Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.39 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
__________________

HOÀNG TÙNG

NGHĨA VỤ THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

HOÀNG TÙNG

NGHĨA VỤ THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN


HÀ NỘI - năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công
trình nào đã công bố.
Hà Nội, tháng 06 năm 2019
Tác giả

Hoàng Tùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ THANH
TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA ............................. 6
1.1.Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa ................................... 6
1.2. Khái quát về nghĩa vụ hợp đồng .......................................................... 11
1.3. Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua
bán hàng hóa ............................................................................................... 15
1.4. Nội dung của nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa 19
1.5. Thực hiện nghĩa vụ thanh toán và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh
toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa ...................................................... 20
1.6. Vi phạm nghĩa vụ thanh toán và xử lý hành vi vi phạm nghĩa vụ
thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa ............................................ 25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ THANH TOÁN TRONG HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................... 33

2.1 Thực trạng pháp luật về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa ....................................................................................................... 33
2.2. Thực trạng tranh chấp nghĩa vụ thanh toán và thực tiễn giải quyết tranh
chấp về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa .................... 40
2.3 Đánh giá pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ thanh
toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Chương 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................... 59
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa ........ 59
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 61


3.3 Giải pháp hạn chế tranh chấp và nâng cao hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp nghĩa vụ thanh toán trong Hợp đồng mua bán hàng hóa .............. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay, các hoạt động thương mại đang diễn ra rất mạnh mẽ và sôi động.
Đặc biệt, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế
Giới WTO, ký kết và gia nhập hàng loạt các Điều ước quốc tế về thương mại
thế hệ mới trong đó có Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế. Trong
các hoạt động thương mại hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra phổ biến nhất
và đóng vai trò quan trọng. Có thể thấy, trải qua nhiều thế kỷ, trao đổi hàng
hóa là hoạt động chính trong hoạt động thương mại, là cầu nối giữa sản xuất

và tiêu dùng, không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra
các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Việc nắm vững, hiểu rõ các quy
định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ giúp các chủ thể kinh
doanh ký kết và thực hiện hợp đồng được thuận lợi và hiệu quả. Tuy nhiên,
một thực tế là còn khá nhiều thương nhân trong nước tỏ ra lúng túng khi thực
hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá, từ đó dẫn đến những tranh chấp đáng
tiếc xảy ra giữa các thương nhân với nhau trong quan hệ mua bán hàng hoá.
Hoạt động mua bán hàng hóa trong thương mại được thực hiện dưới hình thức
hợp đồng mua bán hàng hóa. Trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa làm
phát sinh các nghĩa vụ hợp đồng trong đó có nghĩa vụ thanh toán.
Thực tiễn cho thấy, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng
hóa chủ yếu từ việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Điều này có nhiều nguyên
nhân trong đó có nguyên nhân từ việc pháp luật về hợp đồng, hợp đồng mua
bán hàng hóa và nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoa còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh kịp thời, toàn diện, đầy đủ các
quan hệ về mua bán hàng hóa đang diễn ra sôi động và phức tạp như hiện nay.
Bên cạnh đó, nhận thức về vai trò, ý nghĩa của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa, nghĩa vụ thanh toán của các thương nhân chưa cao. Chính vì
1


vậy, làm cho pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và nghĩa vụ thanh toán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa chưa đi vào cuộc sống, trong giao dịch
mua bán hàng hóa vẫn còn tiềm ẩn rủi ro cho các bên tham gia quan hệ, chưa
thúc đẩy các giao dịch mua bán hàng hóa phát triển lành mạnh.
Từ thực tiễn đó đặt ra yêu cầu phải bổ sung hành lang pháp lý điều
chỉnh mới hoặc sửa đổi cách thức điều chỉnh tại Luật Thương mại nói chung,
pháp luật về mua bán hàng hóa và nghĩa vụ thanh toán trong mua bán hàng
hóa nói riêng để phù hợp với sự phát triển của các hoạt động này cũng như
mục tiêu quản lý trong giai đoạn mới. Điều này vừa nhằm bảo đảm cơ sở

pháp lý thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền tự do kinh doanh của
công dân trong các ngành, nghề mà luật không cấm, vừa nhằm đảm bảo các
hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra lành mạnh, minh bạch, đảm bảo
cạnh tranh bình đẳng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Để làm được điều
đó cần thiết có những nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về nghĩa vụ thanh toán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt nam hiện nay. Đây là lý do để học
viên lựa chọn đề tài cho Luận văn Thạc sĩ luật học: Nghĩa vụ thanh toán
trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Mua bán hàng hóa là một trong những chế định quan trọng của Luật
Thương mại đã được nghiên cứu nhiều trong khoa học pháp lý Việt Nam. Để
giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, học viên tham khảo các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài ở các cấp độ và phạm vi khác nhau
Nhóm thứ nhất, các nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa. Các tài
liệu này giúp học viên tổng kết, khái quát lý luận làm nền tảng để giải quyết
vấn đề nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Về nội dung
này có các công trình sau đây:

