Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIVAIDS ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.76 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HÀ

B¶O §¶M QUYÒN CñA TRÎ EM SèNG CHUNG

BÞ ¶NH H¦ëNG BëI HIV/AIDS ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY SƠN


HÀ NỘI - 2014

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Hà


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS
ARV
BRIGHTFUTURE
CEDAW

CRC
HIV
HOPE
ICCPR
ICESCR
ILO
MDGs
UDHR
UNAIDS
UNDP

UNICEF
UNITED
FRIENDSHIP
VAAC
WHO

Hội chứng suy giảm miễn dịch do HIVgây ra (Acquiret
Immune Deficiency Syndrom)
Thuốc được chế ra nhằm làm giảm sự sinh sôi nảy nở của
HIV trong cơ thể (Antiretroviral)
Quỹ vì ngày mai tươi sáng
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of
Discrimination Againts Women)
Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em (The UN
Convention on the Rights of the Child)
Virut gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immune
Deficiency Virus)
Quỹ hi vọng
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(International Convent on Civil and Political Rights)
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội
(International Convent on Economic, Social and Cultural Rights)
Tổ chức lao động quốc tế (International Labour Organization)
Mục tiêu thiên niên kỷ
Tuyên ngôn toàn thế giói về quyền con người (Universal
declaration of Human Rights
Chương trình Phòng chống AIDS của Liên Hợp Quốc (Joint
United Nations Program on AIDS)
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (United nAtions

Development Prgramme)
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (United nations childrens fund)
Quỹ những người bạn thân thiết.
Cục phòng chống HIV/AIDS – Bộ Lao động - Thương binh &
Xã hội
Tổ chức y tế thế giới (World Health organization)


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, sự xuất hiện của đại dịch HIV/AIDS
đã cướp đi mạng sống của hàng triệu con người trên thế giới. Đối với trẻ em, do
đặc điểm non nớt về thể chất và tinh thần, nên đại dịch HIV/AIDS gây ra những
hệ quả đặc biệt nghiêm trọng. Nó hủy hoại về sức khỏe, tinh thần, đe dọa về tính
mạng và hạn chế sự thụ hưởng các quyền con người đối với trẻ em ở nhiều nước
cũng như ở Việt Nam.
Theo thống kê của Cục bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (Bộ LĐ- TB- XH) cả
nước có khoảng 5.700 trẻ em dưới 13 tuổi nhiễm HIV, con số này trên thực tế
còn cao hơn do nhiều nguyên nhân chưa thống kê chính xác được. Đó là những
“tảng băng chìm” khi trẻ em bị lây nhiễm từ người mẹ mang thai và trẻ em sống
trong hoàn cảnh có người thân bị nhiễm HIV và chết do AIDS. Bên cạnh đó, các
yếu tố kinh tế - xã hội như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập, sự kỳ thị phân biệt
trong đối xử cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường đã làm cho các
em trở nên dễ bị tổn thương hơn.
Phù hợp với Luật Nhân quyền quốc tế, Hiến pháp và luật pháp Việt Nam quy
định mọi trẻ em không phân biệt dân tộc, giới tính, ngôn ngữ, hoàn cảnh kinh tế,

tình trạng bệnh tật... đều có các quyền con người cơ bản. Như vậy, trẻ em sống
chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đều được hưởng quyền bình đẳng như mọi
trẻ em khác, đó là: quyền sống, quyền được học tập, quyền được chăm sóc sức
khoẻ, quyền được vui chơi, hoà nhập cộng đồng, quyền được sống chung với cha
mẹ….là quốc gia sớm phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (CRC),Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện một cách đồng bộ để bảo đảm thực thi
quyền của trẻ em hiệu quả nhất. Đối với trẻ em sống trong hoàn cảnh HIV/AIDS,
Đảng và Nhà nước ta xác định rằng HIV/AIDS không chỉ là mối hiểm hoạ đối với
sức khoẻ, tính mạng của con người mà còn là vấn đề liên quan đến tương lai phát
triển nòi giống của dân tộc. Các quyền con người cơ bản của các em chỉ được tôn

1


trọng thực hiện khi có sự vào cuộc của Nhà nước và toàn xã hội trong việc chăm
sóc và bảo vệ trẻ em, giúp các em đối phó với đại dịch HIV/AIDS, kéo dài sự sống.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong văn kiện quan trọng sau:
- Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 30/11/2005 về "Tăng cường lãnh đạo công tác
phòng chống HIV/AIDS trong tình hình mới"
- Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 về “Tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em".
- Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5
đã thông qua ngày 15/6/2004.
- Luật phòng chống HIV/AIDS được Quốc Hội thông qua năm 29/6/2006
- Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010
và tầm nhìn 2020
- Nghị định số 91/NĐ-CP ngày 17/10/2011 cũng bao gồm các biện pháp xử
phạt sự kỳ thị và phân biệt đối xử với trẻ em sống chung hoặc bị ảnh hưởng bởi
HIV, chẳng hạn như cản trở việc tiếp cận quyền giáo dục...
- Chương trình mục tiêu quốc gia, phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 2012 - 2015.

- Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030.
Bên cạnh một khuôn khổ pháp lý khá toàn diện Việt Nam còn thực hiện
nhiều biện pháp đồng bộ nhằm bảo đảm có hiệu quả quyền của trẻ em sống chung
và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS như: Chương trình mục tiêu quốc gia, các Chương
trình hành động vì trẻ em, các chính sách phúc lợi và an sinh xã hội...
Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý việc bảo vệ quyền của nhóm trẻ em sống
trong hoàn cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam còn nhiều bất cập, khó khăn, chẳng hạn
thiếu những văn bản pháp lý riêng dành cho nhóm trẻ em này, chưa thành lập
được một hệ thống cơ quan bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ trung ương
xuống địa phương và quan trọng hơn là nhận thức và sự vận dụng luật pháp,
chính sách của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ
em còn nhiều hạn chế...

