Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT CỦA LƯU QUANG VŨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.26 KB, 30 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Môn Ngữ văn là môn học có khả năng đặc biệt trong giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh. Chính vì vậy, việc lồng ghép kĩ năng sống vào môn Ngữ văn
là một vấn đề hết sức cần thiết. Bởi nó giúp người giáo viên dạy văn làm tốt hơn
thiên chức của mình - người kĩ sư tâm hồn, người thắp lửa trong tâm hồn con
trẻ. Hơn nữa, trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay, việc làm này cũng đi
đúng quỹ đạo chung của việc cải cách giáo dục: quan tâm đến đối tượng trung
tâm của quá trình dạy và học là học sinh, nhằm đào tạo những con người toàn
diện, có tài, có đức, năng động, tự tin, có khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn Ngữ văn cần có một con
đường, một cách thức phù hợp. Một trong những con đường ngắn nhất và hiệu
quả nhất để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là sử dụng phương pháp dạy học
tích cực. Trong các giờ đọc hiểu theo phương pháp dạy học tích cực, học sinh sẽ
phát huy tính chủ động, sáng tạo, qua đó giáo viên có điều kiện để giáo dục kĩ
năng sống cho các em, kịp thời uốn nắn, hình thành những kĩ năng tích cực. Vì
vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các tiết đọc hiểu văn bản có thể
phát huy được tính tích cực, những giá trị tốt đẹp và đánh thức tiềm năng con
người ở mỗi học sinh.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Sáng kiến không chỉ áp dụng cho giờ đọc hiểu "Hồn Trương Ba, da hàng
thịt" mà có thể áp dụng trong tất cả các giờ đọc hiểu trong chương trình Ngữ văn
ở Trung học phổ thông. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, giáo viên phải luôn
ý thức lồng ghép kĩ năng sống qua mỗi bài học và lựa chọn những phương pháp
tối ưu nhất.
3. Nội dung sáng kiến
Những năm gần đây, giáo dục kĩ năng sống đã được lồng ghép, tích hợp
vào một số môn học và hoạt động giáo dục của nhà trường. Tuy nhiên việc giáo
dục học sinh qua những giờ học Văn vẫn chưa mang lại hiệu quả cao vì thiếu
sinh động và có phần sáo mòn, chưa thu hút và tác động nhiều đến học sinh,
chưa khai thác được mặt tối ưu của các phương pháp dạy hoc tích cực trong việc


giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Trong khi đó, đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực là hướng tới tổ
chức hoạt động cho học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh. Khai thác những ưu thế của phương pháp dạy
học tích cực vào giờ đọc hiểu đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" nói
riêng và các giờ đọc văn nói chung, người giáo viên Văn sẽ giúp học sinh "sống"


với tác phẩm văn chương, đồng thời hình thành ở học sinh những kĩ năng sống
cơ bản, cần thiết, phù hợp với thực tiễn và thuần phong mĩ tục của Việt Nam vừa
đáp ứng được nhu cầu của thời đại.
Khả năng áp dụng của sáng kiến (Tính khả thi) rất cao bởi phù hợp với
đặc trưng của môn Ngữ văn, phù hợp với mục tiêu của giáo dục. Mặt khác, khi
tiếp cận với văn bản "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ - một tác
phẩm đậm tính triết lí về con người, về cuộc đời, học sinh sẽ khám phá ra chính
mình, hình thành những kĩ năng mới khi giáo viên hướng dẫn cho các em một
con đường cụ thể, một phương pháp cụ thể khi khám phá tác phẩm văn chương.
Sáng kiến không chỉ áp dụng cho giờ đọc hiểu "Hồn Trương Ba, da hàng
thịt" của Lưu Quang Vũ mà còn có thể áp dụng trong tất cả các tiết đọc Văn.
Mặt khác, sáng kiến có có ý nghĩa đặc biệt khi áp dụng cho học sinh tại các
Trung tâm giáo dục thường xuyên, khi phần nhiều học sinh còn hạn chế về kĩ
năng sống.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Khi vận dụng sáng kiến vào thực tế dạy học, tôi thấy có những thay đổi
tích cực trong quá trình học tập của học sinh. Sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực giúp giờ học trở nên sinh động, môn Văn có sức lôi cuốn và phát huy
được tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, từ đó hình thành ở các
em những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết, đáp ứng nhu cầu của thời đại.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Đề tài cần có sự góp ý xây dựng để hoàn thiện nên rất cần sự đóng góp ý

kiến của đồng nghiệp và tổ chuyên môn. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
được thực hiện một cách đồng đều ở các lớp, tổ chuyên môn phải lên kế hoạch
và có phương hướng triển khai cụ thể.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các giờ học Ngữ văn cần theo đặc
trưng của môn học và giáo dục theo con đường "mưa dầm thấm lâu" nhẹ nhàng,
tự nhiên, không gượng ép theo kiểu "sống sượng", nhồi nhét hoặc giáo viên rút
ra kĩ năng sống "hộ" học sinh.
Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống
cần phải được sử dụng khoa học, hợp lí, làm sao phát huy được hiệu quả của
cách thức dạy học này mà không rơi vào lạm dụng hay sử dụng mang tính chất
hình thức, đối phó.
Các cấp quản lí: Cần quan tâm, động viên tạo mọi điều kiện để khuyến
khích giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN


1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, khi yếu tố con người được
coi trọng về tiềm năng và trí tuệ, cùng với sức mạnh tri thức thì nhân cách của
con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội.
Hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục là nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện trong nhà trường, nhằm đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạy
người. Một nhà hiền triết đã nói: "Khoa học mà không có hành vi đạo đức thì
chỉ là sự tàn lụi của linh hồn", mà "hành vi đạo đức" chính là kĩ năng sống của
học sinh. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng
và thiết thực trong chiến lược giáo dục toàn diện.
1.2. Hiện nay, tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng, không ít
bộ phận học sinh sống buông thả, thích hưởng thụ, chưa ý thức rèn luyện bản
thân, có biểu hiện lệch lạc về lối sống, suy thoái về nhân cách, đạo đức. Đây

cũng là tình trạng đáng báo động ở Trung tâm giáo dục thường xuyên.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân sâu xa
là do các em thiếu hụt về kĩ năng sống. Do vậy, cần phải giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh để hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân,
khả năng ứng xử phù hợp với những người chung quanh, khả năng ứng phó tích
cực trước những tình huống phức tạp, muôn hình muôn vẻ của cuộc sống.
1.3. Môn Ngữ văn là một môn học có khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Bản
chất của môn Văn là sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật. Để học sinh
có thể vừa cảm thụ, rung động với cái hay cái đẹp của một tác phẩm văn
chương, vừa hình thành các kĩ năng để ứng phó với thực tiễn cuộc sống không
phải điều đơn giản.
Mặt khác, hiện nay trong xu thế chung của xã hội, môn Văn đang mất dần
vị thế của nó, thậm chí trở thành "gánh nặng" đối với học sinh. Thay vào đó, học
sinh chỉ chú trọng đến các môn học khoa học tự nhiên mà "bỏ quên" môn Văn.
Tình trạng trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy Văn. Để trả lại bản
chất nghệ thuật kì diệu cho các giờ học văn, vừa giúp học sinh nhận thức được
các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hoá trong
các tình huống đa dạng của cuộc sống trong một khoảng thời gian có hạn không
phải là việc đơn giản. Do vậy, làm thế nào để tích hợp nội dung giáo dục sống
trong nội dung bài học và thông qua các phương pháp triển khai nội dung bài
học đến nay vẫn là sự thử nhiệm tìm đường của giáo viên dạy Văn.
1.4. Người thợ xây giỏi là người không chỉ biết cách dùng từng đồ nghề
của mình mà còn biết đánh giá dụng cụ nào thích hợp nhất cho từng hoàn cảnh
cụ thể. Phương pháp dạy học cũng giống như đồ nghề của người thợ xây vậy,
chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tuỳ thuộc vào mục đích và