2


Sách Tìm hiểu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và đại diện
thương mại, TS Nguyễn Am Hiều- Ths Quản Thị Mai Hương, NXH Đà Nẵng
năm 2000; PGS.TS Nguyễn Như Phát- ThS Ngô Huy Cương, Những khác
biệt giữa Luật Thương mại Việt Nam và chế định pháp luật thương mại các
nước; PGS. TS. Nguyễn Như Phát ( chủ biên),

Một số vấn đề lý luận và


thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”; Sách “ Chuyên khảo
Luật Kinh tế” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, “ Pháp luật thương mại về mua
bán hàng hoá - Thực trạng và nhu cầu hoàn thiện” của Ths. Đặng Quốc
Tuấn, “ Các chế định cụ thể về các loại hành vi thương mại nên được xử lý
như thế nào trong Luật Thương mại sửa đổi và phương pháp điều chỉnh” của
PGS. TS. Mai Hồng Quỳ; Luận văn “Hợp đồng mua bán hàng hóa từ lý
thuyết đến thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH IPC” của tác giả Phạm Thị
Lan Phương – Đại học Kinh tế Quốc dân; luận văn“Hợp đồng mua bán hàng
hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần hóa dầu Petrolimex” của tác giả
Vũ Phương Huyền; Luận văn “Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt
đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của tác giả Dương Bảo Trân – Đại học Cần
Thơ... Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về thực hiện HĐMBHH. Tuy nhiên, cho đến nay
các công trình nghiên cứu trên đều chưa tập trung đánh giá thực tiễn việc thực
hiện hợp đồng này cũng như chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả của việc ký kết cũng như thực thi HĐMBHH. Đây là vấn
đề cấp thiết đặt ra trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ
thống pháp luật kinh tế nói riêng ở nước ta.
Nhóm tài liệu thứ hai, bao gồm các công trình nghiên cứu về nghĩa vụ
dân sự. Trong nhóm này kể đến các công trình tiêu biểu như: Bình luận khoa
học Bộ luật dân sự 2015 do PGS.TS Nguyễn Văn cừ- PGS TS trần Thị Huệ
chủ biên; Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự- Bản
án và Bình luận bản án của PGS.TS Đỗ Văn Đại, NXB Chính trị quốc gia
2012; Nghĩa vụ dân sự và quan niệm về nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam của
3


PGS.TS Ngô Huy Cương trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2008; Nguồn
gốc nghĩa vụ và phân loại nghĩa vụ của TS Ngô Huy Cương đăng trên Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2008; Một số vấn đề cơ bản về nghĩa vụ dân

sự, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thái Mai bảo vệ tại Đại học Luật
Hà Nội năm 1998…
Liên quan nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng MBHH, ở Việt Nam có
rất ít các công trình nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu tập trung vào
nghiên cứu thanh toán toán dưới góc độ kinh tế học. Nghĩa vụ thanh toán
trong hợp đồng MBHH chủ yếu được đề cập trong các công trình nghiên cứu
về hợp đồng MBHH như là một điều khoản chủ yếu của hợp đồng hoặc trong
các giáo trình, sách bình luận Bộ luật dân sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật
về nghĩa vụ thanh toán trong HĐMBHH
Để đạt được mục đích đó, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm nghĩa vụ thanh toán đặc điểm, nội dung và thực
hiện nghĩa vụ thanh toán trong HĐMBHH
- Phân tích quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải
quyết các tranh chấp về nghĩa vụ trong HĐMBHH ở Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp
luật về nghĩa vụ thanh toán trong HĐMBHH
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện pháp luật về nghĩa vụ thanh toán trong HĐMBHH
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào các khía cạnh pháp
lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật về nghĩa vụ thanh toán trong
HĐMBHH. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, luận văn đưa ra những đề
xuất cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về nghĩa vụ thanh toán trong HĐMBHH ở Việt nam
4


