn khởi, tin tƣởng mà cố gắng hơn; tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
mẽ hơn. [133, tr.540].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Khuyến học là việc cổ vũ và nâng đỡ việc
học”. [174, tr.473].
Ghi chép về hoạt dộng khuyến học đƣợc nhà sử học Phan Huy Chú ghi chép
cụ thể trong Lịch triều hiến chương loại chí, mục Khoa mục chí, với các nghi thức:
xƣớng danh Tiến sĩ; ban mũ, áo, cân đai; ban yến và lễ vinh quy bái tổ đời Lê Trung

hƣng, có giá trị khuyến học sâu sắc. [15, tr.55-59].
Quan điểm của các nhà Nho Việt Nam về việc học, khuyến học đƣợc ghi chép
trong các thƣ tịch cổ. Thám hoa Nguyễn Đức Đạt trong Cần kiệm vựng biên 勤儉彙
編 (mục Cần học) đã viết: “Việc học giỏi bởi chuyên cần, không chuyên cần thì

8


chẳng khác gì không học. (Hiểu biết) sâu rộng hay hạn hẹp, há chơi đùa mà có thể
có đƣợc sao. Học mà để làm quan, làm quan để mà học, khác lối cùng đƣờng”.1
Tiến sĩ Hồ Phi Tích trải qua cuộc sống nghèo cùng, nhƣng ông vẫn nỗ lực trong việc
học “ Cái nghèo không thay đổi đƣợc niềm vui của ta, thà chịu nghèo mà đƣợc biết sự vất
vả của việc đọc sách; cái cùng càng làm cho lòng ta thêm vững, không lìa bỏ chí hƣớng
cao xa”2 . Sách Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca 黎朝阮相八家訓歌3 có Bài
ca khuyên học trò phải chăm học: “Bậc thánh hiền ấy không dám ví/ Song làm
ngƣời có chí thì nên/ …Sớm khuya ở chốn văn phòng/ Bút nghiên, giấy mực bạn
cùng chân tay/ Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách/ Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn
chƣơng/ Một đèn, một sách, một giƣờng/ Rèn đèn, mài sắt nên gang có ngày”4.
Cao Xuân Dục trong tác phẩm Nhân thế tu tri 人世須知, mục Vụ học tổng hợp
những lời nói hay, những tấm gƣơng tốt trích trong các sách Kinh, Sử, Tử, Tập về
việc học, hiếu học, nhƣ: “ Phàm những ngƣời hiếu học tuy chết đi, nhƣng tinh thần
vẫn còn, ngƣời không học thì dẫu còn cũng chỉ là cái thây đi, cục thịt chạy mà thôi”.
Hay “Thuyết Uyển: nhỏ mà ham học nhƣ mặt trời mới ló, lớn mà ham học nhƣ trời
sáng ban ngày, già mà ham học nhƣ ánh sáng ngọn đuốc” 5.
Sổ tay khuyến học của Hội Khuyến học Việt Nam định nghĩa: “Khuyến học là
khuyến khích học tập. Cụ thể nó là một khái niệm dùng để chỉ những hoạt động tạo
điều kiện thuận lợi về tinh thần và vật chất của cá nhân hay tổ chức để khích lệ,
giúp đỡ ngƣời học nghe theo, làm theo cùng nhau thúc đẩy việc học tập”. [47, tr.1].
Trong cuốn Cấu trúc của mô hình xã hội học tập ở Việt Nam của Hội Khuyến
học Việt Nam diễn giải về “khuyến học” nhƣ sau: “Khuyến học là sự khuyên bảo,