khả năng dạy học cụ thể, nội dung bài dạy cụ thể mà người dạy xác định, lựa
chọn và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp khác nhau nhằm đem lại hiệu

quả cao trong bài dạy của mình. Trong đó, phương pháp dạy học tích cực không
chỉ phát triển khả năng tư duy sáng tạo của người học mà còn tạo cơ hội tối đa
cho các thành viên trong tập thể được bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mình
về nội dung và phương pháp học tập cũng như các lĩnh vực khác, giúp học sinh
có nhiều cơ hội rèn luyện khả năng diễn đạt cách thức tư duy và ý tưởng. Khi sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên có điều kiện để uốn nắn, hình
thành ở học sinh những kĩ năng cần thiết.
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không phải đến nay
mới có song bằng những phương pháp giảng dạy tích cực, giáo viên sẽ giúp học
sinh nâng cao kĩ năng sống của mình một cách nhẹ nhàng nhưng hết sức sâu sắc.
1.5. Trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông, tác giả Lưu Quang
Vũ là cây bút vàng của sân khấu Việt Nam. Vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng
thịt" của ông được xếp vào những vở kịch kinh điển của nền kịch nói Việt Nam.
Mặc dù khai thác chất liệu dân gian nhưng tác giả đã thổi vào đó những triết lí
về cuộc đời, những vấn đề của cuộc sống hiện đại mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Tác giả của vở kịch đã trở thành "người trong cõi nhớ" nhưng đứa con tinh
thần của ông - "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" thì vẫn sống mãi với thời gian,
vẫn lay thức tâm hồn bao thế hệ để họ tìm ra lẽ sống đúng đắn cho mình. Chính
vì vậy, chức năng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong vở kịch này là không
cùng.
1.6. Xuất phát từ những lí do trên, bản thân là một giáo viên dạy Văn
giảng dạy trong Trung tâm Giáo dục thường xuyên, tôi luôn có tâm nguyện
muốn học sinh của mình có khả năng thích ứng với cuộc sống mới, biết tự chủ,
sống có bản lĩnh, có nhân cách. Đây chính là lí do tôi đi sâu tìm hiểu và thực
hiện đề tài "Giáo dục kĩ năng sống trong giờ đọc hiểu Hồn Trương Ba, da
hàng thịt của Lưu Quang Vũ".
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1. Quan niệm về kĩ năng sống
2.1.1. Khái niêm
Theo WHO: "Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một cách có

hiệu quả với những thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá
nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành
vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hoá và môi
trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát
huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng
sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội này".


Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái
độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm
gì?) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào hay tin tưởng vào giá trị
nào?), thành hành động (làm gì và làm như thế nào?).
Như vậy, kĩ năng sống chính là năng lực, khả năng tâm lí - xã hội của con
người có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình
huống và giao tiếp có hiệu quả.
2.1.2. Phân loại
Trong giáo dục chính quy của nước ta những năm vừa qua, kĩ năng sống
được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau:
Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng
sống cụ thể như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm
kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin...
Nhóm các kĩ năng tự nhận biết và sống với người khác, bao gồm các kĩ
năng cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ
chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,...
Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm kĩ năng cụ thể
như: tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, ra quyết
định, giải quyết vấn đề...
2.1.3. Ý nghĩa của giáo dục kĩ năng sống.
Có thể nói, kĩ năng sống chính là những nhịp cầu giúp con người biến

kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ
năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, biết ứng
xử giải quyết vấn đề một cách tích cực, phù hợp.
Giáo dục kĩ năng sống càng trở nên cấp thiết đối với học sinh Trung học
phổ thông. Các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người
quyết định sự phát triển của đất nước. Mặt khác, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi
đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm
tòi khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm
sống, sức đề kháng chưa cao nên dễ bị lôi cuốn kích động. Nếu không có kĩ
năng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt được trách nhiệm đối với bản thân,
gia đình, xã hội.
Đặc biệt, việc giáo dục tích hợp kĩ năng sống vào tiết dạy Văn càng trở
thành một nhu cầu bức thiết:
Thứ nhất, trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng
phù hợp. Từ đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,
tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực. Kĩ năng sống giúp học sinh
có khả năng ứng phó phù hợp, linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống


hàng ngày. Kĩ năng sống giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng
tính thực hành.
Thứ hai, tiết học có lồng ghép giáo dục kĩ năng sống bao giờ cũng thân
thiện, tích cực, tạo điều kiện cho học sinh thực hành và phát huy tối đa năng lực
của bản thân.
Thứ ba, tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của
mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Có thể nói, giáo dục kĩ năng sống có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
giúp học sinh biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những
thách thức của cuộc sống. Từ đó, rèn cho học sinh sống có trách nhiệm với bản
thân, gia đình, cộng đồng, mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tự

quyết định là lựa chọn những hành vi đúng đắn.
2.2. Các phương pháp dạy học tích cực
2.2.1. Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo
từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,
một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng
thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình mà
còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên trong nhóm.
Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng:
đảm nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn,
giải quyết vấn đề.
2.2.2. Phương pháp trò chơi
A.I.Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù của
dạy học kết hợp với trò chơi: "Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là
hình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi... Khi các mối quan hệ chơi bị
xoá bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học,
đôi khi biến thành sự luyện tập". Vì vậy có thể kết luận: học và chơi là hai việc
không loại trừ lẫn nhau. Trò chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầu
hết các chủ đề hoặc đề tài trong nội dung học tập.
Bản chất của phương pháp trò chơi là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt
động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động
bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tả mục tiêu
của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc
biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Trò chơi học tập khác với trò chơi khác ở chỗ: nhiệm vụ nhận thức và luật
chơi trong trò chơi, đòi hỏi người chơi phải huy động trí óc làm việc thực sự
nhưng chúng lại được thực hiện dưới hình thức vui vẻ, thú vị. Học trong quá
trình chơi là quá trình lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, khơi



dậy hứng thú tự nguyện và giảm thiểu sự căng thẳng cho học sinh. Học tập
thông qua trò chơi sẽ giúp học sinh ghi nhớ tri thức dễ dàng và bền vững hơn.
Trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khác
nhau mà không có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận được
một cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích cực, mở
rộng, củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người học.
Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến
thức, kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Việc tạo ra trò chơi
mà học không chỉ giúp học sinh khắc sâu tri thức, nâng cao nhận thức mà còn
tăng cường các kĩ năng sống cho học sinh như: biết ứng xử linh hoạt, quan hệ
tích cực và hợp tác,...
2.2.3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày
những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một "vai giả định". Đây là phương
pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách
đừng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ
thể mà các em quan sát từ vai của mình.
Thực hiện phương pháp đóng vai, học sinh được rèn luyện, thực hành
những kĩ năng ứng xử, bày tỏ thái độ trong mỗi trường an toàn trước khi thực
hành trong thực tiễn. Mặt khác, phương pháp gây hứng thú và chú ý cho học
sinh, giúp học sinh hình thành kĩ năng giao tiếp, có cơ hội bộc lộ cảm xúc, đồng
thời tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổi
thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung quan trọng và thiết
thực trong chiến lược giáo dục toàn diện. Chưa bao giờ xã hội, đặc biệt là ngành
giáo dục lại ý thức rõ cần phải truyền đạt các kĩ năng sống cho học sinh trong
thời kì hội nhập như bây giờ. Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập
huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lí, giáo viên về giáo dục kĩ năng sống cho học

