Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI CHÍNH CÔNG “Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.49 KB, 27 trang )

Tiểu luận cá nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

LỜI MỞ ĐẦU
Cuối tháng 02/2014, Ủy ban châu Âu (EC) đưa ra dự báo về tốc độ tăng trưởng kinh tế
của các nước trên thế giới, trong đó 28 nền kinh tế thuộc EU dự kiến đạt tốc độ tăng trưởng
trong năm nay là 1,5% và 2% vào năm 2015. Tuy nhiên, “bài toán” nợ công mà 18 nước sử
dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) vẫn đang tìm lời giải, thậm chí các con số nợ công
đang có chiều hướng “phình to” trong năm 2014. Năm 2014 nợ công của Italia đã tăng lên đến
2,07 nghìn tỷ Euro (tương đương 2,84 nghìn tỷ USD), bằng 132,6% GDP năm 2013, so với
127% của năm 2012. Tương tự, tỷ lệ nợ công của Hy Lạp dự kiến tăng lên mức 200% GDP
trong năm 2014 so với 115,2% năm 2007. Trong khi đó, Bồ Đào Nha dự kiến có tỷ lệ nợ công
đạt 134,6% GDP năm 2014 so với mức 75% năm 2007…Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nợ
công đến cuối năm 2014 khoảng 60,3% GDP và dự kiến đỉnh nợ sẽ vào năm 2016 với
khoảng 64,9% GDP. Mặc dù chỉ số trên vẫn được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu
không có một chương trình và kế hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước
ngoài thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra. Nợ công
đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế giới, viễn cảnh của
cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra. Đó cũng là lý do tôi đã chọn chủ
đề : “Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp” làm đề tài tiểu luận cá
nhân của mình.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về nợ công
Chương II: Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Một số giải pháp trong thời gian tới
Dù có nhiều cố gắng nhưng nội dung tiểu luận không tránh khỏi còn nhiều khiếm
khuyết, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn để tiểu luận
được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 1


Tiểu luận cá nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ CÔNG
1. Khái niệm, nguyên nhân và bản chất nợ công
a. Khái niệm:
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận
hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách
nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng
nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn
khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai
bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ
công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia.
Nợ công, theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của
Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ
chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết định hay trên 50% vốn
thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa
hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa
phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Tùy thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng
có sự khác biệt. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm
là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ Chính
phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài nước, được ký kết, phát hành
nhân danh Nhà nước, nhân dân Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết,

phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm
khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa
phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
b. Nguyên nhân:

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 2


Tiểu luận cá nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công quá lớn của Chính phủ. Chi tiêu công
nhằm: Thứ nhất, phân bổ nguồn lực; Thứ hai, phân phối lại thu nhập; Thứ ba, ổn định kinh tế
vĩ mô. Tuy nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho
nền kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều (đặc biệt cho các khoản đầu tư công) so với nguồn thu
có được (từ thuế, phí, lệ phí thu được) sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách buộc Chính phủ phải đi
vay tiền (trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách dẫn đến nợ công. Nợ công
là do sự mất cân đối thu chi và dẫn tới thâm hụt ngân sách. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều trong
khi các nguồn thu không đáp ứng nổi buộc chính phủ phải đi vay tiền thông qua nhiều hình
thức (như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng) và vay tiền trực tiếp từ các ngân
hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế… để bù vào khoản thâm hụt, từ đó dẫn đến
tình trạng nợ.
c. Bản chất của nợ công:
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với

các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của
Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực
tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước
sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay
không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh .
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục
đích: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo
cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia;Hai là, đề đạt được những mục tiêu của
quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa
quan trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công Việt Nam là Nhà nước quản lý
thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để
đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 3


Tiểu luận cá nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế
– xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn
những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng. Ở Việt
Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải

dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi
đó là điều kiện quan trọng nhất.
2. Tác động của nợ công đến nền kinh tế
Bàn về sự tác động của nợ công đến nền kinh tế, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau,
trong đó có hai quan điểm chủ đạo: Quan điểm truyền thống, đại diện là Keynes cho rằng: Khi
chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong
khi mức chi tiêu công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân. Cụ thể
là làm mức tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, tăng sản lượng,
việc làm trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn lại làm cho tiết kiệm quốc gia (national saving)
giảm và kèm theo đó là những hệ lụy khác. Quan điểm của David Ricardo, một nhà kinh tế
người Anh (1772-1832) lại cho rằng mức thuế cắt giảm được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ
không có tác động đến tiêu dùng như quan điểm về nợ truyền thống, kế cả trong ngắn hạn.
Ngược lại, nó sẽ làm các khoản tiết kiệm tư nhân tăng lên bởi người dân đang chuẩn bị cho
mức thuế cao sẽ đến trong tương lai để chi trả lãi và gốc cho các khoản nợ hiện tại. Trong thực
tế, hai quan điểm luôn tồn tại song hành. Vì vậy, để đưa ra nhận định quan điểm nào phù hợp
với từng thời điểm của quốc gia còn phải phụ thuộc vào nhân tố quan trọng, đó là hành vi của
người tiêu dùng.
Xét về mặt tích cực, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ công như là một công
cụ để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia,
khuyến khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế. Giải pháp tăng nợ công để bù
đắp thâm hụt ngân sách do cắt giảm thuế có thể sẽ góp phần kích thích tiêu dùng, tăng sản
lượng, việc làm, tăng tổng sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 4