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Được sử dụng Luận văn, sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học
Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra,
trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau:
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra,
luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu phổ dụng trong khoa
học xã hội như: phương pháp thống kê, khảo sát; phương pháp so sánh, đối
chiếu pháp luật; phương pháp phân tích, tổng hợp… nhằm làm sáng tỏ những
vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp mới của Luận văn
Luận văn có đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, bổ sung lý luận về mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán
hàng hóa bằng việc làm rõ khái niệm, đặc điểm của mua bán hàng hóa và
HĐMBHH
Thứ hai, đưa ra được khái niệm, đặc điểm, nội dung của nghĩa vụ
thanh toán trong HĐMBHH và thực hiện nghĩa vụ thanh toán
Thứ ba, đề xuất các giải pháp và luận giả tính khả thi của các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ thanh toán và nâng cao hiệu quả thực
hiện nghĩa vụ thanh toán trong HĐMBHH ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn có 3 chương được kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ thanh toán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa
Chương 2 : Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật
về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ THANH TOÁN
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1 Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa
Mua bán hàng hóa là một trong những hoạt động thương mại. Xét dưới
góc độ kinh tế, mua bán hàng hóa là hình thức luân chuyển hàng hóa trên thị
trường theo đó hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua theo các
quy luật của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh.. Dưới góc độ pháp luật mua bán hàng hóa là sự dịch chuyển tài sản,
quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác. Bản chất của mua bán hàng
hóa là việc người bán chuyển giao tài sản, quyền sở hữu tài sản cho người
mua và nhận tiền còn người mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán, nhận
tài sản và quyền sở hữu tài sản theo thỏa thuận. Mua bán hàng hóa khác với
các hình thức luân chuyển hàng hóa khác như cho thuê, giao nhận. Trong
quan hệ thuê tài sản cũng có sự chuyển giao hàng hóa nhưng việc thuê tài sản
chỉ là sự chuyển giao tài sản, quyền sử dụng, chiếm hữu tài sản từ bên cho
thuê sang bên thuê mà không chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu tài sản. Mua
bán hàng hóa khác với hoạt động giao nhận hàng hóa vì người làm dịch vụ
giao nhận hàng hóa chỉ thực hiện chức năng trung gian, theo đó bên làm dịch
vụ giao nhận hàng hóa từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi và
các hoạt động khác để giao hàng hóa cho bên nhận.
Bên cạnh đó, cần phân biệt mua bán hàng hóa (sale of goods) với khái
niệm thương mại hàng hóa (trade in goods). Theo quy định tại Luật mẫu về
trọng tài thương mại quốc tế (UNCITRAT), thương mại hàng hóa bao gồm:
cung cấp trao đổi hàng hóa, dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện hoặc đại lý
thương mại, sản xuất, cho thuê, xây dựng công trình, tư vấn, thiết kế kỹ thuật,
licence, đầu tư, cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm, vận chuyển hàng hóa…. Như
6



vậy, thương mại hàng hóa rộng hơn mua bán hàng hóa. Theo hiệp định
Thương mại WTO và hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) thì
thương mại hàng hóa chia làm 4 nhóm chính: Thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ và các hoạt động đầu tư
có tính chất thương mại. Ngoài ra theo WTO và BTA còn có các hoạt động
gắn liền với thương mại hàng hóa.
Phân loại mua bán hàng hóa căn cứ vào yếu tố địa lý: mua bán hàng
hóa quốc tế và trong nước. Căn cứ vào phương thức mua bán, thực hiện hợp
đồng: mua bán trực tiếp và mua bán thông qua các công cụ trung gian.
Quan điểm của các nhà lập pháp Việt Nam về mua bán hàng hóa thể
hiện trong Luật Thương mại 2005 là tiếp thu quan điểm của Luật mẫu về
trọng tài thương mại (UCITRAL). Theo đó, “mua bán hàng hóa được định
nghĩa là “hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển hàng, chuyển quyền sở hữu và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ
thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận.”
Mua bán hàng hóa là một quan hệ dân sự phổ biến nhất trong các giao
dịch dân sự . Mua bán hàng hóa là một quan hệ pháp luật được xác lập và
thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Chính
vì vậy, quan hệ này trước hết được điều chỉnh bởi luật gốc là luật dân sự, quy
định về hợp đồng dân sự. Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng dân sự
nên nó phải đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Cụ thể là
hợp đồng mua bán tài sản ở các điều kiện về gia kết hợp đồng, điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu….Tuy
nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa có đặc điểm khác với hợp đồng dân sự,
hợp đồng mua bán tài sản. Sự khác biệt này do xuất phát từ bản chất thương
mại của hành vi mua bán hàng hóa.

7



Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua
bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân hoặc ít
nhất một bên tham gia quan hệ hợp đồng là thương nhân. Mỗi quốc gia trên
thế giới đều có những tiêu chí về thương nhân không giống nhau. Bộ Luật
thương mại Pháp 1807 (Bộ luật thương mại đầu tiên trên thế giới) định nghĩa
thương nhân: Thương nhân là những người thực hiện các hành vi thương mại
và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mình” . Theo đó, thương
nhân bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Thương nhân là cá nhân được xác
định theo bản chất của hành vi, còn thương nhân pháp nhân được xác định
bằng hình thức của chúng.
Pháp luật Hoa Kỳ đặc tính của thương nhân là buôn bán hàng hóa, có
kiến thức và kỹ năng đặc biệt cho việc hành nghề hoặc tiến hành các giao dịch
mua bán hàng hóa; hoặc có kiến thức và kỹ năng sử dụng đại lý, môi giới,
trung gian khác mà có kiến thức hoặc kỹ năng mua bán hàng hóa.
Theo Khoản1, Điều 6, Luật Thương mại Việt Nam, Thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân theo
pháp luật Việt Nam cần phải tồn tại dưới các hình thức: Cá nhân, pháp nhân
(trước đây có thêm hộ gia đình tổ hợp tác và doanh nghiệp tư nhân). Để trở
thành thương nhân có điều kiện thứ hai nếu các cá nhân, pháp nhân có tiến
hành các hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Bên cạnh đó,
thương nhân phải có hoạt động thương mại độc lập. Tính độc lập của hoạt
động thương mại thể hiện ở việc chủ thể tự chịu trách nhiệm trực tiếp cho các
hành vi của mình, có quyền tự quyết định nội dung hoạt động, thời gian hoạt
động của mình. Ngoài ra, thương nhân cần phải có hoạt động thương mại
thường xuyên, có nghĩa là các chủ thể tiến hành các hoạt động thương mại
8



