Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Vấn đề thông tin và định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ (khảo sát chuyên trang văn hóa văn nghệ của các báo tiền phong, thanh niên, tuổi trẻ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.77 KB, 118 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Trờng đại học khoa học x hội và nhân văn hà nội

Nguyễn Thanh Xuân

Vấn đề thông tin và định hớng thẩm mỹ cho giới Trẻ

(Khảo sát chuyên trang văn hoá văn nghệ của các báo:
trẻ))
Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ
chuyên ngành: báo chí học
m số: 60.32.01

Luận văn thạc sĩ khoa học báo chí

Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái

Hà Nội - 2006


Mục lục
Lời mở đầu

1.

Tính cấp thiết của đề tài

2.

Mục đích nghiên cứu



3.

Phạm vi và đối tợng nghiên cứu..

4.

Phơng pháp nghiên cứu...

5.

ý nghĩa của luận văn

6.

Kết cấu của luận văn

Chơng I: Những vấn đề lý luận chung về văn hoá
văn nghệ và thởng thức thẩm mỹ

1.

Khái niệm...............................................................................

1.1 Văn hoá và văn hoá thẩm mỹ...
1.2 Văn hoá thẩm mỹ.
1.3 Nghệ thuật
1.4 Văn học
1.5 Đánh giá của bạn đọc về tác dụng của thông tin trên chuyên
trang văn hoá văn nghệ

1.6 Tiếp nhận thẩm mỹ trên báo chí..
2.

Vai trò và nhiệm vụ của báo chí trong thông tin và định
hớng thẩm mỹ..

2.1 Những định hớng của Đảng và Nhà nớc về văn hoá thẩm
mỹ.
2.2 Vai trò của văn hoá văn nghệ trong đời sống tinh thần của
nhân dân...
2.3 Vai trò và nhiệm vụ của báo chí trong thông tin và định
hớng thẩm mỹ.


Chơng II : Nội dung thông tin và định hớng thẩm
mỹ của chuyên trang văn hoá văn nghệ trên ba tờ
báo: Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ

1.

Mức độ thông tin về các lĩnh vực văn hoá văn nghệ giữa ba tờ
báo

1.1 Tỷ lệ nội dung thông tin về các lĩnh vực văn hoá văn nghệ
trên ba tờ báo
1.2 Mức độ quan tâm của bạn đọc đối với các vấn đề văn hoá
nghệ thuật
2.

Chất lợng thông tin của ba tờ báo Tiền phong, Thanh

niên, Tuổi trẻ...

2.1 Văn hoá.
2.2 Nghệ thuật
3.

Đánh giá chung...

Chơng III : Khảo sát hiệu quả thông tin thẩm mỹ của
chuyên trang văn hoá văn nghệ trên ba tờ báo: Tiền
phong, Thanh niên, Tuổi trẻ

1.

Một số cách thức tổ chức tác phẩm báo chí hiệu quả..

1.1 Chuyên trang
1.2 Văn phong báo chí..
2.

Mức độ sử dụng các thể loại báo chí

Kết luận.....................................................................................................
Tài liệu tham khảo...
Phụ lục..


Lời Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài


Mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá của mình, nền văn hoá đó chứa
toàn bộ lịch sử đấu tranh, xây dựng, lịch sử tinh thần của dân tộc đó. Lịch sử
một dân tộc bao giờ cũng phát triển không ngừng và nền văn hoá cũng luôn
phát triển phù hợp với sự phát triển của lịch sử. Trong những thập niên gần
đây, phát triển luôn là mối quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo, các nhà
chiến lợc văn hoá ở các nớc. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đã và đang tự tìm
tòi, thể nghiệm, nhận diện bản sắc văn hoá của chính mình để tìm ra con
đờng phát triển phù hợp, nhằm đa đất nớc và dân tộc tiến lên. Từ năm
1998, UNESSCO (United Nation Education Science and Culture Organization Tổ chức văn hoá Liên hiệp quốc) đã nêu rõ: Văn hoá và phát triển là hai mặt gắn liền với
nhau và phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trọng tâm, một vai trò điều tiết x
hội.
Vài thế kỷ trở lại đây, văn hoá Việt Nam thực sự chuyển mình trong xu hớng giao lu
và hội nhập với văn hoá thế giới. Trớc xu hớng toàn cầu hoá việc giữ gìn và phát triển
bản sắc của văn hoá dân tộc đã đợc đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt nam
khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của x hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế x hội.[ 11 tr.3]
Trong bối cảnh của một thế giới đầy biến động với xu hớng mở cửa, hội nhập
không thể đảo ngợc và một cơ chế thị trờng đang vận hành trong lòng xã
hội hiện đại, văn hoá Việt Nam đang phải đối diện với những khó khăn và
thách thức lớn. Hơn bao giờ hết, nhiệm vụ bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, bảo
vệ các truyền thống tốt đẹp đợc đặt ra cấp bách cho mỗi con ngời Việt Nam
và cho cả dân tộc. Vì thế công cuộc bảo tồn có phần phát huy những giá trị văn
1


hoá truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đóng góp hết sức quan trọng
của báo chí.
Báo chí Việt Nam đợc coi là diễn đàn văn hoá trong việc hớng dẫn con ngời
trở về với những giá trị văn hoá truyền thống và mở rộng giao lu quốc tế trên