Tiểu luận cá nhân


GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn cũng là nguyên
nhân khiến cho lãi suất tăng, đầu tư giảm, tiết kiệm giảm và khuyến khích luồng vốn từ nước
ngoài chảy vào, từ đó làm cho sự tăng trưởng sản lượng tiềm năng quốc gia chậm lại. Nợ công
tăng cao, vượt quá giới hạn an toàn sẽ khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức
ép từ bên trong lẫn bên ngoài quốc gia. Cụ thể những tác động này của nợ công đến nến kinh tế
như sau:

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 5


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Thứ nhất, nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân (private saving), dẫn đến hiện
tượng thoái lui đầu tư tư nhân
Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích lũy vốn tư
nhân sẽ được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở hữu trái phiếu chính phủ làm
cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy lãi suất
tăng, chi phí đầu tư tăng và có thể dẫn đến hiện tượng “thoái lui đầu tư” khu vực tư nhân
(crowding-out effect) để làm rõ vấn đề này, chúng ta xét mối quan hệ cung- cầu trên thị
trường tín dụng.
S


i2

E’

i1

E
D1 + D G

D1
O

L1

L2

Tại Biểu đồ 1: Trạng thái cân bằng đầu tiên tại điểm E, tại đó lãi suất là i 1 và tổng
khối lượng quỹ tín dụng của Chính phủ (DG) tăng lên một lượng bằng D G sẽ làm đường
cầu tín dụng của nền kinh tế dịch chuyển từ D1 đến D1+D G. Kết quả là điểm cân bằng
mới của thị trường tại E’. Lãi suất thị trường tăng đến i 2 và lượng tiền cung ứng tăng lên
L2. Lãi suất trên thị trường tăng sẽ làm giảm nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp cho
đầu tư. Nó cũng làm giảm nhu cầu vay của các hộ gia đình để đầu tư hoặc mua sắm các
loại hàng hóa như ô tô, nhà cửa...
Thứ hai, nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia (national saving)
Thu nhập quốc gia (Y) được xác định tương đương với tổng sản lượng quốc dân
(GDP) theo công thức: Y = C + S + T = C + I + G + NX = GDP (1)

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 6



Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Trong đó: Y: thu nhập quốc gia; C: Tiêu dùng tư nhân; S: tiết kiệm tư nhân; T: thuế
trừ đi các khoản thanh toán; I: Đầu tư nội địa, G: Chi tiêu của chính phủ, NX: Xuất khẩu
ròng.
Như vậy: S + (T-G) = I + NX (2) Hay: T- G = I + NX - S (3)
Phương trình (3) chỉ ra rằng, khi ngân sách nhà nước thâm hụt (T-G<0) tức I + NX
< S, như vậy, những khả năng có thể xảy ra là: Tiết kiệm tư nhân (S) tăng, đầu tư nội địa
(I) giảm và xuất khẩu ròng (NX) giảm. Khi chính phủ tăng vay nợ để bù đắp thâm hụt,
chúng ta lần lượt xem xét những khả năng này có thể xảy ra và sự tác động của nó đến tiết
kiệm quốc gia:
(1) Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập luận rằng,
tiết kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm của chính phủ. Tuy
nhiên trong trường hợp này, chúng ta tạm thời giả định tiết kiệm tư nhân tăng ít hơn phần
tiết kiệm của chính phủ giảm, chính vì vậy mà tiết kiệm quốc gia giảm.
(2) Đầu tư nội địa giảm (I): đầu tư nội địa giảm dẫn đến đầu ra là tổng vốn nội địa
giảm. Lượng vốn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên mỗi đồng vốn sẽ cao
hơn, năng suất lao động sụt giảm, từ đó làm giảm mức lương và thu nhập trung bình dẫn
đến giảm tiết kiệm quốc gia.
(3) Xuất khẩu ròng giảm (NX): Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong nước
tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong
nước tăng khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm cho giá của hàng hóa sản xuất trong nước
đắt hơn hàng hóa nước ngoài, trở nên kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, từ đó
giảm xuất khẩu ròng.
Xuất khẩu ròng giảm, đầu tư nước ngoài giảm có nghĩa rằng người dân nội địa sẽ

sở hữu ít vốn nước ngoài hơn. Trong trường hợp này, thu nhập người dân nội địa sẽ giảm,
tiết kiệm quốc gia giảm. Giảm xuất khẩu ròng cũng là một trong những nhân tố dẫn đến
thâm hụt cán cân thương mại.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 7


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Thứ ba, nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân
chính: Do tổng cầu tăng lên hoặc do chi phí đẩy. Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành
trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của chính phủ tăng lên, một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi
suất lên cao.
Khi tăng vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành
và giá bán sản phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ trái phiếu chính phủ cảm
thấy mình trở nên giàu có hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân tăng,
chi tiêu công của chính phủ tăng dẫn đến cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực lạm
phát trong ngắn hạn, từ đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế
(bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Khi chính phủ tăng vay nợ nước ngoài, một dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong
nước có thể giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn, áp lực trả nợ
cả gốc và lãi bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng
chi phí đầu vào khi nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị... dẫn tới nguy cơ lạm
phát. Tỷ giá tăng làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, nếu vượt quá sức chịu
đựng của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.