trên cơ sở một kế hoạch lâu dài, mật độ nhiều lần , lấy hoạt động thương mại
là nghề nghiệp chính. Điều kiện cuối cùng được coi là điều kiện về hình thức
hay điều kiện đủ của thương nhân là họ phải có đăng ký kinh doanh bao gồm cả
điều kiện để được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Dưới
góc độ kinh tế, hàng hóa được hiểu là một sản phẩm mà nó có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người và nó được làm ra để bán chứ không phải để
tiêu dùng. Hàng hóa theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con
người tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu của con
người. Dưới góc độ pháp luật thương mại, hàng hóa là đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa được hiểu là tài sản bao gồm hai thuộc tính cơ bản là
có thể đưa vào lưu thông và có tính chất thương mại. Trong khi đó, . Điều 2
Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)
1980 (công ước Viên) nhấn mạnh tính chất và mục đích thương mại của hợp
đồng mua bán hàng hóa bằng việc loại trừ hàng hóa dùng cho cá nhân, gia
đình, hàng hóa bán đấu giá, tài sản thi hành án hoặc theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyên; các cổ phiếu, cổ phần, chứng chỉ đầu tư, các
công cụ chuyển nhượng hoặc tiền; tàu bay, tàu thủy và các phương tiện chạy
trên không khí; điện.
Theo Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) thì hàng hóa là
mọi vật là động sản bao gồm cả hàng hóa hiện có và hàng hóa trong tương lai.
Không đưa ra định nghĩa hàng hóa mà chỉ dùng phương pháp loại trừ
bằng việc quy định:
Theo Khoản 2, Điều 3,Luật thương mại Việt Nam hiện hành, hàng hóa
là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những
vật gắn liền với đất đai.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ mua bán.Theo đó, hợp đồng mua

9


bán hàng hóa là hợp đồng song vụ, hợp đồng có đền bù theo cách phân loại
hợp đồng dân sự. Quyền của bên bán là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua,;
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và thanh toán cho bên bán. Hành vi mua
bán hàng hóa có tính chất thương mại với mục đích của các bên là tìm kiếm
lợi nhuận. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa được pháp luật điều
chỉnh khác nhau. Bộ luật thương mại chung Hoa Kỳ (UCC) chỉ yêu cầu thỏa
thuận bắt buộc trong hợp đồng đối tượng của hợp đồng, còn quyền, nghĩa vụ các
bên mặc nhiên được viện dẫn đến tập quán thương mại để giải quyết. Trong khi
đó các nước Civil law yêu cầu thỏa thuận rõ quyền, nghĩa vụ của các bên và các
nội dung khác của hợp đồng như giá cả, phương thức thanh toán.
Thứ tư, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thiết
lập bằng nhiều hình thức khác nhau. Bộ nguyên tắc UNIDROIT không bắt
buộc hợp đồng, tuyên bố hay hành vi nào khác phải được giao kết hay chứng
minh bằng một hình thức đặc biệt. Chúng có thể được chứng minh bằng bất
kỳ cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng. Hợp đồng thương mại có thể xác
lập bằng văn bản, bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, ở một số nước
không sử dụng Bộ nguyên tắc UNIDROIT thì đối với những trường hợp bắt
buộc bằng văn bản thì hợp đồng thương mại phải được xác lập bằng văn bản.
Thông thường các hợp đồng thương mại được xác lập bằng văn bản để đảm
bảo sự an toàn và dễ giải quyết khi xảy ra tranh chấp, nhưng đối với những
hợp đồng đơn giản, việc mua bán cần diễn ra nhanh chóng thì các bên có thể
xác lập hợp đồng bằng lời nói hoặc bằng một hành vi cụ thể. Như vậy việc
xác định hình thức của hợp đồng như thế nào là tùy thuộc vào sự thỏa thuận
của các bên. Tuy nhiên đối với một số hợp đồng mà pháp luật qui định phải
bằng hình thức văn bản thì các bên phải xác lập hợp đồng bằng văn bản,
chẳng hạn như: hợp đồng cung ứng dịch vụ (Điều 74 LTM 2005), hợp đồng