nền tảng tốt đẹp vốn có của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy chuyên trang văn
hoá văn nghệ của các báo, có vai trò quan trọng trong việc định hớng t
tởng, hình thành lối sống tốt đẹp cho mọi tầng lớp độc giả Việt Nam, nhất là
giới trẻ.
Các chuyên trang văn hoá văn nghệ của các tờ báo đều có nhiệm vụ chủ
yếu là thông tin về các vấn đề văn hoá văn nghệ nhằm định hớng thẩm mĩ
cho bạn đọc. Tuy nhiên cách thức thông tin của các tờ báo khác nhau nên chất
lợng thông tin cũng khác nhau.
Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả thông tin và định hớng thẩm mĩ
của các chuyên trang văn hoá văn nghệ trên 3 tờ báo: Tiền phong, Thanh niên,
Tuổi trẻ thì cần thiết phải nghiên cứu cách thức tổ chức tác phẩm báo chí viết
về văn hoá văn nghệ của các chuyên trang này và cần thiết phải có sự so sánh
các chuyên trang đó để tìm ra những bài học báo chí từ phía những ngời tổ
chức chuyên trang văn hoá văn nghệ và những bài học thẩm mỹ từ phía bạn
đọc tiếp nhận chuyên trang văn hoá văn nghệ này. Trên cơ sở đó nhằm đa ra
những giải pháp để chuyên trang ngày càng làm tốt hơn nhiệm vụ thông tin và
định hớng thẩm mĩ cho bạn đọc thanh niên.Vì vậy tôi chọn : Vấn đề thông
tin và định hớng thẩm mĩ cho giới trẻ (khảo sát chuyên trang văn hoá văn
nghệ các báo: Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ) làm đề tài cho luận văn
cao học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích lớn nhất của chúng tôi là dựa trên cơ sở so sánh, để tìm hiểu nội dung thông
tin chuyên trang văn hoá văn nghệ của ba tờ báo và định hớng thông tin thẩm mỹ cho độc trẻ.
2


Từ đó có thể rút ra kết luận có giá trị cho cách thức tổ chức chuyên trang văn hoá văn nghệ trên
báo chí có hiệu quả nhất.
Chúng tôi đặc biệt chú ý tới 4 lĩnh vực văn hóa và 4 loại hình văn nghệ trong phạm vi
luận văn khảo sát. Vì các lĩnh vực này có ảnh hởng rõ nhất đến đời sống tinh thần, đến các

mối quan hệ xã hội của độc giả trẻ Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
Vì vậy trong luận văn này, ngời viết không đi sâu tìm hiểu những lĩnh vực và loại hình
văn hoá đã nêu trên, mà cố gắng khảo sát và phân tích cách thông tin, định hớng thẩm mỹ
của báo chí đối với vấn đề văn hoá văn nghệ trong lĩnh vực thông tin báo chí. Do vậy, tên của
luận văn đợc xác định cụ thể là: Vấn đề thông tin và định hớng cho giới trẻ ( Khảo sát
chuyên trang văn hoá văn nghệ các báo: Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ)
3. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu

Đối tợng nghiên cứu của chúng tôi là chuyên trang văn hoá văn nghệ trên ba tờ báo: Tiền
phong, Thanh niên, Tuổi trẻ từ năm 2003 đến năm 2005. Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ
có những đặc điểm chung đều là nhật báo có tổ chức chuyên trang văn hoá văn nghệ mang
tính ổn định, tồn tại song song bên cạnh những chuyên trang về Kinh tế, Chính trị xã hội. Cả
ba tờ báo trên đều cung cấp thông tin cho độc giả trẻ, mặc dù diện tích chuyên trang văn hoá
văn nghệ của ba tờ báo không giống nhau. Nhng thông tin trên: Tiền phong, Thanh niên,
Tuổi trẻ đều hớng tới đối tợng là thanh niên, thế hệ trẻ đầy năng động sáng tạo, nhanh nhạy
trong tiếp thu cái mới.
Nh vậy, với những đặc điểm của đối tợng nghiên cứu nh trên, sẽ cho chúng ta có cái
nhìn toàn diện và khách quan nhất về tình hình thông tin văn hoá, văn nghệ trên báo chí.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm:
*Bốn lĩnh vực văn hoá :

Văn hoá lối sống
Văn hoá mặc (Thời trang)
Lễ hội

3


Di tích lịch sử.
*Bốn loại hình nghệ thuật: Văn học

Sân khấu
âm nhạc
Điện ảnh
4. Phơng pháp nghiên cứu

- Dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh, đờng lối quan điểm chính sách của Đảng và của nhà nớc ta.
- Tổng hợp, thống kê, so sánh và phân tích các tác phẩm báo chí tiêu
biểu trên trang văn hoá văn nghệ của ba tờ báo:Tiền phong, Thanh niên, Tuổi
trẻ từ 2003-2005.
5. ý nghĩa của luận văn

Chúng tôi hớng vào nghiên cứu, khảo sát vấn đề thông tin và định
hớng thẩm mỹ cho giới trẻ trên chuyên trang văn hoá văn nghệ của ba tờ báo:
Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ. Đây cũng có thể coi là nhiệm vụ quan trọng của ba tờ báo
trong việc thông tin và định hớng thẩm mỹ về văn hoá văn nghệ trên báo chí cho độc giả trẻ.
Trong sự đổi thay từng ngày, từng giờ của đất nớc, vai trò thông tin và định hớng thẩm mỹ
kịp thời đúng đắn của văn hóa văn nghệ trên báo chí đối với độc giả trẻ trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Kể từ khi Đảng và Nhà Nớc ta thực hiện chính sách đổi mới. đời sống xã hội
nớc ta có nhiều thay đổi. Làn sóng du nhập ồ ạt những phơng tiện thông tin đại chúng mới
mẻ, bên cạnh những tác dụng tích cực, nó cũng đang góp phần làm xói mòn những chuẩn
mực đạo đức của dân tộc. Trớc tình hình đó, báo chí đã nhiều lần lên tiếng báo động. Tuy
nhiên những cảnh báo thôi cha đủ. Bản thân báo chí phải trở thành ngời tuyên truyền, dẫn
dắt và định hớng cho độc giả trẻ trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