Thứ tư, nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội.
Dù chính phủ lựa chọn phương án vay nợ trong nước hay vay nước ngoài thì đều có tác
động làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội.
Nếu vay nước ngoài, nguồn để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể lấy từ các khoản thu
thuế. Người dân phải chịu một khoản thuế cao hơn trong tương lai để trả lãi cho các đối
tượng ngoài quốc gia sẽ làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng... từ đó giảm chất lượng
cuộc sống.
Vay trong nước có thể được coi là ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính
công dân nước mình và cũng chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các khoản
chi tiêu công tạo ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị đánh thuế để trả lãi cho chính
họ do đang sở hữu trái phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến cho các hoạt
động kinh tế của người đó bị bóp méo. Dù cho Chính phủ dùng loại thuế nào (thuế thu
nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản…), đánh thuế dưới hình thức nào (trực tiếp, gián tiếp)

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 8


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các hoạt động kinh tế của một cá nhân như thay
đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế vi mô, vĩ mô
khác như: sản xuất, việc làm... Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vô hình chung đã
tạo ra sự phân phối lại thu nhập giữa những người nộp thuế và người sở hữu trái phiếu
chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy giảm về thu nhập,
tiêu dùng hoặc tiết kiệm.

Thứ năm, những tác động khác. Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc
gia với khoản nợ công lớn có thể phải đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như:
Làm thay đổi quy trình quản lý Nhà nước do phải thay đổi chính sách tài chính quốc gia
để trang trải các khoản nợ; làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia; nguy cơ suy giảm
chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị hoặc khả năng lãnh đạo quốc gia... Các quốc gia
phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc phải thắt chặt chi
tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế,
thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế... Ngoài ra, việc lệ thuộc quá
nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong
các mối quan hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
3. Quản lý và đánh giá nợ công
Khi xét đến nợ công, không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả mà
phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ, vấn đề quan trọng phải tính là khả năng trả
nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Hiện nay, tiêu chí
phổ biến để đánh giá mức an toàn của nợ công được áp dụng cụ thể là:
- Giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150%
kim ngạch xuất khẩu. WB đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP.
- Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ
của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn
mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ công/GDP thấp là trong
ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng mạnh
hay yếu của nền kinh tếthông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 9


Tiểu luận cá nhân
Nhân


GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

- Để đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ
nợ/GDP, mà cần phải xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng
hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm
nội địa và mức đầu tư xã hội… Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng
các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được xem xét khi đánh giá bản
chất nợ công, tính bền vững của nợ công. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn
được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và
bên ngoài.
Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ công và bản chất nợ công của nền kinh
tế, quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu
chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý
hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi
dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá
sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn mà không phân
tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng
cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thếnào…, cũng dễ đẩy nền
kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách, tác động tiêu cực đến tăng trưởng.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 10


Tiểu luận cá nhân
Nhân


GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam mở cửa kinh tế được gần 30 năm và đã đạt được những bước phát triển
vượt bậc. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế của Việt Nam nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới, nền kinh tế phụ thuộc nhiều
vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủyếu. Do đó, hiện tại
và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là một
nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính từ các tổ chức đơn
phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế.
a. Chính sách quản lý nợ công
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau nhằm quản lý nợ công ở Việt Nam. Một số Luật liên quan như Luật Quản
lý Nợ công 2009, Luật NSNN (2002),… Bên cạnh đó, đối với hoạt động quản lý nợ công
được điều chỉnh bằng các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định, Quyết định của Chính
phủ vàTTCP như: Nghị định 134/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/11/2005 ban hành
quy chế vay và trả nợ nước ngoài, Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 9/11/2006 của Chính
phủ ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, căn cứ vào
các nghị định này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quy chế hướng dẫn cụ thể về
quy trình, thủ tục đối với từng nghiệp vụ quản lý nợ nước ngoài như phân cấp và quản lý
bảo lãnh Chính phủ, cho vay lại từ nguồn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ, xây
dựng chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng và báo cáo thông tin nợ.
Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động vay nợ nước
ngoài tương đối đồng bộ và đầy đủ thể hiện những quan điểm đổi mới trong quản lý nợ
của Chính phủ phù hợp với Luật NSNN (2002). Khuôn khổ pháp luật và thể chế cho quản
lý nợ công đã có những bước cải thiện đáng kể từ khi Luật Quản lý nợ công (2009) và
Nghị định 79/2012/NĐ-CP hướng dẫn nghiệp vụ quản lý về nợ công ban hành và có hiệu
lực vào 1/1/2013. Vai trò của các thiết chế chủ yếu như Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đã được quy định

rõ từ khâu hoạch định chủ trương đến các khâu cụ thể của quá trình quản lý nợ. Đặc biệt