nhượng quyền thương mại ( Điều 285 LTM 2005).
10


Thứ năm, hợp đồng mua bán hàng hóa được điều chỉnh bởi pháp luật
dân sự với tư cách là luật gốc và các quy định của pháp luật thương mại trong
nước và quốc tế.
Từ các phân tích trên có thể đưa ra khái niệm hợp đồng mua bán hàng
hóa như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động
mua bán hàng hóa mà trong đó người bán chuyển giao hàng hóa, quyền sở
hữu hàng hóa cho người mua và người mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa,
quyền sở hữu và thanh toán cho người bán dựa trên thỏa thuận của các bên.
1.2 Khái quát về nghĩa vụ hợp đồng
Nghĩa vụ “obligation” có nguồn gốc từ danh từ “obligatio” của tiếng
Latinh được giải thích về mặt tiền điển là trách nhiệm, bổn phận phải làm
theo đúng chuẩn mực của cộng đồng. Nghĩa vụ tự nhiên thuộc phạm trù đạo
đức và lương tâm của người thực hiện nghĩa vụ đó. Nghĩa vụ này không phát
sinh hiệu lực pháp lý, không được đặt dưới sự bảo đảm của nhà nước bằng
pháp luật nhưng thể hiện ý thức của cá nhân trong cộng đồng. Trong pháp
luật, nghĩa vụ không được hiểu theo nghĩa tự nhiên mà được hiểu là một quan
hệ xã hội phát sinh giữa người với người khi các chủ thể tham gia vào quan
hệ xã hội, quan hệ pháp luật. “Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật được xác
lập giữa hai chủ thể theo đó một chủ thể (chủ thể quyền – người có quyền) có
quyền yêu cầu chủ thể kia (chủ thể nghĩa vụ – người có nghĩa vụ) phải hoàn
thành một yêu cầu nhất định”. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực của đời sống dân sự trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng
giữa các chủ thể, trong các quan hệ đó có quan hệ pháp luật dân sự về nghĩa
vụ còn gọi là quan hệ nghĩa vụ. Do đó, nghĩa vụ dân sự là một chế định quan
trọng của luật dân sự thuộc dòng họ civil law bên cạnh các chế định như tài
sản, quyền sở hữu, hợp đồng…. Thậm chí, có quan điểm cho rằng: Nghĩa vụ

là một tiểu phân ngành quan trọng của luật dân sự. Nếu phân biệt giữa luật

11


dân sự và luật thương mại, thì luật nghĩa vụ là nền tảng đầy chất lý luận của
luật thương mại.
Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự có đầy đủ tính chất
của quan hệ pháp luật như có chủ thể, khách thể, đối tượng của quan hệ, được
điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật và phát sinh khi có các sự kiện pháp lý.
Cơ sở của nghĩa vụ dân sự mang tính khách quan. Trước hết xuất phát từ quan
hệ tất yếu giữa người với người trong xã hội xuất phát từ luận điểm nổi tiếng
của Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”. Con người là thực thể tự nhiên- xã hội. Để mang tính
chất xã hội con người phải tham gia vào các quan hệ xã hội hướng đến các lợi
ích khác nhau. Để thỏa mãn lợi ích đó, con người phải không ngừng trao đổi,
mua bán, hợp tác, liên kết với nhau theo các quy luật khách quan và các quy
định, luật lệ của cộng đồng. Quan hệ giữa người và người trong xã hội đó
chính là nguồn gốc khách quan của quan hệ nghĩa vụ. Quan hệ nghĩa vụ còn
có tính chủ quan đó chính là vấn đề tự do ý chí của con người trong khi tham
gia vào các quan hệ xã hội. Sự tự do ý chí làm tiền đề để con người cân nhắc,
lữa chọn cho mình cách xử sự có lợi cho mình và phù hợp với lợi ích chung
của xã hội. Chính điều đó lý giải không có tự do ý chí thì không phát sinh
hoặc không ai phải gánh chịu nghĩa vụ. Tính chất chủ quan của nghĩa vụ với
tư cách là một quan hệ pháp luật thể hiện ở chỗ con người luôn đặt ra các quy
tắc luật lệ về nghĩa vụ để các thành viên thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do
của người này không ảnh hưởng tới tự do người khác.
Cũng từ tính chất chủ quan nên quan niệm về nghĩa vụ dân sự không
giống nhau giữa các trường phái pháp luật cũng như pháp luật thực định của
mỗi quốc gia. Nghĩa vụ dân sự xuất phát từ các luật gia La mã. Họ quan niệm

rằng, nghĩa vụ là những ràng buộc về pháp lý, theo đó, chúng ta buộc phải
thực hiện một việc gì đó phù hợp với pháp luật của nhà nước hoặc “bản chất
của nghĩa vụ không phải để làm một cái gì đó, hoặc thực hiện một dịch vụ

12


nào đó cho chúng ta mà để ràng buộc một ai đó đã đưa, phải làm, phải cấp
cho chúng ta một cái gì đó” (Luật gia Pavel).
Tiếp thu di sản pháp lý của luật La Mã,, về sau các nước Civil Law
chịu ảnh hương sâu sắc của Luật la mã đã dựa vào đó, quy định nghĩa vụ dân
sự trong pháp luật thực định của mình. Điều 201 Bộ luật dân sự Pháp định
nghĩa: “Nghĩa vụ là một mối quan hệ pháp lý theo đó một người, được gọi là
trái chủ, có thể sử dụng phương cách cưỡng chế của quyền lực công theo sự
lựa chọn của anh ta để buộc người khác, người thụ trái xác định, chuyển giao
tài sản, làm hoặc không làm việc gì đó. Điều 241, Bộ Luật Dân sự Đức nhấn
mạnh bản chất của nghĩa vụ là quyền yêu cầu của trái chủ đối với bên kia :
Hiệu lực của nghĩa vụ là việc trái chủ có quyền yêu cầu sự thực hiện từ người
thụ trái. Sự thực hiện này có thể bao gồm việc không hành động”.
Trong cuốn “Việt Nam dân luật lược khảo – Quyển II: Nghĩa vụ và khế
ước”, Vũ Văn Mẫu định nghĩa: “Nghĩa vụ là mối liên hệ pháp lý giữa hai
người, nhờ đó một người là trái chủ (hay chủ nợ) có quyền đòi người kia là
người phụ trái (hay con nợ) phải thi hành một cung khoản có thể trị giá bằng
tiền”.
Điều 280 Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam tiếp cận nghĩa vụ theo
hướng là quan hệ pháp luật (quan hệ nghĩa vụ) bằng định nghĩa Nghĩa vụ là
việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa
vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực
hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Qua định