2


Từ những lý do trên tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của
trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam” để làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
quyền của người nhiễm HIV/AIDS, trong đó có trẻ em. Nhiều tài liệu, bài viết tiêu
biểu đã được sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu của sinh viên, học
viên, nghiên cứu sinh… tiêu biểu như:
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu
quyền con người, Giáo trình lý luận về quyền con người, Hà Nội, 2002.
Viện Nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị- Hành chínhquốc gia Hồ Chí Minh, Quyền trẻ em, Hà Nội, 2006.
Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Tài liệu hướng dẫn giải đáp về HIV/AIDS và quyền con người Hà

Nội. 2008.
TS. Nguyễn Văn Sáu - TS. Cao Đức Thái (Đồng chủ biên), Chính sách quốc
gia về phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008
Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con người (PGS.TS Nguyễn Đăng Dung chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2009.
Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hỏi - Đáp về quyền con người, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
GS.TS Hoàng Kim Quế, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các
nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Hà Nội, 2010.
Ths Đỗ Thị Hồng Thơm, Luật quốc tế về quyền của những nhóm người dễ bị
tổn thương, Hà Nội, 2010.
Những công trình nêu trên đã cung cấp những thông tin, kiến thức về
HIV/AIDS và các quyền con người của trẻ em. Là những tài liệu tham khảo bổ ích

3


cho đề tài này. Tuy nhiên, từ góc độ pháp lý vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
cơ bản và có hệ thống về bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay. Luận văn này là nỗ lực bước đầu của tác giả
nhằm khắc phục những thiếu hụt nêu trên, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ
quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
3. Mục đích phạm vi, nghiên cứu
* Mục đích:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tổng hợp, hệ thống các văn bản
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em. Trên cơ sở đánh giá quá
trình bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt

Nam thời gian qua, luận văn đã luận chứng những phương hướng và giải pháp hoàn
thiện luật pháp, thể chế nhằm bảo đảm tốt hơn quyền của trẻ em sống chung và bị
ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tập trung nghiên cứu, phân tích khuôn khổ pháp luật quốc tế và quan điểm,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền
của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cở sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài luận văn này là chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước
Việt Nam thể hiện trong các bản Hiến pháp, các văn bản pháp lý quan trọng nhằm
bảo đảm quyền của nhóm trẻ em trên
Trên cơ sở quan điểm chung của cộng đồng quốc tế, quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, logic và lịch
sử, so sánh, đối chiếu để giải quyết những yêu cầu của luận văn.
5. Những nét mới của luận văn
- Hệ thống hoá những văn bản pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền của
trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam.
-Thông qua đánh giá quá trình thực thi luật pháp, luận văn đã luận chứng một

4


số giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật, cơ chế bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em
sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, tuyên truyền, đào tạo về quyền trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS; đồng thời cung cấp cơ sở pháp lý cho các nhà hoạch định luật pháp và

chính sách về quyền nhóm trẻ em trên ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở pháp pháp lý bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị
ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS ở Việt Nam thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền của trẻ
em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM SỐNG CHUNG
VÀ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI HIV/AIDS
1.1. QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TRẺ EM
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Theo Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp quốc, quyền con người là:
Những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự
được phép và tự do cơ bản của con người. Trong định nghĩa này, quyền con người
không chỉ là những giá trị nhân văn trừu tượng về cuộc sống có nhân phẩm, mà
còn định hình thành tiêu chuẩn pháp lý cơ bản, nhờ đó quyền con người có được
một vị trí độc lập trong quan hệ với quyền lực của Nhà nước và việc bảo đảm nó
gắn với tuân thủ luật pháp chứ không phải sự ưa thích của nhà cầm quyền.
Quyền con người có phạm vi rộng và bao trùm 5 lĩnh vực chủ yếu: Chính
trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền trong mỗi lĩnh vực là khác nhau
nhưng có quan hệ tương tác, phụ thuộc và có tầm quan trọng như nhau. Chúng tạo

nên một chỉnh thể thống nhất đòi hỏi các nhà nước, chính phủ phải thực thi đồng
thời, không được tùy tiện hay rút bỏ. Quyền được giáo dục có quan hệ chặt chẽ
với các quyền được chăm sóc sức khỏe; khả năng, trình độ văn hóa của người mẹ
luôn có mối liên kết rõ ràng với tình trạng được nuôi dưỡng, chăm sóc những em
bé do người mẹ đó sinh ra... Tuy nhiên, đặc trưng cốt lõi này chưa được phản ánh
trong cách tiếp cận của nhiều Nhà nước, Chính phủ. Trong việc bảo đảm quyền
của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cần phải quan tâm đến đặc
trưng cơ bản này.
1.1.2. Quyền của trẻ em trong hệ thống quyền con người
Lịch sử phát triển quyền trẻ em
Trong lịch sử phát triển xã hội ở nhiều quốc gia, trẻ em đã sớm được coi là
một trong những nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất và được các Nhà nước, các
cộng đồng quan tâm bảo vệ. Từ thế kỷ XIV, ở Châu Âu đã xuất hiện những dự án