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 11


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Luật đã quy định rõ Bộ Tài chính có vai trò và trách nhiệm trong quá trình quản lý nợ
công. Điều này đã khắc phục được những hạn chế của những năm trước là vai trò và mối
quan hệ của Chính phủ và cơ quan Chính phủ như BộTài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
NHNN đều chưa rõ. Hơn nữa việc thành lập Cục Quản lý nợ thuộc Bộ Tài Chính là một
bước tiến lớn về mặt thiết chế quản lý, đưa Việt Nam tiến sát với các nước có khuôn khổ
pháp lý và thể chế quản lý vững mạnh trên thế giới.
b. Thực trạng nợ công
Trên thực tế, những năm qua nợ công của Việt Nam tăng nhanh cả về giá trị tuyệt
đối cũng như tỷ lệ nợ công trên GDP. Theo số liệu từ Bộ Tài Chính, quy mô nợ ngày
càng lớn và tăng nhanh trong những năm gần đây. Nếu năm 2006, nợ công khoảng gần
16 tỷ USD chiếm 44,5% GDP, tuy nhiên đến năm 2012, mức nợ đã tăng lên 77 tỷ USD
(5 lần), chiếm 50,8% GDP, năm 2013 chiếm 54, 2%.
Chỉ tiêu
Nợ công so với tổng sản phẩm quốc

2010
56,3


2011
54,9

2012
50,8

2013
54,2

dân (GDP) ( %)
Nợ nước ngoài của quốc gia so với

42,2

41,5

37,4

37,3

GDP (%)
Nghĩa vụ trả nợ trung, dài hạn của

3,4

3,5

3,5

4,3


khẩu hàng hóa và dịch vụ (%)
Dư nợ chính phủ so với GDP (%)
Dư nợ chính phủ so với thu ngân sách

44,6
157,9

43,2
162,0

39,4
172,0

42,3
184,4

(%)
Nghĩa vụ trả nợ của chính phủ so với

17,6

15,6

14,6

15,2

thu NSNN (%)
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu


5,5

6,7

9,8

9,8

NSNN (%)
Hạn mức vay thương mại nước ngoài

2.000,0

3.500,0

3.500,0

2,429.0

quốc gia so với tổng kim ngạch xuất

và bảo lãnh vay nước ngoài của chính
phủ (triệu USD)
Bảng 1: Các chỉ tiêu nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 12



Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Tỷ lệ của nợ công/tổng thu ngân sách nhà nước đã tăng mạnh từ 1,9 lần trong
năm 2011 lên 2,2 lần trong năm 2012, 2,4 lần trong năm 2013, và ước tính trên 3,0 lần
trong năm 2014. Tỷ lệ nợ chính phủ/thu ngân sách Nhà nước cũng có chung xu hướng
khi liên tục tăng từ mức 1,5 lần trong năm 2011 lên tới trên 1,8 lần trong năm 2013, và
ước khoảng 2,4 lần trong năm 2014. Trong khi thu ngân sách được dự báo là sẽ tăng
chậm, khả năng cao là hai tỷ lệ này sẽ còn tiếp tục tăng lên trong những năm tới. Việc
tăng nhanh của quy mô nợ công khiến nghĩa vụ chi trả nợ gốc và nợ lãi cũng ngày càng
nặng hơn. Nghĩa vụ nợ Chính phủ (bao gồm chi trả nợ gốc và nợ lãi) đã tăng gần gấp
đôi trong giai đoạn 2010–2014, từ 87,1 nghìn tỷ đồng trong năm 2010 lên 185,8 nghìn tỷ
đồng trong năm 2013, và dự kiến khoảng 208,9 nghìn tỷ đồng trong năm 2014.
Về cơ cấu nợ, trước năm 2010, nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng khá lớn (hơn 80%)
trong tổng số nợ công, tuy nhiên tỷ lệ này có xu hướng giảm trong các năm 2010 –
2013. Nợ nước ngoài và nợ trong nước của Chính phủ đều tăng, việc phát hành trái
phiếu Chính phủ thành công cùng với việc thu hút vốn ODA từ nước ngoài làm cho tổng
mức nợ của Chính phủ tăng lên trung bình đạt 43% trong 3 năm gần đây .

Hình 1: Nợ công Việt Nam 2003 - 2013
Nợ công bình quân đầu người dân Việt Nam có xu hướng tăng. Cụ thể, năm
2012 nợ công bình quân đầu người dân Việt Nam tính tròn là 720 USD, năm 2013 là

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 13



Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

804 USD, và năm 2014 là 888 USD. Về cơ cấu dư nợ công: tính đến 31/12/2013 thì nợ
Chính phủ chiếm 77,6%, nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 20,9% và nợ chính quyền địa
phương chiếm 1,5%. Xét cơ cấu dư nợ công theo tiêu chí chủ nợ: nợ công ở nước ta chủ
yếu được vay bằng Việt Nam đồng, đồng yên, đồng đô la. Như vậy, cơ cấu dư nợ công
chia theo chủ nợ thì sẽ liên quan nhiều tới tỷ giá, lãi suất.
c. Tình hình trả nợ của Việt Nam
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu
như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên
3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ
9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2013. Nếu so với tổng thu ngân sách nhà nước
thì nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đã là 22,6% trong năm 2013 và ước khoảng 26,7% vào
năm 2014, chính thức vượt ngưỡng 25% đặt ra trong Chiến lược nợ công và nợ nước
ngoài của quốc gia giai đoạn 2011–2020 và tầm nhìn 2030.