sinh phổ thông, hướng dẫn tích hợp kĩ năng sống trong các môn học ở phổ
thông.
Mặt khác, mục tiêu và nội dung của môn Ngữ văn đã chứa đựng những
yếu tố của giáo dục kĩ năng sống, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dục
kĩ năng sống, phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên
cơ sở nhận thức về các nội dung của môn Ngữ văn. Đặc biệt, văn bản "Hồn
Trương Ba, da hàng thịt" là một tác phẩm chứa đựng những triết lí nhân sinh,
chứa đựng những yếu tố phù hợp trong việc hình thành kĩ năng sống cho học
sinh.


Hiện nay, hầu hết giáo viên đã nắm rõ đặc trưng cực các phương pháp dạy
học tích cực và vận dụng linh hoạt trong các giờ dạy học Ngữ văn. Nếu được sử
dụng phù hợp, mềm dẻo thì việc giáo dục kĩ năng sống sẽ phát huy hiệu quả tối
đa.
3.2. Khó khăn
Tuy nhiên, trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông, văn bản
kịch là một thể loại không mới song khó, hơn nữa chiếm tỉ lệ quá khiêm tốn so
với các văn bản thơ và văn xuôi. Kinh nghiệm thưởng thức kịch hạn chế, kĩ năng
giảng dạy chưa nhiều. Ý thức học tập và sự yêu thích kịch chưa trở thành niềm
đam mê của học sinh, mặt khác các em ít hoặc chưa từng được trực tiếp xem
biểu diễn kịch trên sân khấu.
Mặt khác, thời gian dạy 2 tiết rất ngắn, nhất là với trích đoạn kịch mang
tính triết lí thâm trầm, sâu sắc như "Hồn Trương Ba, da hàng thịt", việc lồng
ghép kĩ năng sống cũng chỉ trong một thời gian hạn hẹp, vậy giáo viên khó kết
hợp nếu không khéo léo.
Qua số liệu điều tra sơ bộ nhận thức của học sinh về tác dụng của kĩ năng
sống của môn Ngữ văn ở 2 lớp dạy (80 học sinh) và đã thu được kết quả như
sau:
ST Nội dung câu hỏi

Kết quả
T
1
Theo em, học Văn có giúp em nâng cao giá trị Có
52/80
Có nhưng không 28/80
nhận thức không?
thực tế
2
Theo em, học Văn có giúp em điều chỉnh hành Có
40/80
Không
3/80
vi không?
Không trả lời
37/80
3
Theo em, học Văn có ý nghĩa không?

80/80
4
Theo em, học văn có cần thiết không
Cần
62/80
Không cần
18/80
Dựa trên những số liệu thống kê, có thể thấy đa số các em nhận định văn
học là môn học bổ ích, có ý nghĩa nhưng chủ yếu các em cho rằng học văn
không thực tế. Các em còn mơ hồ về khả năng áp dụng thực tiễn của môn học và
cho rằng văn học thuần tuý là món ăn tinh thần, không có ý nghĩa thiết thực đối

với cuộc sống. Chính vì vậy, cần có những giải pháp giúp các em nhận ra giá trị
của môn Văn, đồng thời hình thành những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết để phát
triển con người toàn diện.
4. Các giải pháp thực hiện
Giáo dục kĩ năng sống qua việc sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực là một trong những con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Song, tiết học có
thành công hay không phụ thuộc vào sự linh động, sáng tạo của người giáo viên


trong việc lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với đặc trưng
thể loại và nội dung của từng bài học. Vì thế, có thể nói mỗi phương pháp đều
có những điểm rêng mà người giáo viên bằng kinh nghiệm và năng lực của mình
phải lựa chọn, ứng dụng sao cho hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ một sáng kiến
kinh nghiệm, người viết chỉ trình bày một số vận dụng mà bản thân nhận thấy có
hiệu quả tích cực trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở ba phương pháp:
phương pháp trò chơi, phương pháp dạy học nhóm, phương pháp đóng vai.
4.1. Phương pháp dạy học nhóm
Tổ chức học sinh làm việc theo nhóm là một biện pháp hữu hiệu để học
sinh chiếm lĩnh các đơn vị kiến thức một cách chủ động, dân chủ. Hình thức làm
việc hợp tác, theo hình thức nhóm sẽ tạo ra sự tương tác mạnh mẽ giữa các học
sinh trong nhóm, trong lớp, tạo bầu không khí đối thoại dân chủ, cởi mở. Tuy
nhiên hình thức này cũng cần phối hợp với các biện pháp khác và không phải
giờ học nào cũng có thể tổ chức cho học sinh thảo luạn nhóm. Mặt khác, người
giáo viên phải biết cách tổ chức, định hướng hoạt động nhóm của học sinh sao
cho hiệu quả, không khiên cưỡng, áp đặt mang tính hình thức.
Trong phương pháp dạy học nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhóm
khác nhau. Nếu hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ,
tối đã 10 học sinh một nhóm để học sinh có điều kiện để thảo luận với nhau. Các
nhóm này cũng không nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của giáo viên. Việc
phân chia nhóm linh hoạt sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, đồng thời tạo cơ hội

cho các học sinh được học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. Ví dụ, giáo viên
có thể chia nhóm theo cách gộp hai bàn kế nhau làm một nhóm, với mô hình lớp
học phổ biến trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay thì cách chia này hiệu
quả vì học sinh dễ dàng xoay chuyển để thảo luận cùng nhau, hoặc trong trường
hợp vấn đề cần thảo luận không quá khó, ta có thể chia theo nhóm đơn vị một
bàn là một nhóm, ngoài ra cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở thích,
theo đặc điểm,... Tuỳ từng mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được
phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong
từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác.
Khi thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởng
nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong
nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ý lại vào một vài
người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau
tìm hiểu vấn đề nêu ra trong bầu không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả
làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để
trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại
diện hoặc phân công mỗi thành viên trình vày một phần nếu nhiệm vụ giao cho
nhóm phức tạp.


Giáo viên có thể áp dụng phương pháp thảo luận nhóm khi dạy đoạn trích
"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" theo các bước:
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ: Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác
hàng thịt.
-> Thời gian: 3 phút.
-> Phương tiện hỗ trợ: phiếu học tập.
PHIẾU HỌC TẬP
Tên nhóm:.......................................................................................................
Thành viên trong nhóm:..................................................................................
Lớp:..................................................................................................................