6


công cộng dành cho trẻ em (bệnh viện Spedale Degli Innocenti ở Florent, Italia) và
trong thời kỳ này ở Châu Á, Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam cũng đã quy định
trách nhiệm của dân chúng và các quan lại địa phương phải giúp đỡ trẻ em tàn tật,
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, bảo vệ chăm sóc trẻ bị lạc, đồng thời quy định
về trừng trị tội gian dâm với trẻ em gái, tội buôn bán phụ nữ, giảm án và hoãn thi
hành án với phụ nữ có thai, đang nuôi con nhỏ. [25, tr.253]
Mặc dù vậy, trong thời kỳ trước đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ trẻ em
về cơ bản xuất phát từ các góc độ tình thương, lòng nhân đạo và sự che chở chứ
không phải dưới góc độ pháp lý từ nghĩa vụ bảo vệ quyền. Do vậy, việc bảo vệ trẻ
em ở thời kỳ trước về cơ bản chưa mang tính phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và
ràng buộc về nghĩa vụ với mọi đối tượng trong xã hội.
Phải đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ pháp lý “Quyền trẻ em” (QTE) mới được
đề cập sau một loạt các biến cố quốc tế lớn mà đặc biệt là cuộc Chiến tranh thế giới

lần thứ nhất (1914 - 1918). [25, tr.253]
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các đề xuất bảo vệ quyền trẻ em trên phạm vi
quốc tế xuất phát từ thực trạng vi phạm QTE diễn ra phổ biến khắp mọi nơi trên thế
giới. Trẻ em là nạn nhân của các cuộc xung đột, chiến tranh, các hoạt động tội phạm
có tổ chức, sự phân biệt đối xử với trẻ em, nhất là trẻ em gái diễn ra rất phổ biến ở
hầu hết các nước đang phát triển. Trước thực trạng trên, ở Châu Âu, phong trào bảo
vệ trẻ em đã phát triển mạnh mẽ với việc xuất hiện nhiều tổ chức phi Chính phủ
đứng ra vận động chính sách và tài chính nhằm bảo vệ trẻ em. Sự phát triển mạnh
mẽ của các phong trào này đã thúc đẩy cộng đồng quốc tế thông qua những biện
pháp tập thể trong việc bảo vệ trẻ em. Vào những năm 1920, Hội quốc liên đã thành
lập một ủy ban đặc biệt để giải quyết những vấn đề liên quan đến bảo vệ trẻ em, nhờ
hoạt động của ủy ban này mà Công ước quốc tế về trấn áp nạn buôn bán phụ nữ và
trẻ em đã được thông qua vào năm 1921. Năm 1924, tại kỳ họp thứ 4, Hội quốc liên
đã thông qua Tuyên ngôn về quyền trẻ em (còn gọi là Tuyên ngôn Giơnevơ).
Sau chiến tranh thế giới thứ hai Tuyên ngôn Giơnevơ 1924 được Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc quan tâm, sửa đổi và phải đến năm 1959, Tuyên ngôn về
quyền trẻ em mới được thông qua. Tuyên ngôn 1959 đã sử dụng cách tiếp cận trên

7


quyền và quan tâm nhiều hơn đến các nhu cầu cơ bản của trẻ em.
Tuy nhiên quyền con người của trẻ em được đề cập trong một số văn kiện
nhân quyền còn hạn chế, thiếu tính hệ thống, đặc biệt là chưa ghi nhận quyền của
các nhóm trẻ em khuyết tật, trẻ em bị HIV/AIDS, trẻ em tị nạn, trẻ em thuộc
nhóm thiểu số...
Ý tưởng pháp điển hóa nội dung của Tuyên ngôn 1959 thành một văn kiện
pháp lý xuất phát từ đề xuất của Ba Lan. Trên cơ sở đề xuất này, Ủy ban nhân quyền
Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua Nghị quyết số 20 (ngày 08/3/1978) để kêu gọi
các cơ quan chuyên môn của LHQ, các tổ chức quốc tế, khu vực, các tổ chức phi

chính phủ cùng tham gia đóng góp ý kiến để soạn thảo một công ước về QTE. Đến
năm 1979, Ủy ban nhân quyền đã quyết định thành lập Nhóm công tác mở, có trách
nhiệm chính trong việc tiến hành mọi hoạt động liên quan đến quy trình soạn thảo
Công ước. Sau 10 năm nỗ lực chuẩn bị, Công ước về quyền trẻ em (CRC) được Đại
hội đồng LHQ thông qua ngày 20/11/1989 có hiệu lực ngày (02/9/1990). Ngay sau
đó, Công ước nhanh chóng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế và
trở thành công ước quốc tế về QCN có số lượng quốc gia thành viên lớn nhất (đến
nay có 193 thành viên). Cùng với quá trình xây dựng Công ước, LHQ đã thông qua
nhiều văn kiện quốc tế quan trọng nhằm bảo vệ QTE.
Trẻ em là tương lai của nhân loại, nên việc bảo vệ trẻ em thực chất là bảo
vệ quyền con người ở giai đoạn sớm nhất [23]. Khi chúng ta bảo vệ QTE, nghĩa
là chúng ta đã bảo vệ QCN ở giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời một con
người. Như vậy, quyền trẻ em chính là quyền của một nhóm xã hội dễ bị tổn
thương. Với tư cách là chủ thể của quyền, trẻ em cũng cần được tôn trọng, bảo
vệ và thực hiện quyền như người lớn; bên cạnh đó trẻ em còn được bảo vệ bằng
những biện pháp đặc thù.
Nguyên tắc và nội dung cơ bản của quyền trẻ em trong công ước CRC
CRC ra đời là một bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức của
nhân loại về địa vị pháp lý của trẻ em. Trước kia, vấn đề trẻ em được nhìn nhận
trong phạm vi gia đình thì nay vấn đề trẻ em đã trở thành mối quan tâm chung của
toàn xã hội. Công ước còn thể hiện khát vọng chung của cộng đồng quốc tế nhằm
nuôi dưỡng trẻ em trong sự tôn trọng nhân phẩm và là chủ thể quyền con người,