nghĩa này cho thấy các yếu tố cấu thành lên quan hệ pháp luật về nghĩa vụ
bao gồm:
- Về chủ thể, định nghĩa này đã nhắc tới các bên trong quan hệ nghĩa
vụ đó là bên có quyền và bên có nghĩa vụ luôn được xác định cụ thể trong đó
bên có quyền, và bên có nghĩa vụ trái ngược nhau về mặt lợi ích: một bên có
13


quyền yêu cầu và một bên khác (bên có nghĩa vụ) phải thực hiện yêu cầu của
bên kia. Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ là cá nhân hoặc pháp nhân đủ điều kiện
tham gia quan hệ pháp luật về nghĩa vụ. Định nghĩa này cũng chỉ ra hành vi
của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ bao gồm hành vi hành động “phải
làm” và không hành động “không được làm” một công việc vì lợi ích của
người khác.
- Khách thể của quan hệ nghĩa vụ là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần
mà các bên trong quan hệ nghĩa vụ hướng tới được xác định thông qua hành vi
thực hiện nghĩa vụ nhất định của bên mang nghĩa vụ đối với bên mang quyền.
- Nội dung của quan hệ pháp luật nghĩa vụ là các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ. Nội dung của nghĩa vụ là tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Nội dung
của nghĩa vụ do các bên thoả thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức
xã hội được pháp luật bảo đảm thực hiện. Nội dung của nghĩa vụ có thể thoả
thuận: mang tính linh hoạt và phù hợp với các bên. Khi thoả thuận nội dung
các bên chủ thể cần lưu ý: luôn phải xác định đối tượng, phạm vi cụ thể để có
căn cứ pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ các bên đến mức độ nào (thực hiện
đến đâu, không thể thực hiện được hay không thể thực hiện được). Từ đó xét
yêu tố lỗi vì lý do lỗi của một bên, lỗi của bên thứ ba hay sự kiện bất khả
kháng và xác định trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ cụ thể. Quyền
và nghĩa vụ dân sự trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ dân sự thể hiện:
quyền yêu cầu và nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu. Bên có quyền yêu cầu bên có

nghĩa vụ thực hiện, nếu đã yêu cầu trực tiếp mà không thực hiện thì bên có
quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bên có nghĩa vụ
phải thực hiện.
Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự:
- Nghĩa vụ dân sự là một loại quan hệ pháp luật bởi nó được pháp luật
công nhận và có giá trị cưỡng chế. Quan hệ này được phát sinh từ những sự
14


kiện mà pháp luật đã dự liệu. Có những sự kiện làm hình thành, quyền và
nghĩa vụ của các bên được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
- Là một quyền đối nhân bới nó chỉ được thi hành đối với người có
nghĩa vụ. Có nghĩa là quyền của chủ thể mang quyền được thực hiện bằng
hành vi của bên kia. Việc chuyển giao nghĩa vụ không được tự do như chuyển
giao quyền đối vật mà phải tuân theo điều kiện nhất định.
- Quyền và nghĩa vụ của hai bên chủ thể đối lập nhau: Trong nghĩa vụ
dân sự: quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia. Bên có quyền bao nhiêu
thì bên có nghĩa vụ tương ứng.
- Có tính chất tài sản: Bởi vì nghĩa vụ có thể trị giá bằng tiền. Chuyển
giao tài sản, thực hiện một công việc hay không thực hiện một công việc đều
có giá trị nhất định. Khi có giá trị có nghĩa là có tính chất tài sản. Tính chất
này có thể nhìn nhận rõ hơn khi đối chiếu vào việc bồi thường thiệt hai khi
không thực hiện đúng nghĩa vụ
Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự tương đối do vậy nó
cũng có những căn cứ phát sinh, căn cứ làm thay đổi và chấm dứt quan hệ
nghĩa vụ theo thỏa thuận hợp pháp hay theo quy định của pháp luật. Việc xác
lập quan hệ nghĩa vụ do ý chí chủ quan của các chủ thể, việc hình thành quan
hệ nghĩa vụ nghĩa vụ còn do pháp luật quy định căn cứ vào sự kiện pháp lý
làm phát sinh nghĩa vụ. Có căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ, mới có quan hệ
nghĩa vụ dân sự. Việc thực hiện nghĩa vụ đến đâu, nghĩa vụ được thực hiện ở

mức độ nào, còn tuỳ thuộc vào hành vi pháp lý của các bên trong quan hệ
nghĩa vụ. Đó cũng là căn cứ để xác định hành vi thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa
vụ dân sự hoặc hành vi xâm phạm quan hệ nghĩa vụ dân sự.
1.3 . Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ thanh toán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa
Để làm rõ nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa cần
làm rõ khái niệm thanh toán dưới góc độ kinh tế học. Thanh toán là sự chuyển
15