Trường:...........................................................................................................
Nhiệm vụ:…...................................................................................................
Trả lời:
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
- Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
+ Nhóm 1: Mục đích cuộc đối thoại.
+ Nhóm 2: Cử chỉ của hồn Trương Ba và xác hàng thịt.
+ Nhóm 3: Xưng hô, giọng điệu.
+ Nhóm 4: Vị thế
- Học sinh thảo luận.
Bước 4: Trình bày kết quả
- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận, các thành viên của nhóm có
thể bổ sung thêm.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- GV đúc kết, bổ sung ý kiến, nhấn mạnh nội dung quan trọng bằng trình
chiếu.
Trong quá trình học sinh trình bày, giáo viên nên khuyến khích các nhóm
tham gia thảo luận để bảo vệ quan điểm của mình. Đồng thời khi nhận xét, cho
điểm giáo viên cũng nên hướng các em đến các kĩ năng xử lí tình huống như:
không trừ điểm nếu học sinh không trả lời được câu hỏi của học sinh khác
nhưng có cách xử lí hay. Chẳng hạn, nếu học sinh biết cách chất vấn ngược lại
hoặc tìm cách hứa hẹn trả lời sau. Với những giải pháp này, học sinh sẽ dạn dĩ
hơn, xử lí tình huống nhanh, đồng thời hạn chế được việc học sinh tìm cách né
tránh hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho bạn trong nhóm.



Với phương pháp dạy học nhóm, giáo viên sẽ rèn luyện cho học sinh kĩ
năng đảm nhận trách nhiệm, thể hiện sự tự tin, chủ động và có ý thức chia sẻ
công việc với các thành viên khác trong nhóm. Mặt khác, kĩ năng hợp tác cũng
được hình thành trong quá trình thảo luận, vì học sinh cùng chung sức làm việc,
giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, vì mục đích chung. Đồng thời, với
phương pháp này, kĩ năng lắng nghe tích cực được phát huy. Khi các nhóm trình
bày kết quả thảo luận, học sinh sẽ thể hiện được sự tập trung chú ý, thể hiện
được sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác, biết cho
ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời hồi đáp trong quá trình giao
tiếp.
4.2. Phương pháp trò chơi.
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay
thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò
chơi nào đó.
Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu
niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục.
Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì
vậy, trò chơi được sử dụng như một phương pháp dạy học quan trọng.
Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể hiện những thái độ, hành vi. Chính
nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin và những thái độ
và hành vi tích cực, tạo ra động lực bên trong cho những hành vi ứng xử trong
cuộc sống. Mặt khác, qua trò chơi học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết
định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong mọi tình huống,
hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
Phương pháp trò chơi có thể tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thú
cho học sinh đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã học
qua, hoặc sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng giáo viên
cũng có thể thực hiện phương pháp trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết các

hoạt động của bài học, tạo sự chuyển ngoặt sôi nổi, hợp lí. Đặc biệt, giáo viên có
thể tổ chức các trò chơi trong các bài ôn tập nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thống
các kiến thức đã học theo những đơn vị nhất định.
Việc tổ chức trò chơi rất đa dạng, học sinh có thể tham gia chơi dưới
nhiều hình thức. Luật chơi phụ thuộc vào nội dung và mục đích, bởi cùng một
nội dung nhưng có thể chơi với nhiều cách khác nhau như: Ghép đáp án đúng,
ghép tranh đoán nội dung, giải ô chữ...
Người tổ chức chơi thông thường là giáo viên, nhưng trong một số trường
hợp giáo viên có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trò chơi.


Tuy nhiên, để học sinh làm tốt vai trò của mình, giáo viên phải có những
chỉ dẫn cụ thể như đưa ra hình thức chơi mà học sinh có thể áp dụng và hình
dung ra phải làm như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, giáo viên
cũng phải kiểm tra trước hệ thống câu hỏi học sinh các nhóm đã xây dựng để
giúp học sinh có những điều chỉnh đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩ
nhiên là giáo viên cũng chỉ dẫn dắt, góp ý chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉ
việc để học sinh được phát huy khả năng sáng tạo của mình. Giáo viên có thể
cho học sinh các nhóm lần lượt triển khai trò chơi của mình rồi chốt lại cuối
cùng nhưng vẫn có thế xen kẽ phần thực hiện của học sinh với phần củng cố của
giáo viên.
Với phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thú
hơn mà học sinh còn được rèn luyện, nâng cao các kĩ năng như hợp tác, tổ chức,
dẫn dắt vấn đề, xử lí tình huống,... Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học bằng
phương pháp trò chơi, giáo viên phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định để
học sinh chơi trong luật, có ổn định trật tự bởi với mô hình lớp học trong trường
phổ thông của chúng ta hiện nay rất khó cho giáo viên tổ chức phương pháp này
mà không ảnh hưởng đến các lớp học xung quanh. Đây cũng là điều mà người
viết gặp khó khăn nhất khi tổ chức phương pháp dạy học bằng phương pháp trò
chơi, bởi khi đã chơi là có thắng - thua vì vậy học sinh dễ phấn khích và ồn ào

hơn các giờ học thông thường, ngoài ra cũng không ngoại trừ trường hợp học
sinh cố tình gây rối. Dù có những khó khăn nhất định nhưng phương pháp dạy
học này đã khắc phục phần nào nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, là một
trong những phương pháp hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho học sinh trong
giờ học môn Văn và rèn luyện KNS hữu hiệu cho các em.
Với đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt", khi tổ chức hoạt động dạy
học giáo viên có thể áp dụng phương pháp trò chơi như một phương pháp tối ưu.
Phương pháp trò chơi có thể áp dụng ngay từ đầu tiết học dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Chẳng hạn, khi cho học sinh tìm hiểu về tác giả Lưu Quang Vũ,
giáo viên có thể tổ chức trò chơi với tên "Ai nhanh hơn". Cụ thể: Giáo viên cho
HS xem một video giới thiệu Tiểu sử Lưu Quang Vũ. Sau khi xem xong, người
tham gia chơi sẽ ghi nhanh lên bảng những thông tin về nhà văn Lưu Quang Vũ.
Thời gian chơi: 2 phút. Số người tham gia: 3 người chơi. Mỗi thông tin đúng sẽ
được 2 điểm, thông tin sai sẽ không có điểm.
Hoặc giáo viên cũng có thể sử dụng phương pháp trò chơi khi củng cố
kiến thức cho học sinh ở cuối bài. Giáo viên có thể chia bảng làm hai phần và
ghi tiêu đề "Nên" và "Không nên", sau đó chia lớp thành hai nhóm. Học sinh
mỗi nhóm thay nhau lên bảng ghi ra những bài học nên hay không nên trong
cuộc sống mà mình rút ra từ đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Thời gian
quy định là 3 phút. Sau đó, học sinh của nhóm này nhận xét, đánh giá mức độ


đúng sai, phù hợp của các bài học nhân sinh của nhóm kia. Giáo viên sẽ là người
nhận xét và qua đó củng cố kiến thức trong bài.
Khi tham gia vào trò chơi, các em sẽ được hình thành kĩ năng một số kĩ
năng cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giải
quyết căng thẳng, biết ứng xử linh hoạt, quan hệ tích cực và hợp tác,...
4.3. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là một trong những phương pháp tối ưu, giúp học
sinh phát triển trí tuệ, phát huy các kĩ năng và thao tác tư duy thông qua hoạt