4


Nhận thức sự cần thiết của thông tin văn hoá văn nghệ nh một mảng đặc biệt và
không kém phần quan trọng của báo chí . Chúng tôi tập trung đi sâu và khảo sát mức độ nội

dung và định hớng thẩm mỹ trong việc thông tin văn hoá văn nghệ đến độc giả trẻ. Qua đó
đánh giá những thành tựa trong việc thông tin và định hớng thẩm mỹ của chuyên trang văn
hoá văn nghệ trên ba tờ báo: Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,phụ lục, nội dung
chính của luận văn đợc chia làm 3 chơng:
Chơng I: Những vấn đề lí luận chung về văn hoá văn nghệ và
thởng thức thẩm mỹ
Chơng II: Nội dung thông tin và định hớng thẩm mỹ cho giới trẻ
của chuyên trang văn hoá văn nghệ trên ba tờ báo: Tiền phong, Thanh
niên, Tuổi trẻ
Chơng III: Khảo sát hiệu quả thông tin thẩm mỹ của chuyên trang
văn hoá văn nghệ trên ba tờ báo: Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ đối với
giới trẻ

5


Chơng I
Những vấn đề lí luận chung về văn hoá văn nghệ
và thởng thức thẩm mỹ
1. Khái niệm

1.1.Văn hoá và văn hoá thẩm mỹ
Có thể nói trong lịch sử phát triển của nhân loại, cha bao giờ vấn đề văn
hoá đợc đặt ra cấp bách và toàn diện nh hiện nay. Tiếp cận xã hội ở bất kỳ
một lĩnh vực nào, từ bất cứ góc độ nào đều ít nhiều động chạm đến văn hoá.
Điều đó chứng tỏ văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn bao trùm đồng thời nó còn
lan toả, thâm nhập, đan xen vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì

vậy, văn hoá là một khái niệm rộng đa nghĩa và gây nhiều tranh luận. Có
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo thống kê, có hơn 400 định nghĩa
khác nhau. Bởi mỗi học giả đều xuất phát từ những góc độ riêng, những mục
đích và tính chất riêngphù hợp với đề tài nghiên cứu của mình. Nhng tựu
chung lại định nghĩa của UNESCO đã đề cập đợc một cách bao trùm nhất
nh sau:
Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần
và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách x hội hay một nhóm
ngời trong x hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chơng, lối sống,
những quyền cơ bản của con ngời, những hệ thống giá trị, những tập tục tín
ngỡng: Văn hoá đem lại cho con ngời ta khả năng suy xét bản thân. Chính
văn hoá làm cho con ngời ta trở thành một sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con
ngời tự thể hiện, tự ý thức đợc bản thân, tự biết mình là một phơng án cha
hoàn thành đặt ra để xem xét thành tựu của bản thân, tìm tòi không mệt mỏi

6


những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vợt trội bản thân
(Theo tuyên bố về những chính sách văn hoá do UNESCO chủ trì) [55 tr.17]

Định nghĩa mà UNESCO nêu đã khẳng định văn hoá là những gì tinh tuý
nhất, đặc biệt nhất mà con ngời phát minh ra. Văn hoá làm cho con ngời
sống có lý tính, biết kiềm chế bản thân, biết suy xét, biết cách ứng xử với
thiên nhiên, với đồng loại, biết hớng mình đến những triết lý tốt đẹp. Nó còn
giúp cho con ngời biết khám phá, biết xây dựng những công trình vĩ đại để
làm giàu cho những giá trị cuộc sống. Có thể nói văn hoá quyết định đến tính
cách của một con ngời hay cả một cộng đồng dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất đề cao văn hoá trong đời sống xã hội.

Ngời cho rằng Vì lẽ sinh tồn cũng nh mục đích của cuộc sống, loài ngời
mới sáng tạo và phát minh ra chữ viết, đạo đức và pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, mỹ thuật, những sinh hoạt hàng ngày và các phơng thức sử
dụng [ 34 tr.8]
Đồng chí Phạm Văn Đồng, một nhà văn hoá lớn của dân tộc thì quan
niệm: Nói tới văn hoá là nói tới một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và phong phú,
bao gồm tất cả những gì không phải thiên nhiên, có liên quan đến con ngời
trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, quá trình con ngời làm nên lịch
sửCốt lõi sức sống dân tộc là văn hoá với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất
của nó bao gồm hệ thống những giá trị: t tởng, tình cảm, đạo đức, phẩm
chất, trí tuệ, tài năng, sự nhạy cảm và tiếp thu cái mới, ý thức bảo vệ tài sản
và bản lĩnh cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để mình lớn
mạnh không ngừng [ 53 tr.9 ].
PGS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm nêu ra một định nghĩa văn hoá nh sau:
"Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
ngời sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tơng
tác giữa con ngời với môi trờng tự nhiên và x hội.[ 47 tr.10].
7