giao tài sản của một bên (người hoặc công ty, tổ chức) cho bên kia, thường
được sử dụng khi trao đổi sản phẩm hoặc dịch vụ trong một giao dịch có ràng
buộc pháp lý. Sự trao đổi hàng hóa giữa các chủ thể trong xã hội hình thành
nên các giao dịch mua bán, trao đổi hàng hóa. Sau khi xác lập quan hệ mua
hàng hóa sẽ xuất hiện quan hệ việc nhận tiền hay thanh toán tiền hàng giữa
hai bên. Thanh toán bằng phương thức nào, cách thức ra sao giữa các bên
hình thành nên hoạt động thanh toán trong thương mại. Như vậy, cơ sở của
hoạt động thanh toán là quan hệ mua bán tài sản, hàng hóa giữa các bên.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa: thanh toán là việc thực hiện
nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt
động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân với nhau, thông qua các
phương thức, hình thức nhất định. Như vậy, thanh toán có hai loại thương
mại và phi thương mại, thanh toán trong mua bán hàng hóa là loại thanh
toán thương mại.
Quan hệ thanh toán trong mua bán hàng hóa dựa trên giá cả hàng hóa
mà hai bên thỏa thuận. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá,
nghĩa là số lượng tiền phải trả cho hàng hoá đó. Về nghĩa rộng đó là số tiền
phải trả cho một hàng hoá, một dịch vụ, hay một tài sản nào đó. Giá cả của
hàng hoá nói chung là đại lượng thay đổi xoay quanh giá trị
Phương thức thanh toán là cách thức, phương pháp thực hiện nghĩa vụ

về tài sản. Phương thức thanh toán có thể thực hiện bằng hình thức trả bằng
tiền mặt, bằng séc, thư tín dụng, thanh toán bằng vật, có thể trả một lần hoặc
thành nhiều lần, trả trực tiếp hoặc gián tiếp; hoặc theo sự thỏa thuận của các
bên, trừ trường hợp phải theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thanh toán trong mua bán hàng hóa bao gồm thanh toán mua bán hàng
hóa trong nước và thanh toán mua bán hàng hóa quốc tế.
Khi các bên xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ làm xuất hiện quan
hệ về nghĩa vụ thanh toán. Nếu như giao hàng hóa đối tượng của hợp đồng
16


mua bán hàng hóa được xem là nghĩa vụ cơ bản và quan trọng nhất của bên
bán thì nghĩa vụ thanh toán được xem là nghĩa vụ cơ bản của bên mua. Chỉ
khi nào các nghĩa vụ này của hai bên được thực hiện đúng và đầy đủ thì
quyền và lợi ích của các bên mới được đảm bảo.
Về nguyên tắc, bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa
điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng. Thời điểm thanh toán tiền là
thời điểm mà bên mua phải chuyển tiền sang cho bên bán. Thời hạn trả tiền
được xác định theo thoả thuận giữa các bên. Các bên có thể thoả thuận bên
mua thanh toán trước hoặc sau khi nhận tài sản. Thời hạn thanh toán tiền có
thể được xác định theo một đơn vị thời gian cụ thể là ngày, tháng, năm hoặc
xác định theo một sự kiện cụ thể.
Địa điểm thanh toán là nơi diễn ra việc trả tiền giữa bên mua và bên
bán. Các bên có thể thoả thuận địa điểm thanh toán tiền là nơi cư trú hoặc trụ
sở của bên bán hay bất kỳ một nơi nào khác. Phương thức thanh toán theo
truyền thống là bên mua trực tiếp trả tiền cho bên bán tại một địa điểm cụ thể.
Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học-công nghệ nên ngày càng có nhiều
phương thức thanh toán mới, hiện đại xuất hiện. Một trong những phương
thức thanh toán được áp dụng phổ biến hiện nay là thông qua chuyển khoản
ngân hàng. Chính vì vậy, hiện nay gây ra vấn đề tranh cãi trong việc xác định

địa điểm thanh toán. Có ý kiến cho rằng địa điểm trả tiền đối với phương thức
thanh toán thông qua chuyển khoản là nơi tiền được chuyển đi. Tuy nhiên có
nhiều quan điểm lại không đồng ý với ý kiến này và cho rằng nơi thực hiện
việc trả tiền là địa điểm khoản tiền được chuyển đến.
Mức tiền là số tiền mà bên mua phải thanh toán cho bên bán. Mức tiền
phụ thuộc vào giá tiền mà các bên thoả thuận trong hợp đồng. Nếu các bên
không thoả thuận về mức tiền thì giá mua bán được xác định theo quy định
của pháp luật.