“學精於勤、不勤不如勿學、博之約之豈嬉而能獲哉. 學而仕、仕而學、異徑同術”,
勤儉彙編,VHv.708, t.17a.
2
“然貧不改樂、寕知黄卷之勞、窮且貧堅、不堕青雲之志”窮達家訓 , A.3076, tr.46b.
3
黎朝阮相公家訓 歌 Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca, kí hiệu AB.406 là một tập
hợp 6 bài ca theo chủ điểm giáo dục gia đình. Xem thêm Hoàng Văn Lâu.1984, “Ai viết gia huấn
ca”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.112-120.
4
“堛聖賢𧘇空監啻、雙 爫𠊛固志時𢧚 (…) 𣋽虧 於准文房、筆硯絏墨伴共蹎拪、排精
義共排文策、精賦詩每𨤔文章、沒畑沒冊沒床、鍊畑𥕄鉄𢧚鋼固𣈗”, 黎朝阮相八家訓歌,
AB.406. tr.23b, 24a
5
“拾遺記:夫人好學雖死若存, 不學者雖存謂之行尸走肉耳”; “ 說苑:少而好學如日出
之, 陽壯而好學如日中之 , 老而好學如炳燭之明”, 人世須知, VHv.352/4, t.11b, 12a.
1

9


hƣớng dẫn, khích lệ, giúp đỡ của các tổ chức và cá nhân để ngƣời ta hứng thú nghe
theo, làm theo, cùng nhau thúc đẩy việc học tập và vận động các nguồn lực để tạo
cơ hội và điều kiện cho mọi ngƣời đƣợc học và tự học. Học thƣờng xuyên, học suốt
đời; học chữ, học nghề, học làm ngƣời, học để biết, để làm việc, để làm ngƣời, để
chung sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần xây dựng cả nƣớc trở thành một xã
hội học tập…”. [48, tr.100].
Qua một số định nghĩa và quan niệm về khuyến học nêu trên, theo chúng tôi,
khái niệm khuyến học đƣợc xác định nhƣ sau: Khuyến học là hoạt động hoặc chính
sách trong lĩnh vực giáo dục, nhằm cổ vũ, khích lệ cá nhân hoặc tập thể nỗ lực học

tập, cụ thể là những hoạt động tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần và vật chất của cá
nhân hay tổ chức để ngƣời học hứng thú cùng nhau thúc đẩy việc học tập; vận động
các nguồn lực để tạo cơ hội và điều kiện cho mọi ngƣời đƣợc học, góp phần xây
dựng một xã hội học tập.
1.1.2. Khái niệm tư liệu Hán Nôm về khuyến học Nghệ An: TLHN về
KHNA là những loại hình tƣ liệu đƣợc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm có nội dung
về khuyến học của tỉnh Nghệ An. Luận án tập trung khai thác những thông tin của
TLHN về KHNA qua các nguồn tƣ liệu nhƣ tục lệ, đăng khoa lục, gia phả, gia huấn,
địa chí và bi ký, các nguồn tƣ liệu này gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học
cho đến những năm đầu thế kỷ XX, khi khoa cử Nho học kết thúc và mở đầu của
giai đoạn cải lƣơng hƣơng chính (1919-1921). Đặc biệt khai thác sâu nội dung tƣ
liệu, nhƣ tƣ liệu đăng khoa lục, từ thông tin về đăng khoa lục thấy đƣợc ý nghĩa
khuyến khích và nêu gƣơng, truyền thống đỗ đạt của địa phƣơng, bổ sung những
thông tin hữu ích để chỉnh lý những sự kiện, nhân vật khoa bảng cho chính xác hơn.
1.2. Khái lƣợc quá trình phát triển của khuyến học
Ở Trung Quốc
Thời nhà Chu, khuyến học Nho gia trở thành một trong những hệ thống biểu
đạt kết hợp giữa tƣ tƣởng với thực tiễn, ngƣời sáng lập là Khổng Tử. Khổng Tử đại
biểu cho khuyến học Nho gia thời kỳ sớm nhất, nội dung khuyến học chủ yếu là
nhấn mạnh nhân và đức. Trong tác phẩm Luận ngữ, Khổng Tử đã dùng chính cuộc
đời mình để khái quát về việc học “ta 15 tuổi mới chuyên tâm vào việc học, ba
mƣơi tuổi mới tự lập, bốn mƣơi tuổi mới thấu hiểu mọi sự lý trong thiên hạ, năm
10


mƣơi tuổi mới hiểu đƣợc mệnh trời, sáu mƣơi tuổi mới có kiến thức và kinh nghiệm
hoàn hảo để có thể phán đoán ngay đƣợc mọi sự lý và nhân vật, mà không thấy có
điều gì chƣớng ngại khi nghe đƣợc, bảy mƣơi tuổi mới có thể nói hay làm những
điều đúng theo ý muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn khổ đạo lý”. [309,
tr.28]. Muốn đạt tới khả năng nhận thức và thực hành, ở mỗi lứa tuổi ngƣời ta phải