2006

2007

2008

2009

2010


2011

2012

2013

Tổng

764.5

885.9

1,103.8

1,290.9

6,547.0

7,485.7

10,215.7

12,346.3

trả

1

0


8

4

7

6

7

Tổng

435.5

504.8

679.49

806.56

4,570.3

5,236.11

6,422.21

7,679.4

trả


1

3

Trả

329.0

381.0

1,976.7

2,249.6

3,793.56

4,666.9

lãi

0

7

3

5

nợ
trong

kỳ

4

nợ
gốc
trong
kỳ
424.39

484.38


HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 14


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

phí
Bảng 2: Tình hình trả nợ của Việt Nam
d. Tình hình quản lý nợ công
Nợ công được đo bằng tỷ lệ phần trăm so với GDP. Nhưng nếu chỉ xét chỉ tiêu tỷ
lệ nợ công/GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng thực chất
vấn đề. Do đó, để đánh giá được hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam, ta sẽ dùng
phương pháp và cơ sở mà WB (2005) áp dụng đánh giá hiệu quả quản lý nợ công cũng

như tình trạng nợ công của các nước nghèo có tỷ lệ nợ cao (HIPCs).
Việc đánh giá tính ổn định và mức độ bền vững của nợ công được thực hiện qua
việc đánh giá các chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu (NPV/X): Đo lường giá trị hiện tại ròng của nợ
nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu xuất khẩu.
Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 150%.
- Tỷ lệ nợ nước ngoài/thu NSNN (NPV/thu ngân sách): Đo lường giá trị hiện tại
ròng của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu
NSNN. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 250%.
- Một quốc gia được xem là an toàn nếu như tỷ lệ NPV/X nhỏ hơn 150%; tỷ
lệ NPV/DBR nhỏ hơn 250%. Theo mức ngưỡng của HIPCs, chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử
dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng
30%; tỷ lệ thu NSNN/GDP (thu ngân sách/GDP) phải lớn hơn 15%.
Từ năm 2004 đến năm 2013, tỷ lệ X/GDP của Việt Nam luôn ở mức cao, trung
bình là 64,28%; trong khi tỷ lệ thu ngân sách /GDP trung bình ở mức 31,75%, thấp nhất
là 22,35% vào năm 2009. Do đó, Việt Nam đáp ứng được hai điều kiện X/GDP 30% và
DBR/GDP 15%. Trong khi đó, tỷ lệ NPV/X 150% (NPV/X thấp, luôn dưới mức 60%)
và NPV/thu ngân sách 250% (NPV/thu ngân sách luôn dưới 150%). Như vậy, nợ công
của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền vững và được đánh giá là vẫn ở ngưỡng
an toàn song nếu xét tính công bằng liên thế hệ về gánh nặng nợ công thì quản lý nợ

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 15


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa


công của Việt Nam còn kém hiệu quả, cần phải được cải thiện tốt hơn nữa trong thời
gian tới.
2. Đánh giá thực trạng nợ công ở Việt Nam
2.1. Những mặt tích cực
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được
chuyển tải vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát
triển kinh tế bền vững. Nhìn chung, việc sử dụng nợ công của Việt Nam trong những
năm vừa qua đã mang lại một số hiệu quả tích cực. Cụ thể như sau:
Một là, nợ công đã đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và
cân đối NSNN. Nợ công giai đoạn 2006 - 2013 là 23%, bù đắp bội chi NSNN khoảng
5% GDP. Ngoài ra, nhiều dự án cơ sở hạ tầng, các chương trình xóa đói giảm nghèo, cải
thiện môi trường, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, các dự án tăng trọng quốc gia...
đều được đầu tư bằng nguồn vốn vay công.
Hai là, các chỉ số nợ công hiện nay nếu theo chiến lược dài hạn và chương trình
nợ công trung hạn thì đang trong giới hạn an toàn.
Ba là, các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và
ưu đãi. Chẳng hạn như các dự án của WB hay ADB thường khoảng 20 - 30 năm, thậm
chí có dự án 40 năm, thời gian ngắn hạn từ 5 đến 10 năm; lãi suất 11 - 12%. Thực tế
khoảng 80% khoản vay là vay ưu đãi nên áp lực nợ công không lớn lắm và có thể nói là
nằm trong tầm kiểm soát được.
Bốn là, cơ cấu đồng tiền vay đa dạng, đặc biệt những năm gần đây tỷ giá đồng
Việt Nam và đồng đô la tương đối ổn định, Nhật Bản nới lỏng chính sách tiền tệ nên
đồng yên yếu đi, Việt Nam sẽ có lợi rất nhiều trong chính sách tỷ giá, giảm thiểu rủi ro.
Năm là, xu hướng giảm tỷ trọng nước ngoài trong cơ cấu Chính phủ với tiêu chí
tỷ trọng hàng năm là nợ trong nước tăng lên và nợ nước ngoài giảm đi.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 16



Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Sáu là, hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, linh hoạt, không chỉ vay từ
các tổ chức tài chính mà hiện nay vay rất nhiều từ các dịch vụ phái sinh và các văn
phòng tài chính khác.
Bảy là, thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công tác quản lý nợ ngày càng
tốt hơn và tiếp cận được thông lệ quốc tế.
2.2. Những hạn chế trong việc sử dụng nợ công
Trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ bùng nổ một cuộc
chiến về tiền tệ trên thế giới thì quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng
quan tâm hàng đầu tại Việt Nam. Vấn đề nợ công của Việt Nam mặc dù được đánh giá là
an toàn nhưng cũng đang tiềm ẩn hàng loạt các mối lo ngại từ quy mô, đến tính an toàn
và khả năng tài trợ nợ công. Rõ ràng, nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi
thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư không ngừng mở rộng kéo
theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt
đỏ và tạo áp lực tín dụng dài hạn. Cụ thể, các rủi ro và yếu kém trong việc sử dụng và
quản lý nợ công có thể được nhắc tới bao gồm:
Một là, nợ công của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh cả nợ trong nước và nợ
nước ngoài với mức bình quân 5-7%GDP/năm. Bản tin nợ nước ngoài của Bộ Tài chính
cho thấy gánh nặng nợ nước ngoài đang ra tăng liên tục cả về quy mô nợ, nợ phải trả,
và điều kiện nợ. Tỷ lệ nợ công Việt Nam hiện chiếm 54,2% GDP năm 2013, mặc dù tỷ
lệ nợ này vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 60% GDP theo cách tính chỉ tiêu tỷ lệ nợ
công/GDP của Liên hợp quốc) nhưng quá cao so với mức phổ biến ở các nền kinh tế
đang phát triển (từ 30% – 40% GDP) và so với một số nền kinh tế mới nổi như Trung
Quốc (17,4% GDP), Inđônêxia (25,6% GDP). Mức nợ công tính trên đầu người của Việt

Nam tăng từ 638,55 USD (năm 2011), lên 698,71 USD (năm 2013) vẫn thấp hơn so
với 817,22 USD (Trung Quốc), 808,52 USD (Inđônêxia), 4.626,4 USD (Malaixia),
1.195,29 USD (Philippin), 2.261.78 USD (Thái Lan). Nhưng so với mức nợ công bình
quân đầu người của Việt Nam xấp xỉ 112 USD (năm 2001) thì mức nợ công đã tăng gấp
6 lần trong một thập kỷ (2001 – 2011). Theo đánh giá của CIA World Factbook, nợ
công Việt Nam đứng ở vị trí 41/50 quốc gia có tỷ lệ nợ công trên đầu người cao nhất
thế giới (năm 2011). Gánh nặng nợ/đầu người đang ngày càng gia tăng. Theo ước tính

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 17


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

với tốc độ tăng nợ công như hiện nay thì sau 5 năm, nợ công Việt Nam sẽ vượt quá
100% GDP và có thể xảy ra khủng hoảng nợ công.
Hai là, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Tình trạng chậm trễ trong giải
ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ diễn ra khá thường
xuyên. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến
độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư
công và trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn,
dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình
quản lý dự án đầu tư.
Ba là, nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững đó là nợ công ngày hôm
nay phải được trả bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Nhưng thực tế tại Việt Nam, thâm
hụt ngân sách đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ”

5% theo thông lệ quốc tế, đe dọa đến tính bền vững của nợ công.
Bốn là, trong thời gian qua, lãi suất và tỷ giá liên tục biến động theo hướng tiền
đồng Việt Nam bị mất giá nên đã tạo ra áp lực lãi suất đối với nợ trong nước và áp lực tỷ
giá đối với nợ nước ngoài. Trong tương lai, các nguồn vay ưu đãi sẽ giảm dần, chi phí
vay nợ sẽ tăng lên do Việt Nam đạt ngưỡng nước cho thu nhập trung bình. Bên cạnh các
khó khăn nội tại, Việt Nam cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, chịu ảnh
hưởng bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tiền đồng Việt Nam bắt đầu mất giá so với
các đồng tiền có sức mạnh khác điều này vô hình chung đẩy giá trị các khoản nợ nước
ngoài của Việt Nam lên cao. Song song với đó, giới đầu tư đã không còn coi Việt Nam
là một điểm đến hấp dẫn như trước nữa. Mặc dù việc tiền đồng mất giá có thể gia tăng
xuất khẩu và cán cân thương mại, nhưng tác động tích cực này không nhiều do Việt
Nam chỉ xuất khẩu những hàng hóa thô với giá cả thấp.
Năm là, khả năng so sánh và giám sát quốc tế về độ an toàn nợ thông qua các chỉ
số giám sát của Việt Nam thấp do hạch toán NSNN chưa được chuẩn hóa và công khai.
Có sự chênh lệch khá lớn về Tỷ lệ nợ công/GDP của Bộ Tài chính và các tổ chức tài
chính quốc tế. Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy vì chúng ta đã bỏ sót 2 tiêu chí tương đối
quan trọng là lương hưu và không thống kế hết các khoản vay được chính phủ bảo lãnh
khi thống kê nợ công.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 18


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Ngoài các khoản thu đưa vào ngân sách, còn một số khoản thu và hơn 20