GS. Hoàng Trinh - một nhà nghiên cứu cũng đa ra một số nhận thức về
văn hoá nh sau: Văn hóa là toàn bộ hoạt động sáng tạo, bảo vệ và phát huy
những giá trị của một dân tộc. Về mặt sản xuất và sản xuất tinh thần trong sự
nghiệp dựng nớc và giữ nớc trên cơ sở một phơng thức sản xuất nhất định.
Văn hoá thể hiện trong lí tởng sống, trong quan niệm về thế giới và nhân
sinh, tín ngỡng, trong lao động và đấu tranh, tổ chức x hội, sức sống, lí
tởng thẩm mỹ [ 48 tr.6].
Nh vậy mọi hoạt động sản xuất, kết quả của những hoạt động ấy do con
ngời có ý thức tác động vào tự nhiên và xã hội mà có, đều có thể thuộc về
văn hoá. Cũng có thể nói: Nhân hóa tự nhiên tức là văn hoá. Tự nhiên ở đây

không phải là khách thể trong quá trình sáng tạo và phát triển văn hoá do con
ngời với t cách là chủ thể tiến hành, có nghĩa là tự nhiên không chỉ là giới tự
nhiên tồn tại bên ngoài con ngời. Tự nhiên đợc nói ở đây bao gồm cả phần
bản năng tự nhiên" trong "bản thân con ngời. Điểm xuất phát của văn hoá
là con ngời hoạt động trong thực tiễn trớc hết là cải biến hoàn cảnh tự nhiên
rồi tiến đến cải tạo hoàn cảnh xã hội, con ngời sáng tạo ra văn hoá và cũng
nh vậy văn hoá cũng tái tạo bản thân con ngời. Sức mạnh của văn hoá là
sáng tạo, là khai phóng. Nòng cốt của những hoạt động khai phóng, sáng tạo
này là t tởng nhân văn xét từ bản chất các hoạt động văn hoá là sự thống
nhất hữu cơ giữa các hoạt động khoa học (xã hội, tự nhiên) và t tởng nhân
văn.
Với những quan niệm nh trên, văn hoá đợc hiểu là hệ thống những giá
trị phong phú trong hiện thực, đợc tạo nên bởi hoạt động sáng tạo của nhiều
thế hệ ngời trong lịch sử. Các giá trị này biểu hiện trình độ phát triển trong
những đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
1.2. Văn hóa thẩm mỹ

8


Văn hoá thẩm mỹ (theo các nhà nghiên cứu văn hoá) là một bộ phận
cấu thành của văn hoá nhân loại. Theo các tác giả Liên Xô (Trong sách Cơ sở
lý luận văn hó Mác Lênin) , chủ biên GS.TS.A.I.Ac-nôn-đốp cho rằng
Văn hoá thẩm mỹ là một thành tố nằm trong hệ thống văn hoá tinh thần.
Chức năng đặc thù của văn hoá thẩm mỹ là đem lại cho chủ thể con ngời
một biểu tợng trực quan về một hiện thực nh lý tởng mong muốn [6
tr.217].
Nh vậy với t cách là một bộ phận hữu cơ của văn hoá, văn hoá thẩm
mỹ là bao hàm bên trong nó những năng lực tinh thần - thực tiễn đặc biệt giúp
cho con ngời có khả năng hoạt động theo các quy luật của cái đẹp nhằm cảm

thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo trên các giá trị thẩm mỹ.
Con ngời luôn khát khao cảm thụ cái đẹp và đa cái đẹp vào tất cả các
lĩnh vực của mình bởi con ngời có một năng lực đặc biệt - năng lực thẩm mỹ,
biểu hiện cao nhất là năng lực sáng tạo nghệ thuật. Nếu lấy hoạt động theo
quy luật của cái đẹp làm tiêu chí thì văn hoá thẩm mỹ bao hàm cả văn hoá
văn nghệ, văn hoá văn nghệ là hạt nhân của văn hoá thẩm mỹ. Nghệ thuật là
biểu hiện cao nhất của quan hệ thẩm mỹ giữa con ngời với thế giới hiện thực,
văn hoá nghệ thuật là sự phát triển cao của văn hoá thẩm mỹ. Nếu lấy giá trị
văn hoá làm tiêu chí thì nghệ thuật có lĩnh vực tồn tại riêng, đó là các giá trị
nghệ thuật thuộc mọi loại hình hết sức phong phú trong đời sống văn hoá của
mỗi dân tộc. Giá trị thẩm mỹ lại có mặt ở tất cả các lĩnh vực đời sống, nó đợc
xem nh yếu tố thẩm mỹ của sản phẩm, của ngôn ngữ giao tiếp, của hành vi
ứng xử trong các quan hệ giữa ngời và ngời trong gia đình và toàn xã
hộiDo đó, văn hoá nghệ thuật là thành tố quan trọng, là hạt nhân của văn
hoá thẩm mỹ. Khi nói đến văn hoá thẩm mỹ không thể không nhắc tới nghệ
thuật, nghệ thuật không chỉ là nội dung cơ bản của văn hoá thẩm mỹ mà còn
là phơng tiện hữu hiệu nhất của giáo dục thẩm mỹ.