đƣợc giáo dục và tự mình chuyên tâm vào việc học, học liên tục ngay từ khi còn trẻ
cho đến lúc tuổi già.
Khuyến học Khổng Tử rất coi trọng việc “lấy mình làm gƣơng”, với việc học
“học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (học mà thƣờng xuyên luyện tập, chẳng
vui lắm sao?”, “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (học mà không chán, dạy
ngƣời mà không thấy mệt).
Thời Chiến quốc, khuyến học của Mạnh Tử phát triển có tính sáng tạo, lấy
phƣơng thức đề cao nhân cách cá thể để dẫn dắt chính trị quốc gia. Để thuận lợi cho
việc thực thi khuyến học, Mạnh Tử thẳng thắn cho rằng cần phải tham gia vào chính
trị quốc gia, tức làm quan, làm thầy đế vƣơng.
Thời Tiên Tần không ít ngƣời đề xƣớng việc học tập, nhƣng phải đến thiên
“Khuyến học”của Tuân Tử mới lƣu lại dấu ấn lịch sử sâu sắc. Khuyến học của Tuân
Tử là tƣ tƣởng khuyến học tiêu biểu thời kỳ đó, lấy “việc học để cầu tài năng” làm
mục tiêu học tập.
Thời nhà Hán, khuyến học Nho gia là một biểu hiện của đời Hán, tƣ tƣởng
Nho gia trở thành tƣ tƣởng chính trị thống trị quốc gia, Nho học trở thành quan học,
đúng với thực tế tên gọi. Hán học lấy phƣơng thức cổ vũ, khích lệ, kêu gọi mọi
ngƣời thông hiểu kinh sử, lấy quan chức để khuyến học, thời kỳ đó dẫn đến không
khí Nho học rất sôi nổi. Khuyến học Nho gia thời nhà Hán lấy hình thức chính trị
hóa quốc gia nên cổ vũ ngƣời học thông Nho học, Nho điển. Nho sĩ cũng muốn
thông qua kinh điển để đƣợc trọng dụng, đƣợc tham gia vào hoạt động chính trị.
Thời Minh Thanh, giáo dục nhà trƣờng và khảo thí khoa cử có sự kết hợp mật
thiết, đó là biểu hiện chế độ khoa cử giáo dục quốc gia, của khuyến học Nho gia.
[309, tr.29-32].