8


giúp xua đi mọi hận thù, bất công và từ đó sẽ là một đảm bảo cho hòa bình và an
ninh thế giới trong tương lai.
Công ước đã đề cập đến bốn nguyên tắc cơ bản là: Lợi ích tốt nhất dành cho
trẻ em là ưu tiên hàng đầu; Không phân biệt đối xử; Đảm bảo sự sống cho trẻ ở mức

tối đa; Đảm bảo quyền được tham gia của trẻ. Các quyền cụ thể được ghi nhận chủ
yếu xuất phát từ bốn nguyên tắc này. Trong bối cảnh HIV/AIDS, các nguyên tắc của
CRC vẫn được coi là cốt lõi trong việc xây dựng luật pháp, chính sách để đảm bảo
các quyền con người của trẻ em. Chẳng hạn, liên quan đến nguyên tắc không phân
biệt đối xử, Điều 2 CRC ghi nhận: “các quốc gia tham gia công ước phải thi hành mọi
biện pháp thích họp để đảm bảo cho trẻ em được bảo vệ, tránh khỏi mọi hình thức
phân biệt đối xử”. Đây là nguyên tắc đặc biệt quan trọng mang tính phổ quát, chi phối
toàn bộ các qui định khác của công ước trên mọi phương diện bảo vệ, chăm sóc trẻ
em. Vận dụng vào bối cảnh HIV/AIDS, nguyên tắc này đòi hỏi mọi trẻ em bị nhiễm
HIV/AIDS, trẻ em có bố, mẹ bị nhiễm HIV/AIDS hay trẻ em vì lý do này hay lý do
khác, chịu sự tác động của đại dịch HIV/AIDS phải được bảo vệ và đối xử bình đẳng
như tất cả mọi trẻ em khác. Do vậy, trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS cũng được hưởng các quyền đã được quy định trong CRC như:
- Quyền sống và phát triển (Điều 6)
- Quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 24)
- Quyền được đăng ký khai sinh và có quốc tịch (Điều 7)
- Quyền được hưởng an sinh xã hội (Điều 26)
- Quyền được học tập (Điều 28) v.v..
Đặc biệt công ước đã quy định trách nhiệm của các quốc gia tại Điều 33:
“phải bảo vệ trẻ em khỏi sự lạm dụng ma tuý”, góp phần phòng ngừa và hạn chế
khả năng các em khỏi sự lây nhiễm HIV/AIDS qua những con đường này. Những
điều khoản nói trên, cùng với những quy định có liên quan khác của công ước đã
được áp dụng trực tiếp và cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật của các quốc gia
về phòng chống HIV/AIDS. Đặc biệt đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ trẻ em
nói chung và trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói riêng, bảo đảm
cho trẻ em trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng nhận được những quan tâm, dành cho

9



sự chăm sóc tốt nhất.
Có thể nói việc thúc đẩy và hưởng thụ các quyền con người đầy đủ, ảnh
hưởng một cách trực tiếp đến việc bảo vệ QTE. Và việc thúc đẩy thực thi có hiệu
quả các quyền của trẻ em sẽ giúp tạo ra thế hệ tương lai phát triển toàn diện về thể
lực và trí tuệ, giúp các em biết bảo vệ quyền của mình trên cơ sở tôn trọng nhân
phẩm, quyền của người khác. Đây chính là cách thức mà mỗi quốc gia có thể góp
phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu mà LHQ đã đề ra trong Hiến chương là
xây dựng một thế giới hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, trong đó mỗi con người
được tôn trọng phẩm giá và được tạo điều kiện để phát triển tự do tối đa.
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA HIV/AIDS ĐẾN SỰ THỤ HƯỞNG CÁC QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA TRẺ EM SỐNG CHUNG VÀ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI HIV/AIDS
1.2.1. Thế nào là trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
Định nghĩa về trẻ em đã được xác định tại Điều 1, CRC: “Trẻ em là những
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đã quy định tuổi
thành niên sớm hơn”. Đây là một quy định mở, trong đó mức trần tuổi 18 được coi
là mức chuẩn nhưng không phải cố định, bắt buộc với mọi quốc gia. Nói cách khác,
điều này cho phép các quốc gia có thể quy định độ tuổi được coi là trẻ em có thể
khác nhau giữa các nước thành viên.
Chính vì lẽ đó, để phù hợp với quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ
em và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đối tượng trẻ em có
HIV/AIDS cần được bảo đảm các quyền con người là những người dưới 18 tuổi,
với những đặc trưng như sau:
a. Trẻ em sống chung với HIV/AIDS là những trẻ mang trong cơ thể căn bệnh
về HIV, được xét nghiệm dương tính (+), nếu không được điều trị kịp thời căn bệnh
này sẽ phát triển sang giai đoạn tiếp theo (AIDS), làm nhanh chóng hủy hoại cơ thể
của các em bằng cách làm suy giảm khả năng miễn dịch của cơ thể. Những trẻ em
này phải chung sống suất đời với căn bệnh trên.
b. Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS bao gồm các nhóm đối tượng: Trẻ em
có nguy cơ nhiễm HIV cao là trẻ em mồ côi cha, mẹ hoặc cha, mẹ chết vì lý do liên


10


quan đến HIV/AIDS; trẻ em sống cùng cha, mẹ hoặc người nuôi dưỡng nhiễm HIV;
trẻ em sử dụng ma túy; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em là con của người mua bán
dâm; trẻ em lang thang; trẻ em mồ côi do các nguyên nhân khác; trẻ em sống trong
các cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
Trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thường thiếu tình thương
ruột thịt và nhận được ít tình yêu thương, sự vuốt ve như những trẻ nhỏ khác, các
em thường cảm thấy buồn tủi và chán nản. Bên cạnh đó do thiếu sự giáo dục của
cha, mẹ và sự ghẻ lạnh, tránh né của những người xung quanh nên các em thường
dễ bị trầm cảm, chậm nói, chậm phát triển trí não, thiếu khả năng vận động và
không được vui chơi cùng bạn bè.
Những trẻ em sống chung với căn bệnh HIV/AIDS thì lo sợ khi thấy
những biểu hiện trên cơ thể mình. Trong suy nghĩ, các em hình thành ý niệm chết
sớm bởi lo sợ không có thuốc chữa, những trẻ bị ảnh hưởng bởi người thân bị
HIV/AIDS thì hoang mang ám ảnh, không có bệnh mà coi như có bệnh, các em
luôn bị xa lánh, kỳ thị.
Từ những đặc điểm tâm lý của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS đã xuất hiện các nhu cầu của trẻ. Đó là nhu cầu về vật chất; Nhu cầu an
toàn xã hội; Nhu cầu được tôn trọng; Nhu cầu được khẳng định.
- Nhu cầu vật chất: là nhu cầu trước tiên mà bất cứ đứa trẻ nào cũng mong
được có, được đáp ứng các điều kiện vật chất tối thiểu là nhu cầu hết sức thiết thực
và có tính quyết định đến quyền sống của các em, nhu cầu được ăn, ở, mặc, được
chữa bệnh....là quyền con người cơ bản đầu tiên của các em. Chỉ khi nào đáp ứng
được đầy đủ nhu cầu này thì trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS mới
có điều kiện phát triển bình thường như những trẻ em khác.
- Nhu cầu an toàn xã hội: Được đảm bảo về vấn đề sức khỏe, tiếp cận các
dịch vụ khám chữa bệnh thông thường là nhu cầu đặc biệt quan trọng đối với tất cả
trẻ em và người lớn. Và đối với nhóm trẻ em trên nhu cầu này càng cần thiết được