9


1.3. Nghệ thuật
Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa nghệ thuật nh sau: Là hình
thái đặc thù của ý thức x hội và của các hoạt động của ý thức con ngời, một
phơng thức quan trọng để con ngời chiếm lĩnh các giá trị tinh thần của hiện
thực, nhằm mục đích tạo thành và phát triển các năng lực chiếm lĩnh và cải
tạo bản thân và thế giới xung quanh theo quy luật của cái đẹp[ 3 tr.138].
Khác với các hình thái ý thức và hoạt động xã hội khác (nh khoa học,
chính trị, đạo đức) nghệ thuật thoả mãn nhu cầu có tính vạn năng của con
ngời là cảm thụ thế giới xung quanh dới các hình thái đã phát triển của

năng lực của cảm nhận mang tính con ngời. Đó là năng lực cảm nhận thẩm
mỹ đặc trng, chỉ có ở con ngời đối với các hiện tợng, sự thật, biến cố của
thế giới khách quan với t cách là chủ thể cụ thể sống động.
Nghệ thuật phát sinh và hình thành trên cơ sở lao động, nhng một khi ra
đời, nghệ thuật hình thành và hoàn thiện ở con ngời một năng lực cảm nhận,
có thể vận dụng vào mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, khoa học,
chính trị, sinh hoạt Vì vậy tác phẩm nghệ thuật có thể hình thành một công
chúng hiểu biết nghệ thuật và có năng lực hởng thụ cái đẹp. Nghệ thuật
thống nhất trong bản thân nó tất cả mọi hình thức hoạt động và nhận thức của
cá nhân đối với thế giới và đối với bản thân mình trong sự hài hoà của thế giới
và cảm nhận đợc ý nghĩa của thế giới trong sự phát triển nhân cách toàn vẹn
của mình. Chính cái chức năng hình thành và hoàn thiện năng lực cảm nhận
này đã quy định các đặc trng khác của nghệ thuật: hớng tới đối tợng trong
tính toàn vẹn sinh động; chủ thể trong toàn bộ năng lực của nhân cách và tâm
hồn; hình thức hình tợng, tính chất truyền cảm, giao tiếp. Các phơng diện
chức năng cụ thể nh nhận thức, giáo dục, thoả mãn mỹ cảm gắn bó với nhau
trong bản chất của nghệ thuật. Đời sống xã hội là cội nguồn nội dung của

10


nghệ thuật, quy định mối liên hệ qua lại giữa nghệ thuật với các hình thái ý
thức xã hội khác nh chính trị, khoa học, triết học, đạo đức
Trong tiến trình lịch sử phát triển khách quan của nghệ thuật, do tính đa
dạng của các quá trình và các hiện tợng trong thực tại, do sự khác biệt của
những phơng thức, phơng tiện cũng nh nhiệm vụ phản ánh thẩm mỹ và cải
tạo hiện thực, do nhu cầu nhiều mặt của con ngời, đã hình thành các loại
hình nghệ thuật khác nhau.
Do vậy: Nghệ thuật là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, bao chứa trong đó nhiều
loại hình thức nghệ thuật với những đặc thù sáng tạo khác nhau. Trong đó văn

học là một trong những loại hình của nghệ thuật, đợc định nghĩa là nghệ
thuật của ngôn từ, nên văn học thờng đợc coi là loại hình độc đáo nhất, là
cơ sở cho những loại hình khác. Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái trong
cuốn giáo trình Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên báo chí,[41 tr.26]
cho rằng có thể vì lí do đó mà văn học đợc đặt ngang hàng với các loại hình
còn lại, trở thành một đẳng thức thông dụng, thờng đợc dùng trong những
cụm từ phổ biến ở Việt Nam hiện nay: Văn học nghệ thuật, hay văn nghệ trẻ,
trang văn hoá văn nghệ hoặc trang văn học nghệ thuật trên các phơng tiện
truyền thông đại chúng nh chúng ta thờng thấy. Đồng thời đó cũng là cách
hiểu những định nghĩa văn nghệ và nội dung phản ánh của chuyên trang văn
hoá văn nghệ trên Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ của ngời viết luận văn
này.
1.4. Văn học
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: Là loại hình sáng tác bằng ngôn từ.
Khái niệm văn học bao gồm cả dân gian, đợc sáng tác và lu truyền bằng
miệng từ đời này sang đời khác. Và văn học viết, đợc viết và lu truyền dới
hình thức văn bản viết[ 3 tr.391]

11


Văn học thờng đợc giải thích là nghệ thuật của ngôn từ, hoặc nói cách
khác, văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phơng tiện xây
dựng hình tợng nghệ thuật của mình. Đó là đặc điểm loại biệt của văn học
với t cách là một loại hình nghệ thuật.
Việc xếp văn học vào nhóm nghệ thuật là một chặng đờng dài. Theo Lại
Nguyên Ân Trong truyền thống nghệ thuật phơng Đông cũng nh trong mỹ
thuật phơng Tây, cho đến thế kỷ XIX, văn học thờng đợc xếp trớc hết vào
nhóm trớc nghệ thuật, th tịch . Chỉ đến khoảng giữa thế kỷ XX mới xuất
hiện nhiều cách hiểu tổng hợp. Theo đó văn học đợc xem nh một trong số