11


Ở Việt Nam
So với các nƣớc chịu ảnh hƣởng của giáo dục Nho học Trung Hoa, khuyến

học ở Việt Nam có ảnh hƣởng lâu dài và liên tục. Tuy nhiên, thể chế, biện pháp
khuyến học có sự thay đổi, phù hợp với từng thời kỳ, từng triều đại và tình hình
giáo dục khoa cử nƣớc nhà.
Thời Bắc thuộc, vào thế kỷ VIII và IX, chữ Hán đƣợc học và sử dụng rộng rãi
ở Việt Nam, ngƣời Việt sử dụng chữ Hán nhƣ chữ viết của mình. Nhờ tinh thần
hiếu học, không ít ngƣời Việt có trình độ học vấn cao và thi đỗ trong các kì thi do
triều đình phƣơng Bắc tổ chức, nhƣ: Phùng Đái Trí, Khƣơng Công Phụ, Khƣơng
Công Phục, Liêu Hữu Phƣơng, v.v... [121, tr.135], những tấm gƣơng đó có tác dụng
cổ vũ, khuyến khích học tập đối với hậu thế.
Triều Lý, năm 1070, triều đình cho dựng Văn miếu ở kinh thành Thăng Long
thờ Khổng Tử và các vị Thánh hiền và là nơi học tập của Hoàng thái tử “Năm Canh
Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu, tháng Tám dựng
Văn miếu, đắp tƣợng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tranh Thất thập nhị hiền,
bốn mùa cúng tế, Hoàng thái tử đến học ở đây”. [17, tr.275]. Nhƣ vậy, ngoài chức
năng thờ tự các bậc Tiên Thánh, tiên sƣ của đạo Nho, Văn miếu còn mang chức
năng của một trƣờng học hoàng gia. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trƣờng Quốc
tử giám ở bên cạnh Văn miếu, có thể coi đây là trƣờng đại học đầu tiên ở Việt Nam.
Ban đầu trƣờng chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc quyền quý, sau vua Trần
Thái Tông đổi Quốc tử giám thành Quốc học viện cho mở rộng thu nhận cả con các
nhà thƣờng dân có sức học xuất sắc.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, nhà Lý trong 200 năm trị vì đã tổ chức đƣợc 7
kỳ thi tuyển, đó là: khoa Minh kinh Bác học và thi Nho học tam trƣờng vào các năm
Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh thứ 4 (1075); khoa Bính Dần năm Quảng Hựu thứ 2
(1086); khoa Nhâm Ngọ năm Đại Định thứ 23 (1162); khoa Nhâm Dần năm Trinh
Phù thứ 7 (1182); khoa Ất Tỵ năm Trinh Phù thứ 10 (1185); khoa Quý Sửu năm
Thiên Tƣ Gia Thụy thứ 8 (1193) và khoa Ất Mão năm Thiên Tƣ Gia Thụy thứ 10
(1195). [17, tr.277-330].

12



Trải theo chiều dài lịch sử đất nƣớc, tiếp theo các triều Trần, Lê, Mạc, Nguyễn
ngoài việc thƣờng xuyên tổ chức các khoa thi để lựa chọn nhân tài, còn có những
chính sách nhằm khuyến khích việc học.
Triều Trần, năm 1227, mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) để chọn ngƣời
giỏi. Khoa thi Nho học đầu tiên của triều Trần tổ chức vào tháng Hai năm Nhâm
Thìn niên hiệu Kiến Trung thứ 8 (1232), kết thúc là khoa Thái học sinh năm Quý
Dậu (1393). Để khuyến khích việc học tập của các sĩ tử vùng xa kinh đô, khoa thi
Thái học sinh năm Nguyên Phong thứ 6 (1256) quy định lấy 2 Trạng nguyên: 1
Trạng nguyên Kinh và 1 Trạng nguyên Trại 6: “Hồi sơ quốc cử ngƣời chƣa phân
kinh trại, ngƣời đỗ đầu cho danh hiệu Trạng nguyên. Đến nay chia Thanh Hóa,
Nghệ An làm trại, cho nên có phân biệt kinh, trại”. [18, tr.27]. Cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông gây ra những xáo trộn trong học tập, khoa cử, vua Trần Nhân
Tông “xuống chiếu cho sĩ nhân trong nƣớc ôn luyện để đợi thi”. [17, tr.78]. Khoa
thi Thái học sinh lớn nhất đƣợc mở vào năm Giáp Thìn Hƣng Long năm thứ 12
(1304) với 44 ngƣời đỗ Thái học sinh “dẫn 3 ngƣời đỗ đầu ra cửa Long Môn của
Phƣợng Thành đi du ngoạn đƣờng phố 3 ngày, còn 330 ngƣời khác thì ở lại học
tập”.[18,tr.88]. Cuối triều Trần, vua Trần Thuận Tông đƣa ra chính sách dùng ruộng
công thu hoa lợi cấp cho trƣờng học, quy định “phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu
vừa 12 mẫu, chủ châu nhỏ 10 mẫu”. [267].
Triều Lê, triều đình đặc biệt chú trọng đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm Thuận
Thiên thứ 1 (1428), ngoài Quốc tử giám ở kinh đô, Lê Thái Tổ hạ chiếu các nơi trong
nƣớc đều dựng học đƣờng ở các phủ để dạy dỗ nhân tài. Năm 1484, việc cho dựng bia
ghi tên các Tiến sĩ đánh dấu sự ra đời của văn bia liên quan đến khuyến học Việt Nam.
Quy định về vinh quy bái tổ là ân điển lớn đƣợc duy trì đến triều Nguyễn, là điểm nhấn
quan trọng trong hoạt động khuyến học. Năm Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4
(1463) “ bắt đầu định lệ ba năm một lần thi Hội” với quy mô lớn chƣa từng có “bấy giờ
ngƣời dự thi có tới 4.400 ngƣời, lấy đỗ 44 ngƣời”. [18, tr.398]. Từ khoa thi này, lễ
truyền loa xƣớng danh các tân Tiến sĩ và ban ân mệnh cho từng ngƣời, đem bảng vàng
treo ngoài cửa Đông Hoa cho các sĩ nhân biết, đƣợc coi là thƣờng lệ.