17


Trước đây, Điều 438 bộ luật Dân sự năm 2005 quy định bên mua phải
trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận; nếu không có thoả
thuận thì phải trả đủ tiền vào thời điểm và địa điểm giao tài sản. Bên mua phải
trả lãi, kể từ ngày chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật
này, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như
vậy, bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định trường hợp nếu không có thoả
thuận vào thời điểm và địa điểm trả tiền thì phải trả đủ tiền vào thời điểm và
tại địa điểm giao tài sản mà không có quy định về trường hợp các bên chỉ có
thoả thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền. Bộ luật Dân sự
năm 2015 đã khắc phục được hạn chế này khi quy định “Trường hợp các bên
chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng
được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên không có
thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền thì bên mua
phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tài sản”.
Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả
lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo đó, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với khoản
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Như vậy, ngoài việc thanh

toán khoản tiền thuộc về nghĩa vụ chính là tiền mua hàng thì bên chậm thực
hiện nghĩa vụ trả tiền còn phải trả một khoản lãi tính trên giá trị của khoản
tiền chậm trả đó. Khoản lãi này thực chất là trách nhiệm bồi thường những
tổn thất do việc chậm trả gây ra và được tính dựa trên mức lãi suất chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về nghĩa vụ thanh toán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa như sau: Nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng
mua bán hàng hóa là quan hệ pháp luật trong đó bên mua phải chuyển giao
tiền, tài sản cho bên bán trên cơ sở giá cả hàng hóa mà hai bên thỏa thuận
trong hợp đồng mua bán hàng hóa bằng các phương thức khác nhau.
18


Ngoài những đặc điểm chung của nghĩa vụ dân sự, nghĩa vụ thanh toán
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, cơ sở để phát sinh nghĩa vụ thanh toán là hợp đồng mua bán
hàng hóa. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, có điều khoản không thể thiếu
mang tính chất bắt buộc là giá cả hàng hóa và nghĩa vụ thanh toán. Trong
đó, các bên thỏa thuận về giá cả, đồng tiền thanh toán, thời hạn, địa điểm
thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán…Bên mua phải
thực hiện đúng những nội dung này theo thỏa thuận. Trương hợp các bên
không thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng thì sẽ áp dụng các quy định của
Luật Thương mại.
Thứ hai, Nghĩa vụ thanh toán là nghĩa vụ tương đối, quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ của bên bán trong quan hệ nghĩa vụ thanh toán là một
quyền đối nhân bới nó chỉ được thi hành đối với người có nghĩa vụ. Có nghĩa
là quyền của bên có quyền (bên bán) chỉ được thực hiện bằng hành vi của
bên kia (bên mua). Việc chuyển giao nghĩa vụ thanh toán không được tự do
như chuyển giao quyền đối vật mà phải tuân theo điều kiện nhất định.
Thứ ba, nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán tài sản có liên

quan đến các nghĩa vụ khác của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa
như nghĩa vụ giao hàng, nhận hàng. Việc thực hiện đúng các nghĩa vụ này sẽ
là cơ sở cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Thứ tư, đi kèm với nghĩa vụ thanh toán là các chế tài đối với các trường
hợp không thực hiện và thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán.
1.4 . Nội dung của nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán
hàng hóa
Về nghĩa vụ thanh toán của bên mua, Công ước Viên quy định: Nghĩa
vụ thanh toán tiền hàng của người mua bao gồm việc thực hiện các bước và
tuân thủ các thủ tục mà hợp đồng hoặc pháp luật yêu cầu để thực hiện được
việc thanh toán. Xét dưới quan nghĩa vụ thì nội dung của nghĩa vụ thanh toán
19


là tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà các bên trong quan hệ nghĩa vụ thanh
toán. Nội dung của nghĩa vụ do các bên thoả thuận không trái pháp luật,
không trái đạo đức xã hội được pháp luật bảo đảm thực hiện. Nội dung của
nghĩa vụ có thể thoả thuận: mang tính linh hoạt và phù hợp với các bên. Khi
thoả thuận nội dung các bên chủ thể cần lưu ý: luôn phải xác định đối tượng,
phạm vi cụ thể để có căn cứ pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ các bên đến
mức độ nào (thực hiện đến đâu, không thể thực hiện được hay không thể thực
hiện được). Từ đó xét yêu tố lỗi vì lý do lỗi của một bên, lỗi của bên thứ ba
hay sự kiện bất khả kháng và xác định trách nhiệm dân sự trong quan hệ
nghĩa vụ cụ thể. Quyền và nghĩa vụ dân sự trong nội dung của quan hệ nghĩa
vụ dân sự thể hiện: quyền yêu cầu và nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu. Bên có quyền
yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện, nếu đã yêu cầu trực tiếp mà không thực
hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc
bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
Nội dung của nghĩa vụ thanh toán bao gồm: quyền yêu cầu bên mua với
bên thanh toán đúng giá cả; thanh toán đúng thời hạn, đúng địa điểm; phương

thức và thực hiện hiện trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ. Trong quan hệ
nghĩa vụ này, quyền yêu cầu của bên bán cũng là nghĩa vụ của bên mua.
Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa
thuận. Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc
thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hoá mất
mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ
trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.
1.5 Thực hiện nghĩa vụ thanh toán và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Thực hiện nghĩa vụ thanh toán là việc bên mua hàng hóa chuyển giao
tiền hoặc tài sản cho bên bán hàng hóa theo thỏa thuận về thanh toán trong
20


×