các hình thái chiếm lĩnh thế giới bằng nghệ thuật nh một hoạt động sáng
tạo thuộc lĩnh vực của nghệ thuật [ 41 tr.213]
Nếu đặc trng hình tợng là tiêu chí để sắp xếp văn học vào nhóm nghệ
thuật thì đặc trng ngôn ngữ sẽ giúp phân biệt văn học với hình tợng nghệ
thuật khác. Văn học sử dụng ngôn ngữ nh chất liệu, phơng tiện biểu hiện:
"Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó
(M.Gorki). Ra đời trong lao động sản xuất, ngôn ngữ là sản phẩm cao cấp của
ý thức con ngời. Nó là phơng tiện, công cụ để con ngời giao tiếp với nhau,
trao đổi t tởng và đi đến hiểu nhau. Ngôn ngữ văn học bắt nguồn từ ngôn
ngữ đời sống, nhng không hoàn toàn trùng khớp với ngôn ngữ đời sống. Đó
là thứ ngôn ngữ đợc nâng lên thành nghệ thuật, đợc mài rũa tinh luyện ngay
cả khi nó hiện ra với vẻ thô ráp nhất.
Chính đặc trng sử dụng ngôn ngữ với t cách là phơng tiện và chất
liệu chung nhất đã quy định một đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ văn học là
tính phi vật thể của chữ. Nó tạo ra những nhợc điểm và u thế riêng của
văn học. Lấy ngôn từ làm chất liệu, hình tợng văn học chỉ tác động vào trí
tuệ, gợi lên những liên tởng và tởng tợng trong tâm trí ngời đọc. Nói cách
khác, hình tợng văn học là thực thể tinh thần. Đặc điểm này đã mở ra khả

12


năng vô tận cho văn học, giúp nó đạt đợc tính vạn năng trong việc chiếm lĩnh
đời sống, mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đời sống xã hội
trong văn học vì thế luôn vận động không ngừng với những biểu hiện tinh vi
nhất, mong manh và mơ hồ nhất. Văn học tái hiện cả cái hữu hình và vô hình
cả hành động, lời nói và chiều sâu t tởng, cảm xúc của con ngời. Bên cạnh
đó, đặc trng ngôn ngữ cũng khiến văn học có u thế nổi trội hơn trong việc
tiếp cận độc giả, đa nó trở thành loại hình nghệ thuật thật đại chúng.
Trong phạm vi đề tài của luận văn này, chúng tôi chỉ xét văn học với t

cách là những tác phẩm văn học sáng tác trong thời gian cụ thể và đăng trên
chuyên trang văn hoá nghệ thuật, hoặc là đối tợng cho bài phê bình văn học
trên báo chí của những tờ báo: Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ nh đã giới
hạn trong phạm vi đề tài khảo sát.
1.5. Đánh giá của bạn đọc về tác dụng của thông tin trên chuyên
trang văn hoá văn nghệ
Theo kết quả điều tra của ngời viết, dựa trên sự đánh giá đánh giá của
bạn đọc về tác dụng của thông tin trên chuyên trang văn hoá độc giả trẻ đã
đợc ghi nhận nh sau.
Tác dụng thông tin

Tỷ lệ

Để biết thông tin

70%

Nhận biết vẻ đẹp của phong cảnh đất nớc

42%

Nhận biết nét đẹp của nghệ thuật truyền thống

48,3%

Hiểu biết lịch sử Việt Nam đáng tự hào

56,8%

Nhận biết nét đẹp của lối sống ngời Việt Nam


71%

Nhận biết nét đặc sắc của lễ hội Việt Nam

48,9%

Phản đối những biểu hiện thiếu văn hoá

66,6%

Phản đối các lối sống ngoại lai không thích hợp

47,1%

13


Dựa theo kết quả về tác dụng thông tin của chuyên trang văn hoá, văn
nghệ đợc độc giả trẻ tiếp nhận nh đã thấy ở bảng trên, ta nhận rõ tác động
chuyển hoá và nhận thức nhằm nâng cao trình độ thẩm mỹ trớc các sự kiện
và giá trị văn hoá truyền thống, chuyên trang văn hoá, văn nghệ. Trong đó
việc tiếp nhận để hiểu biết nét đẹp của lối sống ngời Việt Nam của độc giả
chiếm số lợng lớn nhất 71%. Điều này chứng tỏ việc nhận biết những nét đẹp
của nghệ thuật truyền thống cũng là nội dung thông tin đợc bạn đọc chú ý.
Bên cạnh đó lối sống thực dụng, những biểu hiện thiếu văn hoá diễn ra hàng
ngày trong cũng đang trở thành vấn đề đáng báo động. Thông tin trên chuyên
trang văn hoá, văn nghệ đã kịp thời phê phán những hiện tợng tiêu cực trên
giúp bạn đọc hình dung và loại trừ những hiện tợng phản văn hoá ra khỏi đời
sống cộng đồng.

Ví dụ: Về vụ việc Copy nhạc nớc ngoài của nhạc sĩ Bảo Chấn. Đây là
vấn đề đợc đông đảo độc giả trẻ quan tâm bởi âm nhạc là loại hình nghệ
thuật có ảnh hởng đến đời sống tinh thần của giới trẻ. Tiền phong, Thanh
niên, Tuổi trẻ đều liên tiếp đề cập đến câu chuyện này trong suốt một thời
gian dài từ năm 2004 và cho đến năm 2005, đa đến cho bạn đọc cái nhìn cập
nhật đối với nền âm nhạc Việt Nam.
Hay việc ăn mặc lố lăng, hở hang của các ca sĩ cũng đã ảnh hởng đến
lối sống và thẩm mỹ về thời trang của giới trẻ hiện nay. Việc báo chí lên án
cách mặc kỳ dị, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của giới nghệ sĩ này
cũng đợc bạn đọc trẻ đồng tình ủng hộ và góp những ý kiến phản hồi.
Nhìn vào bảng thống kê trên có thể thấy sự quan tâm của độc giả đối với
chuyên trang văn hoá, văn nghệ nhằm nhận biết thông tin, nhận biết nét đẹp
lối sống ngời Việt Nam, nghệ thuật truyền thống Việt Nam, lễ hội và bài trừ
những xu hớng phản văn hoá, ngoại lai.