đáp ứng hơn, bởi khi đã mang trong mình căn bệnh nguy hiểm hoặc khi sống rất
gần với căn bệnh này thì khả năng miễn dịch của các em không được cao như
những trẻ em khác, các em cần được chăm sóc, kiểm tra sức khỏe định kỳ, bên cạnh

11


đó các em cần được sự yêu thương vỗ về từ người thân trong gia đình. Nếu không
được che trở bao bọc bởi gia đình và những người thân trẻ dễ bị rơi vào tâm trạng lo
sợ, sống khép kín. Gia đình là môi trường tốt nhất cho sự phát triển của trẻ.
- Nhu cầu được tôn trọng: Trẻ bị nhiễm HIV/AIDS thường lo sợ, tự ti trước
thái độ kỳ thị của cộng đồng xã hội, các em luôn mong muốn được mọi người tôn
trọng, không bị phân biệt và phán xét.
- Nhu cầu được khẳng định mình: các em cũng luôn được mong muốn có vị
trí trong xã hội, được mọi người nhìn nhận, nhiều em không chỉ dừng lại là được
đến trường học tập mà các em cũng có trí tuệ, mong đạt điểm cao trong học tập,
được hòa đồng vui chơi với bạn bè cùng trang lứa. Trên thực tế tại các diễn đàn có
sự tham gia của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đã mang lại cho
cộng đồng xã hội cách nhìn nhận nhân văn, cảm thông và chia sẻ bởi bệnh tật không
làm các em mất đi nghị lực sống, rất nhiều em đã thể hiện những khả năng trí tuệ
của mình bằng các thành tích học tập, tấm gương vượt khó...
Như vậy trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng có những
nhu cầu như tất cả mọi thành viên khác cũng cần được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu
của cuộc sống để phát triển về thể chất và tinh thần bình thường. Xem xét các khía
cạnh trên để thấy rõ sự tác động nghiêm trọng của HIV/AIDS đối với trẻ em đồng
thời đòi hỏi cộng đồng xã hội phải thay đổi nhận thức, giúp cho các cơ quan, chính
quyền có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi của các em trong xây dựng chính sách phải
xuất phát từ những nhu cầu căn bản để từ đó làm cơ sở để thực hiện các chương trình
hành động đúng hướng nhằm đảm bảo quyền con người tốt nhất cho các em.
1.2.2. Các hệ quả tiêu cực của tình trạng trẻ em sống

chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
- Tác động tiêu cực về mặt tinh thần.
HIV/AIDS đã tạo ra những tác động to lớn và sâu sắc về cuộc sống tinh
thần của trẻ em. Phần lớn các em bị nhiễm HIV/AIDS hoặc sống trong gia đình có
người thân bị nhiễm HIV/AIDS phải thường xuyên đối mặt với những vấn đề nan
giải và khó khăn như: đói nghèo, thiếu dinh dưỡng, thiếu sự chăm sóc của người

12


thân và gia đình. HIV/AIDS đã làm cho các em bị mặc cảm, chán nản, sợ hãi và
tuyệt vọng, làm cho các em bị mất mát cô lập, mất đi sự trong sáng hồn nhiên thơ
ngây đúng lứa tuổi, các em luôn tự ti trước bạn bè cùng trang lứa... Điều này ảnh
hưởng đến sự phát triển về thể chất và tinh thần làm hạn chế việc hưởng thụ các
quyền con người của các em. Một bộ phận lớn trẻ em mồ côi cha, mẹ hoặc cả hai
bị mất do HIV/AIDS đã mất đi quyền sống chung với cha mẹ, không còn nơi
nương tựa được đưa vào các trại mồ côi, các cơ sở từ thiện, cơ sở điều trị... nhiều
em lang thang đường phố làm đủ mọi nghề để kiếm sống nên dễ bị lạm dụng hoặc
tham gia vào các tệ nạn xã hội...Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 457.691 trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,
trong đó có 9.757 trẻ nhiễm HIV/AIDS. Hơn 50% trẻ trong số đó thuộc các gia
đình nghèo và rất nghèo. [5]
- Bị phân biệt đối xử.
Đây là hiện tượng diễn ra khá phổ biến. Biểu hiện của phân biệt đối xử là trẻ
em có HIV/AIDS hoặc có cha, mẹ bị nhiễm HIV/AID thường bị cộng đồng hoặc
người thân xa lánh, bị ngăn cấm không cho tham gia vào các hoạt động tập thể hoặc
không được hưởng các chế độ về dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, không được học
tập, không được tiếp cận thông tin một cách bình đẳng như những trẻ em khác. Có
rất nhiều cách thức biểu hiện sự phân biệt đối xử nhiều khi chỉ là “cái nhìn” không
thân thiện của mọi người xung quanh cũng làm các em tổn thương, mặc cảm.