6

Tứ trấn ở miền Bắc gọi là Kinh, miền Thanh Hóa và Nghệ An gọi là Trại.
13


Một sự kiện lớn là việc dựng bia đề danh Tiến sĩ tại Văn miếu - Quốc tử giám
Thăng Long do sáng kiến của vua Lê Thánh Tông năm 1484: “vua cho là từ năm
Đại Bảo thứ 3 triều Thái Tông đến giờ, việc dựng bia, đề tên Tiến sĩ các khoa vẫn
chƣa làm đƣợc, sai Lễ bộ Thƣợng thƣ Quách Đình Bảo biên rõ họ tên, thứ bậc các
Tiến sĩ thi đỗ, kể từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo thứ 3 (1442) triều Thái Tông, khoa
Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6 triều Nhân Tông, khoa Quý Mùi năm Quang Thuận
thứ 4, khoa Bính Tuất năm thứ 7, khoa Kỷ Sửu năm thứ 10, khoa Nhâm Thìn năm
Hồng Đức thứ 3, khoa Ất Mùi năm thứ 6, khoa Mậu Tuất năm thứ 9, khoa Tân Sửu
năm thứ 12, khoa Giáp Thìn năm nay, khắc vào bia đá, v.v… Vua y tờ tâu, sai Công
bộ khởi công dựng tạc bia”. [18, tr.491- 492].
Triều Mạc, các vua rất chú trọng việc mở các khoa thi Tiến sĩ để tuyển chọn
nhân tài. Ngay cả khi nhà Mạc và nhà Lê Trung hƣng xảy ra cuộc chiến, các khoa
thi Tiến sĩ vẫn đƣợc mở đều đặn. Năm Kỷ Sửu niên hiệu Mạc Minh Đức thứ 3
(1529): “Họ Mạc mở khoa thi Hội, lấy 3 ngƣời đỗ Tiến sĩ cập đệ, 8 ngƣời đỗ Tiến sĩ
xuất thân và 16 ngƣời đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. [19, tr.113]. Năm Nhâm Thìn,
niên hiệu Mạc Hồng Ninh thứ 2 (1592), họ Mạc mở khoa thi Hội, lấy 4 ngƣời đỗ
Tiến sĩ xuất thân, 13 ngƣời đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. [19, tr.174].
Triều Tây Sơn, vua Quang Trung khi vừa lên ngôi (1788) đã ban Chiếu lập
học, thể hiện sự coi trọng giáo dục thời kỳ này, với những chính sách cụ thể, phổ
cập việc học và đào tạo thực tài. Chiếu lập học là một chính sách rất kịp thời và tiến
bộ nhằm cải cách giáo dục dƣới triều Tây Sơn. [162, tr.75-77]. Bên cạnh đó, chủ
trƣơng mở trƣờng, đặt chức Đốc học ở các trấn Bắc Thành [289] thể hiện rõ việc
chăm lo, khuyến khích việc học của triều đại này.
Triều Nguyễn, sau khi Gia Long lên ngôi, tình hình chính trị, xã hội có nhiều