động "đóng vai", ứng xử tình huống.
Trong môn Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số
nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể
thành một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giao
tiếp giả định,...
Giáo viên khi sử dụng phương pháp đóng vai phải đảm bảo các yêu cầu:
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục (chủ đề bài học),
phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống nên để mở.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống của bài tập
để đóng vai không lạc đề.
- Nên khích lệ học sinh nhút nhát cùng tham gia.
Sử dụng phương pháp đóng vai sẽ giúp người học phát huy được tính tích
cực, tự giác, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng kĩ xảo một cách
vững chắc, phát triển trí tuệ người học và đặc biệt hình thành những kĩ năng
sống tích cực cho học sinh.
Áp dụng phương pháp đóng vai khi dạy văn bản "Hồn Trương Ba, da
hàng thịt" của Lưu Quang Vũ, giáo viên có thể cho học sinh đóng vai nhà văn kể
lại câu chuyện của mình hoặc đóng vai một nhân vật nào đó trong vở kịch kể lại
câu chuyện. Hình thức này sẽ giúp học sinh thấy hấp dẫn khi tưởng tượng mình
chính là tác giả hay nhân vật của tác phẩm văn học, tránh tình trạng nhàm chán
trong giờ học văn. Mặt khác, giáo viên không chỉ định hướng học sinh tìm hiểu
về tác giả mà còn giúp các em rèn luyện khả năng thuyết trình, khả năng trả lời
phỏng vấn, rèn luyện sự tự tin vào bản thân.
Hoặc giáo viên cũng có thể tổ chức một cuộc phỏng vấn ở cuối bài học,
giúp học sinh củng cố lại kiến thức đã học. Trong hoạt động này, giáo viên có
thể cho học sinh đóng vai người phỏng vấn:
Học sinh 1: Bạn vừa được học đoạn trích vở kịch "Hồn Trương Ba, da
hàng thịt", bạn có cảm nghĩ gì về đoạn trích trên?
Học sinh 2 (dự kiến): Tôi rất ấn tượng với đoạn trích được học, đặc biệt là

những trăn trở, suy nghĩ và quyết định của Trương Ba...


Học sinh 1: Điều gì ở Trương Ba đã khiến bạn xúc động đến vậy?
Học sinh 2 (dự kiến): Trương Ba là một người làm vườn tốt bụng, nhân
hậu, có tâm hồn thanh cao, trong sạch. Dù Trương Ba rơi vào hoàn cảnh bi kịch
song ông vẫn luôn cố gắng đấu tranh với chính thể xác phàm tục của anh hàng
thịt. Dù cuộc đấu tranh đó căng thẳng, mệt mỏi như thế nào, Trương Ba cũng
không hề chùn bước. Tôi đặc biệt xúc động trước quyết định của Trương Ba,
ông đã chấp nhận ra đi vĩnh viên. Đây không phải là một quyết định dễ dàng,
nhưng quyết định đó đã giúp tâm hồn ông thanh thản,...
Với cách thức trên, giáo viên không chỉ củng cố cho học sinh những kiến
thức cơ bản mà còn giúp cho giờ học không trở nên khô khan, nhàm chán, thụ
động. Đặc biệt, bằng phương pháp đóng vai, giáo viên sẽ giáo dục học sinh số kĩ
năng cơ bản như:
- Kĩ năng giao tiếp: Đóng vai đòi hỏi học sinh phải chủ động trong quá
trình học tập. Mặt khác, trong quá trình tham gia đóng vai, học sinh sẽ được
hình thành kĩ năng trong giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể,
từ đó giúp học sinh biết cách giao tiếp, ứng xử với bạn bè cùng trang lứa, với
những người xung quanh.
- Kĩ năng giải quyết tình huống: Thông qua đóng vai, học sinh thể hiện
nhận thức, thái độ của mình trong tình huống cụ thể và học sinh phải có cách
ứng xử sao cho phù hợp với tình huống đó. Đồng thời thông qua vai diễn, HS
được bộc lộ khả năng giao tiếp, khả năng tự giải quyết các vấn đề về sức khoẻ,
các tình huống trong cuộc sống.
- Kĩ năng thuyết trình: Thông qua việc hoá thân vào vai diễn, học sinh sẽ
trở lên tự tin hơn khi đứng trước đám đông. Nếu được thực hành nhiều, bản thân
học sinh sẽ tự rút ra kinh nhiệm cho bản thân để làm sao thuyết phục được người
nghe, để "truyền lửa" cho "khán giả" của mình.
- Kĩ năng nhận thức và cảm thông: Khi học sinh có thể hình dung và đặt

mình trong hoàn cảnh của người khác sẽ giúp các em hiểu và chấp nhận người
khác, có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với họ,
từ đó các em sẽ hình thành kĩ năng thể hiện sự cảm thông. Đây cũng là những kĩ
năng quan trọng, cần thiết trong cuộc sống mà các em có thể được hình thành
thông qua bài học.
Như vậy, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ tạo điều kiện,
cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình
học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung bài
học mà ngược lại còn làm giờ học trở nên hứng thú, thiết thực và bổ ích với học
sinh.


4.4. Giáo án thực nghiệm
Tuần: 27
Tiết thứ: 78- 79
Đọc văn: HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
( Trích kịch “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt ”- Lưu Quang Vũ).
I. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Cảm nhận được bi kịch của con người khi đặt vào nghịch cảnh phải sống
nhờ, sống tạm trái tự nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc
đấu tranh chống lại sự giả tạo, sự dung tục.
- Thấy được những đặc sắc nghệ thuật kịch Lưu Quang Vũ qua đoạn trích
cụ thể.
2. Kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu kịch bản văn học theo đặc trưng thể loại.
3. Thái độ:
Học sinh sau khi học xong văn bản phải biết lựa chọn cho mình cách sống
phù hợp.
4. Năng lực
- Năng lực đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại.

- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận.
- Năng lực hợp tác.
- Năng lực giao tiếp.
II. Chuẩn bị :
1. Giáo viên:
- Phương pháp: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực:
phương pháp trò chơi, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai,...
- Phương tiện:
+ Máy chiếu: trình chiếu các tranh ảnh về tác giả, về một số đoạn trong vở
kịch, các sơ đồ khái quát về đặc điểm, cấu trúc kịch bản văn học.
+ Phiếu học tập.
2. Học sinh:
+ Đọc kĩ đoạn trích, soạn những câu hỏi trong hướng dẫn học bài vào vở
soạn.
+ Tham khảo tư liệu có liên quan.
+ Đọc văn bản đoạn trích (đọc nhiều lần ở nhà, đọc thầm, đọc kĩ,...)
+ Tóm tắt vở kịch, đoạn trích; so sánh, đối chiếu với văn bản truyện cổ
tích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".