Thái độ của cộng đồng đối với trẻ nhiễm HIV/AIDS luôn có thái độ xấu, tiêu
cực. Thái độ này thể hiện qua ngôn từ, lời nói mang tính riễu cợt, nguyền rủa, thể
hiện ở sự phân biệt ứng xử. Thái độ tiêu cực với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
cũng thể hiện sự hiểu biết không đúng về HIV/AIDS, về người bệnh của họ. Đặc
biệt thái độ này được quan sát rõ trong ứng xử kỳ thị, trong hành vi xua đuổi trẻ. Ví
dụ như ở một số Trung tâm bảo trợ hoặc ở cộng đồng, trẻ có HIV không được đến
nhà trẻ, trường học để cùng vui chơi, học tập với trẻ khác. Điều này làm hạn chế các
em tham gia vào đời sống xã hội, ngay cả khi các em còn khỏe mạnh.
Hiện nay thái độ của cộng đồng đối với trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS thể hiện

13


ở những mức độ khác nhau, cùng với thời gian và sự chuyển biến trong nhận thức
đã phát triển theo các chiều hướng khác nhau, ban đầu là những định kiến, xa lánh,
sợ hãi bị lây truyền từ các em, sau đó là chấp nhận nhưng với thái độ dè dặt lo lắng,
sau cùng là sự đón nhận, hiện diện và chăm sóc, giúp đỡ.
- Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS thường bị bỏ rơi, bỏ mặc.
Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS được sống trong các Trung tâm bảo trợ xã hội
thường do các bệnh viện hoặc các gia đình không có khả năng chăm sóc các em gửi
đến (không ngoại trừ trường hợp các em bị bỏ rơi được gom về). Nhiều em không
biết nguồn gốc gia đình mình. Các em dễ bị mất gia đình, mất lai lịch và sự thừa kế.
Nguồn đảm bảo cuộc sống cho các em bị hạn chế. Hầu như các em không đến
trường học, không có những người bạn mà các em thích. Các em thiếu thốn tình
cảm ruột thịt và nhận được ít tình thương yêu, sự vuốt ve như các trẻ nhỏ khác.
Trẻ bị nhiễm HIV/AIDS thường bị hạn chế các hoạt động giao tiếp xã hội.
Các em thường bị sống cách li và được chăm sóc riêng vì sợ gây ảnh hưởng đến
người khác và do nhiều người không muốn tiếp xúc với các em. Khi không bị đau
yếu, các em thường vui đùa, nghịch ngợm, hồn nhiên như bao trẻ em khác. Tuy
nhiên các em thường bị ghẻ lạnh, bị trêu trọc, bị coi thường, bị canh chừng từ chúng

bạn và thậm chí cả từ những người chăm sóc các em. Nếu trẻ vị thành niên bị
HIV/AIDS do sử dụng ma tuý, mại dâm… các em sẽ bị cộng đồng, xã hội và thậm
chí cả gia đình kỳ thị, lên án. Bệnh tật, thiếu thốn, cô đơn, lo sợ, mặc cảm…. có thể
nhanh chóng đẩy các em quay lại với các tệ nạn xã hội … Nhìn chung trẻ em bị
nhiễm HIV/AIDS trong bối cảnh hiện nay về cơ bản là không có tương lai.
Xem xét nguồn gốc các gia đình, các em bé bị nhiễm HIV/AIDS đa phần xuất
phát từ hậu quả của nạn phân biệt đối xử. Cha mẹ các em thường nghèo khó, mất
nguồn thu nhập và có thể bị tan vỡ hoặc bị chết. Với những trẻ còn cha, mẹ, sự mặc
cảm tự ti, tủi nhục và sự vô trách nhiệm đã khiến họ xa lánh, bỏ rơi các em. Bị bỏ rơi
có nghĩa là các em bị từ chối nuôi dưỡng, sẽ phải sống và lớn lên trong môi trường
không có người thân, có nhiều người cha, mẹ chỉ sau khi phát hiện đứa con do mình
sinh ra bị nhiễm HIV đã đang tâm vứt bỏ các em. Các em bị mất đi quyền sống chung
với cha, mẹ và hậu quả của sự bỏ rơi là các em lớn lên và trưởng thành không được

14


phát triển bình thường về thể chất và tinh thần như những trẻ em khác.
- Bị xâm phạm những bí mật đời tư.
Trẻ bị nhiễm HIV/AIDS có thể không được giữ những bí mật đời tư liên
quan đến tình trạng sức khỏe, bệnh tật. Điều này khiến cho các em là nạn nhân của
tình trạng phân biệt, kỳ thị hay bỏ mặc, bỏ rơi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc thụ
hưởng quyền con người cơ bản của các em. [42]. Và với những trẻ em có người
thân mắc phải căn bệnh HIV/AIDS cũng bị nhìn nhận sai lệch, bị xa lánh trong môi
trường học tập và chăm sóc sức khỏe...
Nhìn về tương lai, trẻ em bị lây nhiễm HIV/AIDS mang bệnh cho đến lúc
chết, sức đề kháng kém cùng với sự chăm sóc thiếu thốn dễ làm các em lâm vào
tình trạng bệnh tật. Các em không có nghề nghiệp cho tương lai do không có sức
khỏe, không được học văn hóa, học nghề và cơ bản tuổi thọ của các em rất thấp
thường chết trước lúc trưởng thành. Bệnh tật, cô đơn, lo sợ mặc cảm của nhóm trẻ

em này đã phản ánh một tồn tại xã hội, nó đòi hỏi sự thức tỉnh của cộng đồng xã hội
về lòng nhân văn cao cả và đặc biệt là một hệ thống pháp luật đủ mạnh để có thể
bảo đảm quyền con người của các em.
1.2.3. Các quyền con người cơ bản cần được bảo vệ đối với trẻ em sống
chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
- Nhóm quyền sống còn và phát triển
Quyền sống còn là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của con
người nói chung và của trẻ em sống chung với HIV/AIDS nói riêng, để được tồn tại
và được thụ hưởng các quyền phái sinh tiếp theo thì quyền sống phải tuyệt đối được
tôn trọng. Từ quy định này, không có gì nghi ngờ, tất cả mọi trẻ em kể cả trẻ em
sống chung với HIV/AIDS đều có quyền được sống và phát triển. Cũng không thể
vì lý do mang trong mình vi rút HIV/AIDS mà các em bị tước mất quyền sống của
mình. Vi phạm quyền sống của trẻ em sống chung với HIV/AIDS là vi phạm quyền
con người. Tính mạng các em luôn bị bệnh tật đe dọa, các em có thể gặp nguy hiểm
đến tính mạng bất kỳ lúc nào do đó quyền sống phải được đảm bảo tối đa với nhóm
trẻ em trên chính là phải đảm bảo tuyệt đối về tính mạng sức khỏe cho các em.
Để bảo đảm thực thi có hiệu quả quyền sống của trẻ em, Ủy ban của Công