biến động, việc học hành thi cử mất vài năm mới dần đƣợc khôi phục. Ngoài các
khoa thi Tiến sĩ nhƣ các triều đại trƣớc, triều Nguyễn còn đặt ra một số Ân khoa và
Chế khoa bác sĩ. Kể từ khoa thi Hội đầu tiên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đến
khoa thi cuối cùng năm Khải Định thứ 4 (1919), nhà Nguyễn đã tổ chức đƣợc 39
khoa thi Hội, lấy đỗ 558 vị Tiến sĩ. [166, tr.23]. Trong 23 tỉnh có ngƣời đỗ đại khoa
triều Nguyễn, tỉnh Nghệ An có số ngƣời đỗ nhiều nhất với 91 ngƣời, vƣợt hẳn tỉnh
thứ 2 là Thừa Thiên (60 ngƣời), Hà Tĩnh (44 ngƣời). [167, tr.385]. Triều Nguyễn tổ
14


chức đƣợc 47 khoa thi Hƣơng trên cả nƣớc, trƣờng thi Nghệ An tổ chức đƣợc 42
khoa, lấy đậu 802 Cử nhân, 562 là ngƣời Nghệ An, còn lại là các tỉnh khác. [167,
tr.74, 85].
Năm Đinh Mão niên hiệu Gia Long thứ 6 (1807), khoa thi Hƣơng đầu tiên của
triều Nguyễn đƣợc tổ chức trên phạm vi cả nƣớc, lấy đỗ 56 Hƣơng cống, nhà nƣớc
định lệ 6 năm tổ chức một khoa thi Hƣơng, về sau đổi lại là 3 năm. [127, tr.111].
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822), khoa thi Hội đầu tiên của
triều Nguyễn đƣợc tổ chức. Chức danh Phó bảng đƣợc ra đời từ khoa Kỷ Sửu niên
hiệu Minh Mệnh thứ 10 (1829), để chỉ những ngƣời lấy thêm ở mỗi khoa thi, có số
điểm gần sát với hạng Đệ Tam giáp. Tuy đƣợc chọn trong kỳ thi đại khoa, nhƣng
quyền lợi và sự đãi ngộ của những ngƣời này không đƣợc bằng ngƣời đỗ chính
bảng. Đến đời Tự Đức, ngoài các khoa thi Hội mở theo đúng định lệ, vua cho đặt
Ân khoa, nghĩa là các khoa thi đƣợc vua đặc ân cho mở thêm ngoài các năm quy
định và Chế khoa cát sĩ dành cho các Cử nhân, Giám sinh đang học tại Quốc tử
giám (Huế), Giáo thụ, Huấn đạo ở các phủ, huyện, Tiến sĩ, Phó bảng đang ở tại quê
nhà chƣa ra làm quan và cả các Cử nhân, Tú tài đạt điểm qua một kỳ khảo hạch sơ
bộ. Khoa này phép thi có phần khó hơn, đặc ân đƣợc ban cũng trọng hậu hơn chính
khoa Tiến sĩ. [157, tr.15, 16]. Khoa thi Hội năm Kỷ Mùi Khải Định thứ 4 (1919) trở
thành khoa thi cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
Ngoài việc tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài, chính quyền triều

Nguyễn còn đặt ra những chính sách chăm lo đến giáo dục, cụ thể nhƣ: đặt các chức
Huấn đạo Nho học ở các huyện vào năm Gia Long thứ 2 (1803); chức Giáo chức ở
các trấn thuộc Bắc Thành năm Gia Long thứ 3 (1804), mỗi trấn đặt thêm viên Trợ
giáo, Đốc học để chăm lo công việc giảng dạy. Để tạo cơ sở vững vàng cho phát triển
giáo dục nói chung, khuyến học nói riêng, vua Gia Long định phép khảo khóa học trò
vào hai kỳ Xuân, Thu, miễn binh đao cho những ngƣời thông văn lý để khuyến khích.
[146, tr.565].
Dƣới triều Nguyễn, năm Ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18, định rõ lại lệ bổ
quan cho những viên Tiến sĩ và Phó bảng: Cử nhân, Giám sinh mà trúng nhất giáp,
Đệ nhất danh, (tức Trạng nguyên) bắt đầu thụ hàm Thị độc; Đệ nhị danh (tức Bảng
nhãn) bắt đầu thụ hàm Thừa chỉ, đợi Chỉ kén dùng; Đệ tam giáp (tứcThám hoa) bắt
15