III. Tiến trình lên lớp:
1. Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới:
Giới thiệu bài mới: Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ từng viết: "Người ta chỉ
chết hẳn khi không còn sống trong lòng người khác nữa. Ngoài thế giới của
những người đang sống và cõi im lặng của những người chết, còn một cõi thứ
ba nữa: đó là cõi những người sống trong trí nhớ người khác, những người
không bị lãng quên". Và quả thực, tác giả của những dòng trên sẽ mãi sống

trong "cõi nhớ" thương của mọi người bởi những đóng góp của ông cho nền sân
khấu Việt Nam, bởi tài năng và sự miệt mài cố gắng, phấn đấu không ngừng
nghỉ của ông, bởi cuộc đời ngắn ngủ nhưng vinh quang của ông. Ông là nhà viết
kịch tài hoa Lưu Quang Vũ. Hôm nay, chúng ta sẽ có cơ hội hiểu thêm về ông
cũng như tác phẩm của ông qua đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" - một
vở kịch được sáng tác dựa trên một cốt truyện dân gian nhưng mang trong mình
những bài học luôn mới mẻ cho muôn đời.
Hoạt động của thầy và trò
Kiến thức cần đạt
Hoạt động 1
I. Tìm hiểu chung
- GV tổ chức trò chơi: Ai nhanh hơn.
1. Tác giả:
-> Luật chơi:
- Lưu Quang Vũ ( 1948- 1988)
+ GV chiếu đoạn video tư liệu về Lưu - Quê quán: Quê ở thành phố Đà
Quang Vũ.
Nẵng, sinh ra ở huyện Hạ Hoà, tỉnh
+ Trong vòng 2 phút, 2 bạn chơi lên Phú Thọ.
bảng ghi nhanh những thông tin về - Gia đình: Ông sinh ra trong một gia
Lưu Quang Vũ. Mỗi thông tin đúng sẽ đình có truyền thống nghệ thuật.
được 2 điểm, sau không có điểm.
- Con người: Từ nhỏ Lưu Quang Vũ
- HS tham gia chơi.
đã sớm bộc lộ một tâm hồn đa cảm,
- GV nhận xét, chốt ý, mở rộng.
tài hoa và yêu thích văn học. Khi
trưởng thành, ông luôn tâm huyết với
nghề nghiệp và có sức sáng tạo bền
bỉ.

- Sự nghiệp văn học: Lưu Quang Vũ
là một tài năng đa dạng nhưng kịch là
phần đóng góp đặc sắc nhất. Ông
được coi là một hiện tượng đặc biệt
của sân khấu, một trong những nhà
soạn kịch tài năng nhất của văn học
Việt Nam hiện đại.
- GV: Giới thiệu một số đặc điểm của 2. Tác phẩm:


thể loại kịch.
- HS lắng nghe.
- GV hỏi: Vở kịch "Hồn Trương Ba, da
hàng thịt" được ra đời vào năm nào?
Tác giả sáng tác vở kịch dựa trên cơ sở
nào?
- HS trả lời.
- GV: Cho học sinh đóng vai nhà văn
kể lại câu chuyện hoặc cho học sinh
đóng vai một nhân vật chính kể lại câu
chuyện của đời mình.
- HS nhập vai, tóm tắt truyện.
- GV nhận xét, chốt kiến thức bằng sơ
đồ tư duy.
- GV hỏi: Giới thiệu về vị trí của đoạn
trích trong vở kịch "Hồn Trương Ba,
da hàng thịt"?
- HS trả lời.

- Thời gian sáng tác: Vở kịch được

viết vào năm 1981, được công diễn
vào năm 1984.
- Cơ sở sáng tác: Từ một cốt truyện
dân gian, tác giả đã xây dựng thành
một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều
vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng,
triết lí và nhân văn sâu sắc.
- Vị trí vở kịch: Đây là một trong
những vở kịch đặc sắc, gây tiếng vang
nhất của Lưu Quang Vũ, thể hiện rõ
nhất đặc trưng phong cách kịch của
Lưu Quang Vũ, được công diễn nhiều
lần ở trong và ngoài nước.
c. Đoạn trích
- Trích cảnh VII và đoạn kết trong vở
kịch, diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và
quyết định cuối cùng của Hồn Trương
Ba.
- GV hướng dẫn HS đọc phân vai, với - Bố cục: 3 lớp
yêu cầu: Đọc diễn cảm, chú ý ngữ + Lớp 1: Cuộc đối thoại giữa hồn và
điệu, lời thoại giữa các nhân vật.
xác hàng thịt.
-> Nhận xét cách đọc của HS.
+ Lớp 2: Đối thoại giữa Hồn Trương
- GV: Có thể chia đoạn trích thành mấy Ba và người thân.
phần? Nội dung chính của từng phần? + Lớp 3: Đối thoại giữa Trương Ba và
- HS trao đổi nhóm, trả lời.
Đế Thích.
Hoạt động 2
GV hướng dẫn HS tìm hiểu cuộc đối II, Đọc- Hiểu văn bản:

thoại giữa Hồn Trương Ba và xác hàng
1. Đối thoại giữa hồn Trương Ba
thịt.
và xác hàng thịt.
- GV sử dụng phương pháp thảo luận - Mục đích:
nhóm:
+ Hồn Trương Ba: Phủ định sự tác
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ: động của thể xác với linh hồn, coi xác
Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác thịt chỉ là cái vỏ bề ngoài không có ý
hàng thịt.
nghĩa. Khẳng định linh hồn có đời
-> Thời gian: 3 phút.
sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,
-> Phương tiện hỗ trợ: phiếu học thẳng thắn.
tập.
+ Xác hàng thịt: Khẳng định sự âm u,
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
đui mù của thể xác có sức mạnh ghê


- Giáo viên chia lớp thành 3
nhóm, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
+ Nhóm 1: Mục đích cuộc đối
thoại.
+ Nhóm 2: Cử chỉ của hồn
Trương Ba và xác hàng thịt.
+ Nhóm 3: Xưng hô, giọng điệu.
+ Nhóm 4: Vị thế
- Học sinh thảo luận.
Bước 4: Trình bày kết quả

- Đại diện nhóm trình bày kết
quả thảo luận, các thành viên của
nhóm có thể bổ sung thêm.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ
sung.
- GV đúc kết, bổ sung ý kiến,
nhấn mạnh nội dung quan trọng bằng
trình chiếu.

gớm, có khả năng lấn át, điều khiển
linh hồn cao khiết, dồn Trương Ba
vào thế đuối kí, phải thoả hiệp, quy
phục.
- Cử chỉ:
+ Hồn Trương Ba: ôm đầu, đứng vụt
dậy, nhìn chân tay, thân thể, bịt tai lại
-> Uất ức, tức giận, bất lực.
+ Xác hàng thịt: lắc đầu, tỏ vẻ thương
hại.
- Xưng hô:
+ Hồn Trương Ba: "mày - ta".
-> Khinh bỉ, xem thường.
+ Xác hàng thịt: lắc đầu, tỏ vẻ thương
hại.
- Giọng điệu:
+ Hồn Trương Ba: Giận dữ, khinh bỉ,
mắng mở, ngậm ngùi, thấm thía, tuyệt
vọng.
+ Xác hàng thịt: Khi thì ngạo nghễ
thách thức, khi thì buồn rầu, an ủi...

- Vị thế:
+ Hồn Trương Ba: Bị động, kháng cự
yếu ớt, đuối lí
+ Xác hàng thịt: Đặt nhiều câu hỏi
phản biện -> Thắng thế, buộc được
- GV: Nhận xét về cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba quy phục.
hồ Trương Ba và xác hàng thịt? Qua * Nhận xét:
cuộc đối thoại này, tác giả muốn gửi + Thực chất: Là cuộc giao tranh giữa
gắm thông điệp gì đến người đọc?
tâm hồn và thể xác, là cuộc đấu tranh
- HS nhận xét, cảm nhận.
giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát
vọng và dục vọng, giữa phần "người"
và phần "con" trong mỗi con người.
+ Diễn biến: Căng thẳng, quyết liệt
nhưng mức độ cuộc tranh luận cứ yếu
ớt dần theo sự phản ứng của phần
hồn.
+ Kết quả: Xác hàng thịt thắng thế,
hồn Trương Ba đau đớn, tuyệt vọng,


- GV nêu câu hỏi gợi mở: Trước những
thay đổi của Trương Ba, những người
thân của ông phản ứng như thế nào?
- HS suy nghĩ, trả lời.