quỹngoài ngân sách thực hiện các chức năng của chính phủ trong các lĩnh vực phát triển
kết cấu hạ tầng, thực hiện chính sách xã hội, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước,…
Những khoản chi ngoài NSNN đều không được tính vào ngân sách tổng hợp hoặc trong
các tính toán thâm hụt NSNN. Việc chưa tập trung thống nhất thu chi của tất cả các
khoản thu chi công ở một đầu mối cho thấy nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP
thì chưa thấy đầy đủ quy mô cũng như sự mở rộng của chi tiêu công. Ngoài NSNN được
cân đối, đã có một lượng lớn trái phiếu Chính phủ phát hành để đầu tư các công trình
giao thông và thủy lợi, công trái giáo dục được phát hành đã để ngoài cân đối NSNN.
Nếu cộng tất cả các loại trên vào cân đối, thì bội chi trong những năm qua không phải
chỉ là 5% GDP. Việc thống kê ngân sách chưa chuẩn xác dẫn đến rất khó tính toán chính
xác các chỉ tiêu tài chính quan trọng như thâm hụt ngân sách hay ngưỡng nợ công.
Sáu là, thông tin về nợ công không minh bạch. Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã
bước đầu có những thông tin công khai về nợ công. Trong nợ công cũng mới chỉ quan
tâm đến nợ chính phủ nên khó có thể thấy được toàn cảnh vấn đề tài chính công và nợ
công vì khu vực Nhà nước là rất lớn và Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với
khu vực này. Thực trạng này dẫn đến việc khó kiểm soát chính xác quy mô, tính chất
của các khoản nợ. Thông tin không minh bạch làm cho các tổ chức đánh giá tín dụng
quốc tế không có căn cứ để đánh giá thực chất tình hình tài khóa của quốc gia đi vay
nợ, dẫn đến đánh giá không chính xác, quốc gia vay nợ cũng sẽ phải chịu mức chi phí
vay nợ cao. Các bằng chứng cho thấy, các nước có tài khóa minh bạch cũng có chi phí đi
vay thấp hơn bởi vì thị trường có được bức tranh chuẩn xác hơn về các nguy cơ tài
khóa. Hệ số rủi ro xếp hạng tín dụng của Việt Nam còn ở mức cao, lại thêm thanh khoản
thấp, nên khi đi vay bao giờ cũng phải vay với lãi suất cao. Trong khi đó, Inđônêxia và
Philippin có hệ số rủi ro tương đương Việt Nam nhưng họ vẫn được ưu đãi hơn khi đi
vay nhờ tính thanh khoản cao hơn và tích cực hơn trong hợp tác quốc tế. Sự không
minh bạch trong số liệu về nợ công dẫn tới việc không hình thành được cơ chế cảnh báo
sớm, hoặc nếu xây dựng được thì cũng sẽ đưa ra các cảnh báo thiếu chính xác. Thực tế
này dẫn đến nguy cơ nếu xảy ra khủng hoảng nợ thì cuộc khủng hoảng sẽ đến rất đột
ngột, khả năng ứng phó khó kịp thời.


HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 19


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Những phân tích trên cho thấy, Việt Nam đang có nhiều dấu hiệu giống với một số
nước châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công. Đó là: Tăng trưởng kinh tế giảm
kể từ sau khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 đến nay. Thâm hụt ngân sách và nợ công

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 20


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

lớn, có xu hướng tăng nhanh. Lạm phát tăng cao và khó kiềm chế. Cơ cấu nợ công nước
ngoài tăng cao trong khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối/tổng dư nợ ngắn hạn giảm mạnh. Nợ của
khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn nhưng chưa được tính vào cơ cấu nợ công. Việt
Nam đang bị áp lực không được vay các khoản vay ưu đãi lãi suất thấp (như ODA) mà
tiến tới phải vay các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian vay ngắn hơn.

Những yếu tố này khiến nợ công ở Việt Nam có nguy cơ nằm trong vùng rủi ro cao, nhất
là khi nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên thiên
nhiên, thâm dụng lao động, vốn, năng suất lao động thấp. Cho đến nay, nợ công Việt Nam
vẫn chưa vượt ngưỡng an toàn, nhưng trong vài năm tới có khả năng tiếp tục tăng cao và
thiếu bền vững. Nhìn vào định hướng phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam từ nay đến
năm 2020, có thể thấy trong thời gian tới Việt Nam sẽ tiếp tục phải đi vay để bù đắp
những thiếu hụt đầu tư, bởi tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Việt nam hiện nay chỉ là khoảng
27% GDP, trong khi mức đầu tư toàn xã hội đòi hỏi mỗi năm là 42% GDP. Vậy giải pháp
quản lý nợ công như thế nào để giải quyết vấn đề này?
Một là, cần thay đổi cách tính nợ công, trong đó tính cả nợ của các doanh nghiệp
nhà nước được bảo lãnh trong cơ cấu nợ công. Với cách tính mới này, chúng ta mới có thể
tính chính xác số nợ công hiện tại là bao nhiêu, có ở ngưỡng rủi ro cao hay không, từ đó
mới có thể quản lý hiệu quả nợ công.
Hai là, cần thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều
hơn nợ nước ngoài. Nợ trong nước có thể huy động thông qua các đợt phát hành trái phiếu
với lãi suất phù hợp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong người dân. Nếu không thay
đổi được cơ cấu nợ công theo hướng tăng cao nợ trong nước, Việt Nam sẽ rất khó khăn
trong việc trả nợ nước ngoài bởi trong thời gian tới những ưu đãi từ nguồn vốn ODA cho
Việt Nam sẽ giảm mạnh, buộc Chính phủ tiếp tục phải đi vay nợ tại các ngân hàng thương
mại nước ngoài với lãi suất cao và thời gian ngắn hạn hơn rất nhiều. Hơn nữa, việc vay nợ
các ngân hàng nước ngoài rất nguy hiểm nếu gặp những biến động bất lợi về tỷ giá.
Ba là, cần thực hiện kỷ luật tài khóa một cách rõ ràng và nghiêm ngặt để tránh tình
trạng thâm hụt ngân sách triền miên và luôn ở mức cao, gây ảnh hưởng bất lợi đến nợ
công. Kỷ luật tài khóa cần thực thi nhằm giảm thâm hụt ngân sách một cách cứng rắn theo