đầu thụ hàm trƣớc tác, lập tức bổ ngay Tri phủ (…); Phó bảng, thụ hàm kiểm thảo,
đầy 1 năm thăng Tri huyện, thự Đồng Tri phủ. [142, tr.905]. Đổi định lệ “đỗ Cử nhân
có phân số bổ làm Huấn đạo, lĩnh Giáo thụ, hoặc Chánh bát phẩm lĩnh tƣ vụ, biên tu,
kinh lịch; đầy 1 năm thì đƣợc thực thụ; 2 năm thăng thụ đồng tri, lĩnh huyện, châu
thông phán tu soạn; hoặc bổ đồng tri, trƣớc tác, chủ sự. Ai không dự có phân số, cũng
bổ Huấn đạo, hoặc Chánh bát phẩm lĩnh các chức nhƣ trên, đủ 2 năm đƣợc thực thụ.
Lại đầy năm nữa, thăng bổ huyện, châu, hậu bổ các tỉnh, đều thụ Hàn lâm điển tịch,
đến khi bổ huyện, châu đều theo bổ quan”. [142, tr.935].
Tại Nghệ An
Khuyến học còn đƣợc cụ thể hóa qua việc xây dựng, trùng tu Văn miếu, Văn
từ, Văn chỉ, dựng bia đề danh khoa bảng từ cấp tỉnh đến làng xã, ghi danh ngƣời đỗ
đạt các cấp trong sách đăng khoa lục, lập điều ƣớc khuyến học trong bản tục lệ,
khuyến khích học tập trong các dòng họ khoa bảng, v.v… Tƣ liệu khuyến học sớm
nhất là bản Hội khoán của thôn Quỳnh Đôi, xã Quỳnh Lƣu đƣợc lập năm Vĩnh Thọ
thứ 3 (1660), có tác dụng khuyến khích khoa cử, tôn sùng Nho học. Cùng với sự
phát triển của Nho học cấp làng xã, các tƣ liệu thƣ tịch và bi ký về KHNA tiếp tục

tồn tại, phát triển cho đến đầu thế kỷ XX, điển hình là năm Duy Tân thứ 5 (1911) ra
đời và tái biên rất nhiều hƣơng ƣớc.
Tóm lại, khuyến học đã đƣợc hình thành ở Việt Nam từ rất sớm. Phùng Trí Đái,
Khƣơng Công Phụ, Khƣơng Công Phục, v.v… là những tấm gƣơng điển hình về trí
tuệ, học vấn, tinh thần ham học hỏi của ngƣời dân Việt Nam trƣớc thời quân chủ. Trải
theo chiều dài lịch sử đất nƣớc, ngƣời đứng đầu các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê
Trịnh, Nguyễn luôn đề ra những chính sách riêng để khuyến khích việc học: xây dựng
Văn miếu - Quốc tử giám vào triều Lý; quy định về việc lấy thêm học vị Trại Trạng
nguyên vào triều Trần; dựng bia đề danh Tiến sĩ dƣới triều Lê; vua Quang Trung ban
Chiếu lập học; dựng trƣờng ở cấp phủ, cấp huyện dƣới triều Nguyễn; chính sách
khuyến học lan tỏa từ trung ƣơng xuống các phủ, huyện, thôn, xóm. Tại các tỉnh, trong
đó có Nghệ An, ngƣời dân học tập, tiếp thu, cải biến các chính sách khuyến học cho
phù hợp với tình hình địa phƣơng, cụ thể nhƣ: xây dựng Văn từ, Văn chỉ, dựng trƣờng
mở lớp ngay tại thôn xã, lập điều ƣớc khuyến học trong các bản tục lệ, khuyến học