14


1.6. Tiếp nhận thẩm mỹ trên báo chí
Tác phẩm nghệ thuật, với t cách một giá trị thẩm mỹ, bao giờ cũng đợc
chủ thể thẩm mỹ sáng tạo là để nhằm cho một dạng thức hoạt động thẩm mỹ
tơng ứng: đó là việc tiếp nhận thẩm mỹ (thởng thức, cảm thụ) từ phía ngời
tiếp nhận nó. Và về phơng diện tiếp nhận, trong mối quan hệ với tác phẩm
nghệ thuật, ngời tiếp nhận cũng là một chủ thể. Trong mục từ Tiếp nhận
thẩm mỹ, sách 150 thuật ngữ văn học (Nxb. Đại học quốc gia, Hà nội, 1999) cho rằng:
Tiếp nhận thẩm mỹ không phải là sự tái hiện giản đơn tác phẩm nghệ thuật
trong ý thức, mà là quá trình phức tạp, quá trình cùng tham dự và cùng sáng
tạo của chủ thể tiếp nhận. Khác với hoạt động thẩm mỹ của nghệ sĩ - ngời
sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, tiếp nhận thẩm mỹ không mang tính công nghệ
và nó vận hành theo hớng ngợc: từ việc tiếp nhận kết quả, (tác phẩm nghệ

thuật nói chung) đi đến tiếp nhận các ý tởng chứa đựng trong đó. Giữa tác
phẩm và chủ thể tiếp nhận bao giờ cũng có một sự gi n cách thẩm mỹ; phải ý
thức ra rằng trớc mắt mình chỉ là sự miêu tả thực tại chứ không phải là bản
thân thực tại. Để vợt qua sự gián cách, ở chủ thể tiếp nhận phải có một trạng
thái tâm lý nhất định (tâm thế thẩm mỹ) để có thể cảm nhận tác phẩm nh có
thể là thực tại, đồng thời vừa không quên tính ớc lệ của nó. Tiếp nhận thẩm
mỹ, vì vậy mang tính hai chiều chủ thể tiếp nhận vừa tin, vừa không tin vào
tính thực tại của cái đợc miêu tả. Tiếp nhận thẩm mỹ đợc xác định phần lớn
bởi tác phẩm nghệ thuật: tác phẩm không chỉ là nguồn thông tin nghệ thuật
chủ yếu mà còn đề ra phơng thức đọc nó dịch nó sang bình diện cảm
xúc hình tợng của chủ thể. Tính phức tạp của tiếp nhận thẩm mỹ là các ý
tởng của tác phẩm không thể dịnh sang bình diện lời nói, khái niệm. Tuy
nhiên, ở văn bản nghệ thuật, hệ thống các phơng tiện biểu hiện bao giờ cũng
khóa m cho phép giải ra hàm nghĩa kín đáo của nó. Việc thâm nhập vào hàm
nghĩa của tác phẩm nghệ thuật còn phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của chủ

15


thể, vào trình độ phát triển về tình cảm chủ nghĩa ở chủ thể tiếp nhận. Tính
chọn lọc và chiều sâu của tiếp nhận thẩm mỹ bị quy định bởi trạng thái văn
hoá của x hội, bởi tiềm năng văn hoá chung của cá nhân. Sản phẩm của tiếp
nhận thẩm mỹ là một hình tợng và một hàm nghĩa thứ sinh có thể trùng
hoặc không trùng với hình tợng và t tởng mà tác giả trù định[41 tr.45].
Báo chí Việt Nam mang một sứ mệnh cao cả đó là trang bị một hệ thống
tri thức văn hóa lịch sử phong phú và đa dạng, giáo dục tuyên truyền yêu
nớc, cách mạng ý chí vơn lên, đức tính cần cù, phổ biến các hoạt động văn
hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việc thông tin định hớng thẩm
mỹ trên báo chí, nhằm giáo dục nhân cách cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ sẽ góp phần định hớng t tởng, phục vụ lợi ích của đất

nớc và dân tộc.
Trong xã hội hiện đại, mối quan hệ giữa các thành viên ngày càng phức
tạp và đa dạng, làm thế nào thực hiện tốt vai trò của mình trong tổng hoà các
mối quan hệ là điều rất quan trọng trong hoạt động báo chí, khi nhu cầu
thởng thức văn hoá văn nghệ của công chúng ngày càng tăng. Vì vậy việc
thông tin về văn hoá văn nghệ, nâng cao trình độ văn hoá trong bản thân mỗi
con ngời thông qua báo chí chính là một điều kiện tốt nhất. Tuyên truyền văn
hoá văn nghệ trên báo chí có u thế nổi trội bởi việc tiếp nhận thẩm mỹ thông
qua các bài viết chuyên sâu về văn hoá nghệ thuật tiếp cận phù hợp với mọi
lứa tuổi, trình độ, dân tộc, nghề nghiệpTính định kỳ của báo chí cũng giúp
cho việc tiếp nhận thông tin văn hoá của độc giả trở nên đều đặn và liên tục.
Nh vậy qua báo chí, từng bớc một, độc giả sẽ làm quen và hiểu các giá trị
văn hoá của Việt Nam cũng nh của nhân loại mà không thấy đột ngột hay
khó hiểu. Đồng thời thông qua việc thông tin và định hớng, báo chí cũng
từng bớc hớng dẫn, giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy truyền thống văn
hiến lâu đời của cha ông cho độc giả trẻ.