- GV định hướng học sinh tìm hiểu
đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật
Trương Ba: Qua đoạn độc thoại nội


cam chịu, chấp nhận sống chung với
xác hàng thịt dung tục.
- Ý nghĩa:
+ Thể hiện bi kich đau đớn của
Trương Ba: Linh hồn cao khiết, thanh
tao nhưng phải trú ngụ trong thân xác
hàng thịt phàm tục, thô thiển và bị
thân xác chi phối, chế ngự, điều
khiển.
+ Cảnh báo: Khi con người phải sống
chung với cái dung tục sẽ bị cái dung
tục ngự trị, lấn át, tàn phá những gì tốt
đẹp, cao quí trong con người.
2. Đối thoại giữa Trương Ba và
người thân
- Vợ: Buồn bã, đau khổ, muốn bỏ đi
thật xa.
-> Nguyên nhân: Trương Ba không
còn là Trương Ba.
- Cháu: Quyết liệt, dữ dội, xua đuổi,
nguyền rủa.
-> Nguyên nhân: tâm hồn con trẻ
trong sáng, không chấp nhận sự dung
tục.
- Con dâu: thương cảm, đau đớn, xót
xa.
-> Nguyên nhân: thấy cảnh "cửa nhà
tan hoang" và không làm sao giữ
được người cha hiền hậu, vui vẻ, tốt

lành xưa kia.
=> Tất cả những người thân xung
quanh ông đều cố gắng thích nghi với
hoàn cảnh mới nhưng càng ngày càng
không thể chấp nhận được sự thật,
càng ngày càng đau đớn, thất vọng, lo
lắng, bế tắc khi nhận ra sự thay đổi
của Trương Ba.
- Tâm trạng của Trương Ba:
+ "Mày đã thắng rồi đấy...tự đánh


tâm của Trương Ba, tâm trạng nhân vật
đã hiện ra như thế nào?
- HS tìm chi tiết, cảm nhận.
- GV gợi dẫn và giảng bình một số chi
tiết để học sinh có thể cảm sâu nội tâm
của Trương Ba.

- GV: Ý nghĩa cuộc đối thoại gữa hồn
Trương Ba và người thân?
- HS nhận xét.

- GV: Qua cuộc đối thoại này, tác giả
muốn gửi gắm bức thông điệp gì?
- HS rút ra thông điệp.

- GV chuyển ý và nêu câu hỏi: Tiên Đế
Thích có thái độ như thế nào trước
quyết định của hồn Trương Ba? Qua

đó thể hiện quan niệm về ý nghĩa sự
sống của tiên Đế Thích như thế nào?
- HS phát hiện, khái quát.

mất mình?" -> Câu hỏi tự vấn bộ lộ
day dứt nội tâm, đấu tranh với chính
mình.
+ "Không cần đến đời sống do mày
đem lại! Không cần!" -> Quyết định
dứt khoát, không chung sống với xác
hàng thịt.
=> Sau khi đối thoai với người thân,
hồn Trương Ba đau khổ đến tột cùng
khi nhận thấy không chỉ mình chịu
khổ mà xót xa hơn khi những người
thân của mình cũng chịu sự đau khổ
và bị đảo lộn cuộc sống, thậm chí họ
còn đau khổ hơn lúc ông sống.
- Ý nghĩa:
+ Tô đậm bi kịch đau khổ đến tột
cùng của hồn Trương Ba khi nhận
thấy không chỉ mình đau khổ mà xót
xa hơn khi những người thân của
mình cũng chịu sự đau khổ, thậm chí
họ còn đau khổ hơn lúc chôn ông
xuống đất.
+ Đưa xung đột kịch lên tới đỉnh điểm
dẫn tới quyết định đứt khoát, quyết
liệt của hồn Trương Ba không sống
chung với xác thịt dung tục.

=> Thông điệp: Cái quý nhất của con
người là cuộc sống. Nhưng không
phải bất cứ cách sống, kiểu sống nào.
Sống mà đánh mất bản thân, sống giả
dối với chính mình thì thà chết cong
hơn.
3. Hồn Trương Ba trong cuộc đối
thoại với Đế Thích:
a. Tiên Đế Thích.
- Thái độ: Ngạc nhiên trước quyết
định không sử dụng thân xác anh
hàng thịt của Trương Ba.
- Đề xuất: để hồn Trương Ba nhập vào


- GV hỏi: Hồn Trương Ba đã phản ứng
như thế nào trước những quan niệm
của Đế Thích? Qua đó thể hiện quan
niệm của Trương Ba với cuộc sống
như thế nào?
- HS phát hiện.
- GV hướng dẫn HS liên hệ với thực tế
đời sống.

- GV: Chi tiết cu Tị chết là một bước
ngoặt quan trọng trong quyết định của
hồn Trương Ba. Tại sao Trương Ba
không chịu nhập hồn vào thân xác nhỏ
bé đó? Ông đi đến quyết định gì?
- HS phát hiện.

- GV: Suy nghĩ của anh (chị) về quyết
định của Trương Ba?
- HS cảm nhận.

xác cu Tị.
- Quan niệm:
+ Sống bằng mọi giá.
+ Khẳng định một hiện thực không
phân biệt trần gian hay thượng giới:
không a được toàn vẹn cả.
b. Hồn Trương Ba.
- "Không thể bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo được. Tôi muốn được
là tôi toàn vẹn".
-> Quan niệm: Sống trên đời là một
điều hạnh phúc song không phải là để
tồn tại trên đời, ta sẵn sàng chấp nhận
mọi giá. Sống thế nào mới là quan
trọng, sống có sự hài hoà giữa tâm
hồn trong sạch và thân xác khoẻ
mạnh, đó mới chính là hạnh phúc của
con người.
- "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của
người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải
sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống
như thế nào thì ông chả cần biết".
-> Quan niệm: Cuộc sống thật đáng
quý nhưng sống nhờ, sống gửi, sống

chắp vá, không được là mình thì thật
vô nghĩa. Sống toàn vẹn mới là đời
sống của một con người.
- Quyết định: xin cho cu Tị sống lại,
để mình chết hẳn.
=> Quyết định dũng cảm, sáng suốt
và tất yếu vì ông đã nhận thức được bi
kịch của mình cũng như nguyên nhân
dẫn đến bi kịch đó, nhận thức được lẽ
sống: sống như thế nào là một cuộc
sống trọn vẹn, một cuộc sống hạnh
phúc. Nhận thức được cuộc sống và đi
theo con đường mà mình đã nhận thức


- GV: Từ quyết định của Trương Ba,
Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm thông
điệp gì?
- HS trả lời.

- Gv: Nêu ý nghĩa của hình ảnh màu
xanh lá vườn và lời nói của Trương Ba,
cái Gái?
- HS cảm nhận.
- GV nhận xét, đánh giá.

- GV: Thiên nhiên được khắc hoạ trong
đoạn này như thế nào?
- HS trả lời.