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 21



Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

lộ trình rõ ràng, chẳng hạn như thâm hụt ngân sách duy trì ởmức 4% từnay đến năm 2020,
duy trì ở mức 3% kể từ sau năm 2020...
Bốn là, phải có những lĩnh vực ưu tiên rõ ràng trong chi tiêu sử dụng nợ công.
Những ưu tiên cần đặt ra là: các cơ sở hạ tầng công ích, các dịch vụ an sinh xã hội, các
doanh nghiệp nhà nước không vì mục đích thương mại. Các doanh nghiệp nhà nước vì thế
cũng cần phải thu hẹp theo hướng: tiếp tục phát triển các doanh nghiệp nhà nước vì lợi ích
công ích và được Chính phủ bảo lãnh, đồng thời bán các doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh thương mại cho nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong nước.
Năm là, cẩn trọng hơn đối với quản lý rủi ro nợ công của khu vực doanh nghiệp
nhà nước. Nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ chính phủ và nợ công đều đang tăng lên rất
nhanh, mỗi bộ phận nợ này có tính chất và cấu trúc khác nhau, đem lại những rủi ro khác
nhau và cần phải có những biện pháp quản lý rủi ro một cách hiệu quả. Để quản lý nợ
hiệu quả, cần phải tính cả nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước để tránh tình trạng một
hoặc vài doanh nghiệp nhà nước mất khả năng trả nợ sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp
nhà nước khác, gây đổ vỡ hàng loạt hệ thống tài chính - ngân hàng do nợ xấu của các
doanh nghiệp, khiến Chính phủ mất khả năng giúp doanh nghiệp trả nợ và dẫn đến tình
trạng vỡ nợ như Hy Lạp và một số nước châu Âu đang gặp phải.
Sáu là, cần xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả. Chế độ kiểm toán rất
cần sự minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao để có thể kiểm soát tốt nợ công của Việt
Nam. Hiện tại, chất lượng đội ngũ kiểm toán nhà nước của Việt Nam còn thấp, chưa đủ
khả năng để đánh giá, phân tích bản chất của nợ công, phân loại nợ công và đánh giá
những tác động có thể xảy ra đối với nợ công. Hơn nữa, việc giám sát chi tiêu của Chính
phủ cũng cần phải được thể chế hóa và bắt buộc thi hành để tránh tình trạng chi tiêu
không đúng mục đích, chi tiêu vượt quá mức cho phép. Luật Ngân sách Nhà nước cũng
cần phải được rà soát lại nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu công. Nếu không có cơ chế

quản lý nợ công hiệu quả, chúng ta không thể đánh giá thấu đáo tình hình tăng trưởng
kinh tế, lượng dự trữ quốc gia là bao nhiêu, nợ công trong nước hay nợ công nước ngoài
đang gặp mối nguy hiểm gì, do vậy nguy cơ vỡ nợ là điều không thể lường trước.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 22


Tiểu luận cá nhân
Nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa

Nhìn chung cho đến nay, quản lý nợ công ở Việt Nam vẫn chưa thực hiện hiệu quả.
Tình trạng nợ công của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng nhanh và theo đánh giá của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế(IMF), đến năm 2015, nợ công của Việt Nam có khả năng là 86,2 tỷUSD, chiếm
65% GDP. Vì vậy, việc triển khai kịp thời các chính sách và biện pháp quản lý nợ công là
một nhiệm vụ quan trọng đối với Chính phủ và các ngành, các cấp để có thể quản lý nợ
công tại Việt Nam một cách an toàn, hiệu quả.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 23


Tiểu luận cá nhân

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27


GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

Trang 24


Tiểu luận cá nhân

GVHD: PGS.TS.Nguyễn Hòa Nhân

KẾT LUẬN
Trong giai đoạn bùng nổ, các chính phủ, dư dả với các nguồn lực tài chính, các thị
trường quá sẵn sàng để vay và đã dễ dàng tăng chi tiêu công. Nhưng khi suy giảm, hoặc xấu
hơn là một cú sốc kinh tế xảy ra, các quốc gia nợ quá nhiều sẽ thấy mình suy kiệt. Thâm hụt tài
chính đột nhiên tăng lên và tín dụng cạn kiệt. Căn cứ vào các phân tích về tính bền vững của nợ
công năm 2014 mà Ngân hàng Thế giới đã thực hiện, Việt Nam vẫn còn thuộc diện có nguy cơ
thấp đối diện với vấn đề nghiêm trọng – nhưng có thể có vài cú va chạm trên đường, vì vậy
Việt Nam cần phải có những điều chỉnh và giải pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề phát
sinh. Để nâng cao hiệu quả quản lý nợ công, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
958/QĐ-TTg, ngày 27/7/2012 về Phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia
giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo đó, mục tiêu của việc quản lý nợ công là
tổ chức huy động vốn vay với chi phí và mức độ rủi ro phù hợp, đáp ứng nhu cầu cân đối ngân
sách nhà nước và đầu tư phát triển triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; việc phân bổ, sử
dụng vốn vay phải đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ; duy trì các chỉ số nợ
công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia ở mức an toàn, đảm bảo an ninh tài chính
quốc gia, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

HVTH: Hoàng Thanh Hòa – KTPT – K27

Trang 25



×