15


ước về quyền trẻ em đã khuyến cáo các quốc gia phải bảo vệ trẻ em tránh lây nhiễm
HIV; cung cấp các thông tin và các kỹ năng sống cần thiết cho trẻ vị thành niên và
tiến hành các biện pháp bảo trợ đặc biệt cho những người có nguy cơ hay nhu cầu
cấp thiết nhất. Nghĩa vụ của quốc gia trong việc thực thi quyền được sống, tồn tại
và phát triển cũng nhấn mạnh yêu cầu phải quan tâm thích đáng đến đời sống tình
dục cũng như các hành vi, lối sống đó không phù hợp với những gì được coi là chấp
nhận được theo các tiêu chí văn hóa hiện hành đối với một độ tuổi nào đó. Các
chương trình phòng chống chỉ đạt hiệu quả khi đánh giá đúng thực tế cuộc sống của
vị thành niên, đồng thời tác động đến đời sống tình dục bằng cách đảm bảo bình

đẳng trong tiếp cận thông tin, kỹ năng sống và các biện pháp phòng tránh phù hợp.
Công ước đã khẳng định trẻ em có quyền được sống, cũng như được hưởng lợi
ích từ các chính sách kinh tế, xã hội tạo cho các em cơ hội tiếp tục trưởng thành và
phát triển theo nghĩa rộng nhất của từ này. Nhà nước có nghĩa vụ thừa nhận quyền
sống và phát triển của trẻ em. Điều này cũng nảy sinh yêu cầu quan tâm đúng mức
đến đặc trưng giới tính cũng như các hành vi và lối sống của trẻ em, kể cả khi điều
này không còn phù hợp với quan niệm xã hội về những gì có thể chấp nhận được theo
các quy tắc, chuẩn mực văn hóa thông thường đối với nhóm tuổi nhất định.
Liên quan đến quyền sống còn của trẻ em tại Điều 65, Hiến pháp năm 1992
quy định: “Trẻ em được gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” Điều 67
quy định: "Bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ khi trẻ bị mồ côi không nơi nương
tựa được nhà nước và xã hội giúp đỡ". Trong hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013
tại Điều 21 qui định ngắn gọn và súc tích: “Mọi người có quyền sống” Như vậy,
theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, tất cả mọi người không phân biệt thành
phần nam, nữ, tín ngưỡng tôn giáo, địa vị pháp lý trong đó có trẻ em đều có quyền
được sống và được hưởng một mức sống cao nhất có thể và trẻ em có HIV/AIDS
cũng không nằm ngoài đối tượng được hưởng quyền này.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe
Đây là quyền cơ bản của trẻ em được ghi nhận trong Công ước tại Điều 24.
Theo đó, mọi trẻ em có quyền được hưởng tình trạng sức khỏe cao nhất có thể được và

16


được chăm sóc y tế... Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng không có trẻ em nào
bị tước đoạt quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe...Theo các Hướng dẫn
quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người năm (1966), các quốc gia cần cung cấp
thường xuyên và bình đẳng các dịch vụ hàng hóa và các thông tin liên quan đến điều trị
HIV/AIDS cho những người bị nhiễm HIV, trong đó đặc biệt quan tâm đến phụ nữ, trẻ
em và những nhóm dễ bị tổn thương khác....Hướng dẫn số 8 khuyến nghị: Các quốc

gia cần bảo đảm cho trẻ nhỏ và thanh thiếu niên được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ sức
khỏe sinh sản và tình dục một cách kín đáo bao gồm những thông tin về HIV/AIDS, tư
vấn xét nghiệm và các biện pháp phòng ngừa nếu họ bị nhiễm HIV/AIDS.
Cụ thể hóa các quy định của pháp luật quốc tế, Luật bảo vệ sức khỏe nhân
dân Việt Nam năm (1989) quy định: Trẻ em dưới 6 tuổi có quyền khám chữa bệnh
định kỳ miễn phí (Điều 46), Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm (2004)
quy định: Trẻ em có quyền được chăm sóc, tiêm phòng và chữa bệnh tại các trung
tâm y tế địa phương (Điều 9)... Đối với trẻ có HIV, Đảng và Nhà nước ta có sự quan
tâm chăm sóc đặc biệt. Điều 39 Luật phòng chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm (2006) quy định: “Trẻ em dưới 6 tuổi
được nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV”. Điều 39 còn quy định rõ trẻ em từ 6
tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV là đối tượng được ưu tiên số một trong việc được
hưởng các nguồn cung cấp thuốc kháng HIV miễn phí. Bên cạnh đó, việc chăm sóc,
hỗ trợ phòng chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con được quan tâm đặc biệt. Điều 6
Luật quy định: “Hỗ trợ phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nuôi dưỡng trẻ
em dưới 6 tháng tuổi sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV bằng sữa thay thế”.
Như vậy, quy định của pháp luật quốc tế và quốc gia rất rõ ràng. Tuy nhiên,
trong thực tế, việc thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe của trẻ em còn nhiều vấn đề
bất cập. Vì nhiều lý do khác nhau, nhiều trẻ em chưa được tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là đối với trẻ em bị nhiễm HIV. Việc trẻ em bị nhiễm
HIV/AIDS có được chăm sóc y tế hay không phụ thuộc chủ yếu vào khả năng kinh
tế của gia đình. Điều này ảnh hưởng đến sức khỏe của các em và ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền sống của các em.
- Nhóm quyền bảo vệ