- GV: Sau khi đọc xong đoạn kết, em
có nhận xét gì về ngôn ngữ nhân vật
trong đoạn kết này?
- HS nhận xét.

là một điều tất yếu.
- Thông điệp: Ý nghĩa sâu sắc về lẽ
sống:
+ Con người là một thể thống nhất,
hồn và xác hài hoà. Không thể có một
tâm hồn thanh cao trong một thể xác
phàm tục, tội lỗi.
+ Sống thực là mình, giữ được cuộc
sống lương thiện, trung thực, thanh
cao thật khó khăn. Sống gửi, sống
nhờ, sống giả dối...thì dù có sụng
sướng về vật chất đến đâu cũng vẫn
đầy day dứt, đau khổ và vô nghĩa.
+ Một con người trong sạch, cao đẹp,
khi mất đi học vẫn sống mãi trong
lòng mọi người.
4. Màn kết.
- Hình ảnh màu xanh cây vườn và lời
nói của Trương Ba, của cái Gái cho ta
thấy:
+ Cuộc sống vẫn tuần hoàn theo quy
luật của muôn đời.
+ Sự bất tử của linh hồn trong sự sống
và trong lòng của mọi người. Trương
Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống

trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của
mọi người. Ông đã hóa thân vào đất,
gửi hồn mình vào màu xanh cây lá,
vào hương vị thơm ngọt, mát lành của
hoa trái vườn nhà. Những việc làm,
những lời nói tốt đẹp của những con
người như Trương Ba vẫn có ý nghĩa
giáo dục đối với thế hệ mai sau. Điều
tốt lành đã được tiếp nối, phát huy
mãi mãi qua các thế hệ.
- Nhận xét về giọng điệu của nhân vật
Trương Ba và cái Gái
+ Lời của Trương Ba: Đây là lời nói
dịu dàng, thấm đẫm cảm xúc thương


yêu, quý mến, gần gũi bên những
người thân, là hạnh phúc của Trương
Ba khi được sống là chính mình, được
sống có ích trong cuộc đời.
+ Lời của cái Gái: Đầy yêu thương,
trìu mến, đầy tự hào, kiêu hãnh về
ông nội. Dù ông nội đã chết hẳn về
thể xác nhưng trong lòng nó ông nội
đã hoàn nguyên kì diệu về tâm hồn.
Ông nội Trương Ba đang sống một sự
sống khác - sự sống bất diệt trong trái
- Gv: Ý nghĩa của màn kết?
tim trẻ thơ.
- HS trả lời.

- Ý nghĩa của màn kết: Đoạn kết với
chất thơ sâu lắng đã đem lại âm
hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc
quan, đồng thời truyền đi một thông
điệp về sự chiến thắng của cái thiện,
Hoạt động 3
cái đẹp và của sự sống đích thực.
- GV: HS khái quát giá trị nội dung và III. Tổng kết
nghệ thuật.
1. Nội dung: Một trong những điều
- HS khái quát.
quý giá nhất cảu mỗi con người là
- GV tổng kết bằng sơ đồ Graph.
được sống là mình, sống trọn vẹn với
- GV gọi HS đọc Ghi nhớ (SGK)
những giá trị mình có và theo đuổi.
Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con
người được sống trong sự hài hoà tự
nhiên giữa thể xác và tâm hồn.
2. Nghệ thuật:Xây dựng hình ảnh ẩn
dụ lớn; phát triển truyện dân gian đầy
sáng tạo; nhân vật đa dạng, phong
phú; xung đột hợp lí, lời thoại đa
nghĩa......
- Phê phán nhiều hiện tượng đáng
buồn, đáng lên án trong xã hội. Nêu
lên tình trạng con người sống thiếu
chân thực, là nguy cơ bị tha hoá do
danh và lợi.
Hoạt động 4. Củng cố

- GV tổ chức một cuộc phỏng vấn nhỏ giúp học sinh củng cố lại kiến thức
đã học.


-> Nội dung phỏng vấn: Nội dung bài học.
- > Học sinh làm việc theo cặp ( Một học sinh hỏi, một học sinh trả lời).
-> Thời gian: 3 phút.
Học sinh 1: Bạn vừa được học đoạn trích vở kịch "Hồn Trương Ba, da
hàng thịt", bạn có cảm nghĩ gì về đoạn trích trên?
Học sinh 2 (dự kiến): Tôi rất ấn tượng với đoạn trích được học, đặc biệt là
những trăn trở, suy nghĩ và quyết định của Trương Ba...
Học sinh 1: Điều gì ở Trương Ba đã khiến bạn xúc động đến vậy?
Học sinh 2 (dự kiến): Trương Ba là một người làm vườn tốt bụng, nhân
hậu, có tâm hồn thanh cao, trong sạch. Dù Trương Ba rơi vào hoàn cảnh bi kịch
song ông vẫn luôn cố gắng đấu tranh với chính thể xác phàm tục của anh hàng
thịt. Dù cuộc đấu tranh đó căng thẳng, mệt mỏi như thế nào, Trương Ba cũng
không hề chùn bước. Tôi đặc biệt xúc động trước quyết định của Trương Ba,
ông đã chấp nhận ra đi vĩnh viên. Đây không phải là một quyết định dễ dàng,
nhưng quyết định đó đã giúp tâm hồn ông thanh thản,...
- GV tổ chức trò chơi:
Chia bảng làm hai phần nên và không nên, chia lớp thành hai nhóm. Học
sinh mỗi nhóm thay nhau lên bảng ghi ra những bài học nên hay không nên
trong cuộc sống mà mình rút ra từ đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt”.
Thời gian quy định là 3 phút. Sau đó, học sinh của nhóm này nhận xét, đánh giá
mức độ đúng sai, phù hợp của các bài học nhân sinh của nhóm kia. GV là trọng
tài đánh giá điểm số của mỗi nhóm để phân định thắng, thua. Phần thưởng có thể
chỉ là một túi kẹo cho nhóm thắng.
Dự kiến: Những bài học các em có thể viết ra:
+ Không nên:
~ Biến thành nô lệ của những ham muốn bản năng, tầm thường để trở

thành kẻ phàm tục, thô thiển.
~ Quá coi trọng đời sống tinh thần mà bỏ bê thân xác khổ sở, nhếch nhác.
~ Khi vướng vào những hành động bẩn thỉu, không nên chỉ đổ lỗi cho
thân xác để ru ngủ mình trong giấc mộng tinh thần cao quý, siêu hình.
~ Sống giả dối, “bên trong một đàng, bên ngoài một nẻo”
~ Không nên sống bằng mọi giá
~ Không nên sống nhờ, sống đậu, sống tầm gửi, lệ thuộc vào người khác
để rồi đánh mất mình
~ Không nên sống vô trách nhiệm như Nam Tào, Bắc Đẩu
~ Không nên sửa cái sai này bằng cái sai khác để gây ra bao rắc rối, khổ
đau cho con người
+ Nên:


~ Sống hài hòa thống nhất giữa hồn và xác, giữa nhu cầu vật chất và tinh
thần
~ Sống có ý thức, biết kiềm chế “phần con” - bản năng sinh vật trong
chính mình để vươn lên hoàn thiện nhân cách.
~ Chịu trách nhiệm trước những việc làm tội lỗi, dung tục của chính mình.
~ Sống trung thực, thẳng thắn, là chính mình
~ Sống có ý nghĩa, nhân hậu, giàu đức hi sinh.
~ Chấp nhận cái chết khi sự sống không còn ý nghĩa, nhất là khi sự sống
của mình gây khổ đau cho người khác.
Hoạt động 5. Hướng dẫn về nhà:
- Về nhà tìm đọc toàn bộ tác phẩm, xem kịch.
- Tìm hiểu ý nghĩa phê phán của đoạn trích và giá trị nhân văn của tác
phẩm.
- Chuẩn bị: Diễn đạt trong văn nghị luận.



×