16


trong các dòng họ, v.v… từ đó, tạo động lực thúc đẩy việc học ngày càng rộng khắp và
đạt hiệu quả cao.
Có thể nói, khuyến học Việt Nam nói chung, KHNA nói riêng có lịch sử phát
triển khá lâu đời, đƣợc thực hiện rộng khắp từ trung ƣơng đến địa phƣơng, với sự nỗ
lực từ ngƣời cai trị đất nƣớc cho đến ngƣời dân nghèo. Khuyến học Trung Hoa mang
tính tƣ tƣởng, khuyến học Việt Nam đi sâu vào chính sách cụ thể.
1.3. Giới thiệu về địa giới hành chính tỉnh Nghệ An
Vùng đất Nghệ An có lịch sử diên cách khá phức tạp. Theo Dư địa chí của
Nguyễn Trãi: “Nghệ An là đất của Cửu Chân thời Hán, đất của quận Cửu Đức thời
Tấn, thời Tùy là đất quận Nhật Nam, đời Đƣờng là đất Hoan Châu và Diễn Châu,
thời Đinh Lê vẫn gọi là Hoan Châu. Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) đời Lý Thái
tông, đổi Hoan Châu ra Nghệ An (tên Nghệ An bắt đầu có từ đó). Năm Long Khánh

thứ 2 (1374) đời Trần Duệ tông đổi Diễn Châu thành Diễn Châu lộ, đổi Hoan Châu
thành các lộ Nghệ An Nam, Bắc, Trung. Năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần
Thuận tông đổi Nghệ An làm trấn Lâm An, đổi Diễn Châu thành trấn Vọng Giang.
[172, tr.134-135]. Sách Đồng Khánh dư địa chí ghi: Năm Quang Thuận thứ 10
(1469) đặt Nghệ An thừa tuyên (sau đổi là xứ) gồm 8 phủ, 18 huyện, 2 châu. Triều
Nguyễn, năm Gia Long 1 (1802) lấy lại tên cũ là trấn Nghệ An. Năm Minh Mệnh
thứ 12 (1832) chia đặt tỉnh hạt trong toàn quốc, tách hai phủ Đức Thọ và Hà Hoa
làm tỉnh Hà Tĩnh, phần còn lại làm tỉnh Nghệ An. Năm Tự Đức 6 thứ (1853) tách
phủ Đức Thọ trƣớc thuộc Hà Tĩnh sang Nghệ An. Tỉnh Nghệ An thời Đồng Khánh
giữ nguyên nhƣ đời Tự Đức. [156, tr.1229]. Theo Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX, trấn Nghệ An gồm 5 phủ, 16 huyện, 17 tổng và 1.125 xã: phủ Hà Hoa (huyện
Kỳ Hoa, Thạch Hà), phủ Đức Giang (huyện Thanh Chƣơng, Chân Lộc, Thiên Lộc,
Hƣơng Sơn, La Sơn, Nghi Xuân), phủ Anh Đô (huyện Hƣng Nguyên, Nam Đƣờng),
phủ Diễn Châu (huyện: Quỳnh Lƣu, Đông Thành) và phủ Trà Lân (huyện: Tƣơng
Dƣơng, Vĩnh Hòa, Hội Nguyên, Kỳ Sơn). [150, tr.104].
Địa danh hành chính tỉnh Nghệ An từ ngày 12/8/1991, gồm: 18 đơn vị hành
chính, thành phố Vinh và 17 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Diễn Châu, Đô Lƣơng,
Hƣng Nguyên, Kỳ Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quế Phong, Quỳ Châu,
Quỳ Hợp, Quỳnh Lƣu, Tân Kỳ, Thanh Chƣơng, Tƣơng Dƣơng và Yên Thành. [2,
17


×