17


Là nhóm quyền bao gồm các quyền của trẻ em được bảo vệ khỏi các hình
thức bóc lột, lạm dụng, sao nhãng, bỏ mặc, bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử và bảo

vệ trẻ em trong các trường hợp khó khăn như bị mất môi trường gia đình trong bối
cảnh HIV/AIDS. Các quyền của trẻ em cần được quan tâm bảo vệ đặc biệt là:
- Quyền không bị phân biệt đối xử.
Phân biệt đối xử làm trầm trọng thêm tính dễ bị tổn thương của trẻ em đối
HIV/AIDS, cũng như tác động nghiêm trọng đến đời sống của những trẻ đã bị ảnh
hưởng hoặc bị nhiễm HIV. Các em có cha, mẹ bị nhiễm HIV/AIDS thường là nạn
nhân của kỳ thị và phân biệt bởi các em luôn bị nghi ngờ là cũng bị nhiễm HIV như
cha, mẹ. Hậu quả của sự phân biệt này là trẻ em bị từ chối tiếp cận thông tin, giáo
dục, bị phân biệt trong quá trình được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bị tách
khỏi đời sống xã hội cộng đồng. Phân biệt đối xử cũng làm tăng nguy cơ dịch bệnh
bởi nó khiến cho các nhóm trẻ đặc biệt là những trẻ em nhiễm HIV/AIDS sống lang
thang, trẻ sống tại vùng sâu, xa, dân tộc thiểu số không được quan tâm chăm sóc,
không được cung cấp kiến thức, kỹ năng phòng tránh. Các em dễ bị kích động bởi
các nhóm xã hội nhất định từ đó là nguyên nhân lây truyền HIV sang người khác.
Theo Điều 2 Công ước CRC: "Các quốc gia thành viên phải đảm bảo mọi
quyền trong Công ước mà không có bất kỳ hình thức phân biệt nào, bất kể chủng
tộc của trẻ em hay cha mẹ, người giám hộ hợp pháp, màu da, giới tính, ngôn ngữ,
tôn giáo, chính kiến hay quan điểm khác, quốc tịch, dân tộc hoặc xuất thân xã hội,
tài sản, khuyết tật, bẩm sinh hay các yếu tố khác"
Để làm rõ hơn và yêu cầu đòi hỏi của CRC các quốc gia thành viên thực hiện
đúng tinh thần của Điều 2, Ủy ban Công ước về quyền trẻ em khuyến cáo luật pháp,
chính sách, chiến lược và tập quán phải xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử góp
phần làm tăng tác động của dịch bệnh HIV/AIDS. Cần có các chiến lược thúc đẩy
các chương trình giáo dục và đào tạo được xây dựng nhằm làm thay đổi thái độ
phân biệt đối xử và kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS. Quốc gia thành viên cần đảm
bảo tiếp cận thông tin, y tế và dịch vụ xã hội, hạn chế sự ruồng bỏ của gia đình,
cộng đồng xã hội; đảm bảo trẻ em ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa là đối tượng dễ

18



bị lây nhiễm được bảo vệ; giảm tư tưởng trọng nam khinh nữ và phân biệt đối xử
thiên hướng về tình dục. [38, tr. 159-162]
Có thể nói đây là quyền quan trọng cơ bản đối với nhóm trẻ em sống trong
hoàn cảnh trên, nó đảm bảo về mặt tinh thần là mọi trẻ đều có quyền bình đẳng mà
không bị phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào, điều đó có nghĩa là, tất cả trẻ
em đều được tôn trọng một cách bình đẳng, không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, gia đình và tình trạng sức khỏe của các em. Các em bị nhiễm HIV/AIDS
hoặc sống trong gia đình có người bị nhiễm HIV/AIDS đều được hưởng tất cả các
quyền và lợi ích chính đáng của mình, đều được bảo vệ và tôn trọng các quyền mà
không phải chịu bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào.
Quyền không bị phân biệt đối xử với trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS được cụ thể
hóa trong pháp luật quốc gia. Luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em quy định:
Trẻ em có quyền không bị phân biệt đối xử (Điều 2) và mọi hành vi vi phạm quyền
trẻ em đều bị nghiêm trị tại Điều 4. Ngoài ra Ủy ban Công ước về quyền trẻ em
cũng khuyến nghị: Việt Nam cần tiến hành các biện pháp có hiệu quả nhằm chống
lại sự kỳ thị phân biệt đối xử với trẻ em đang phải sống chung với HIV/AIDS, đặc
biệt là quan tâm và chú trọng tới các chiến dịch truyền thông trong công chúng.
Điều 8 Luật phòng chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS) quy định: Nghiêm cấm những hành vi kỳ thị phân biệt đối xử
với người nhiễm HIV; nghiêm cấm việc cha mẹ bỏ rơi con chưa thành niên nhiễm
HIV, người giám hộ bỏ rơi người được mình giám hộ nhiễm HIV.
- Quyền được giữ bí mật, riêng tư
Điều 16 CRC: Quyền được bảo vệ bí mật đời tư "Không một trẻ em nào
phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư của em, gia
đình, nhà cửa hoặc thư tín cũng như những sự cung kích bất hợp pháp vào danh
dự và thanh danh của các em" Ủy ban Công ước về quyền trẻ em khuyến cáo:
Các quốc gia thành viên phải đảm bảo giữ bí mật kết quả xét nghiệm HIV, phù
hợp với nghĩa vụ bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em, cả trong y tế và phúc lợi xã
hội, cũng như không tiết lộ thông tin về tình trạng HIV của trẻ em với người thứ


19


×