16


Nhu cầu văn hoá của con ngời ngày càng phong phú và phức tạp. Báo
chí trong xã hội hiện đại đang tự khẳng định mình là một thực thể văn hoá đa
năng. Báo chí là công cụ để phát ngôn và truyền bá văn hoá. Việc thông tin và
giáo dục cho nhân dân bằng những bài viết, những tác phẩm văn học nghệ
thuật giúp cho việc tiếp nhận thẩm mỹ của độc giả ngày càng có chiều sâu bởi
trong quá trình định hớng thẩm mỹ trên báo chí, nghệ thuật luôn đợc xem là
phơng tiện hữu hiệu nhất có tác động sâu sắc và toàn diện tới nội tâm con
ngời.
2. Vai trò và nhiệm vụ của báo chí trong thông tin và định
hớng thẩm mỹ


2.1. Những định hớng của Đảng và Nhà nớc về văn hóa thẩm mỹ
Vấn đề định hớng cơ bản của phát triển văn hoá thẩm mỹ, văn hoá nghệ
thuật đã đợc Đảng ta quan tâm từ lâu trong đờng lối phát triển văn hoá - văn
nghệ của Đảng.(Đề cơng văn hoá Việt Nam năm 1943). Đảng ta đã nêu ra
những phơng châm lớn định hớng cho sự phát triển văn hoá, cụ thể là phát
triển văn hoá nghệ thuật nhằm giải quyết những yêu cầu và nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội của mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau của cách mạng
Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội đã đề xuất mô thức phát triển nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới mà đặc trng cơ
bản của nó là: dân tộc hiện đại- nhân văn, trong đó có văn hoá thẩm mỹ.
Nhận thức rằng trung tâm của mọi nền văn hoá là các vấn đề bức xúc của con
ngời, sự phát triển toàn diện các năng lực con ngời Đảng ta đã khẳng định:
Văn hoá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới cần ra sức chăm lo bồi dỡng hình
thành con ngời mới. Đó là những con ngời có ý thức làm chủ, ý thức trách

17


nhiệm công dân, có tri thức, có sức khoẻ và lao động giỏi, sống có văn hoá và
tình nghĩa, giàu lòng yêu nớc và tinh thần quốc tế chân chính" [ 32 tr.15]
Văn hóa thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới trớc hết là sự tiếp tục phát triển
và mở rộng các thành quả đã đạt đợc của các quan hệ văn hoá trớc đó theo
các mô thức dân tộc- khoa học - đại chúng. Văn hóa thẩm mỹ trong thời kỳ
đổi mới khi trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Nó đã phải khắc phục đợc tình trạng thiếu nhân văn đã
từng xảy ra trong quan hệ văn hoá quá khứ khi không ít ngời chỉ coi con
ngời là phơng tiện mà không chú ý đến việc giải phóng nhân cách con

ngời, không chú ý đến khát vọng sống của cá nhân trong cộng đồng.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, Đảng và Nhà nớc ta đặc
biệt quan tâm tới việc vạch ra và xây dựng cơ sở lí luận, ý nghĩa khoa học của
những phơng châm lớn, định hớng cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật
nhằm mang lại những thành quả to lớn cho hoạt động nghệ thuật. Việc định
hớng phát triển nhân cách, một mặt xuất phát từ những định hớng phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mặt
khác xuất phát từ những yêu cầu về mặt chất lợng của các sáng tác nghệ
thuật sao cho phù hợp với nội dung của thời kỳ quá độ của những giá trị tinh
thần, thẩm mỹ truyền thống, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống
với quá trình xây dựng nền nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghệ thuật là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta
lãnh đạo. Thấm nhuần quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn hóa - văn
nghệ là một mặt trận. Anh chị em là những chiến sĩ trên mặt trận ấy[ 34
tr.26] cần phải nâng cao tính chiến đấu trong sáng tác, lí luận phê bình để
phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nớc.
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc phục vụ công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết trung ơng V(
18


khoá VIII) là: Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học- nghệ thuật có giá
trị t tởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn dân chủ, có tác
dụng sâu sắc xây dựng con ngời mới có tinh thần yêu nớc, tự cờng dân
tộc, có ý chí vơn lên đa đất nớc ta thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Xây
dựng con ngời Việt Nam có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích
chung có lối sống lành mạnh nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cơng phép nớc.[ 12 tr.16]
Có thể nói, cơ chế thị trờng là một thể chế kinh tế không loại bỏ khả
năng cho chúng ta một lối sống xã hội mọi ngời vì mình và mình vì mọi

ngời. Bởi vậy cần hớng văn học nghệ thuật và việc phản ánh kịp thời cái
hiện thực sinh động, chân thực của đời sống nhân dân. Đồng thời cần kế thừa
và phát triển những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của lịch sử của dân
tộc. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi nghệ thuật phải thể hiện nổi bật những nhân tố
mới tích cực trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của cuộc sống. Cổ vũ cái
đúng, cái tốt, cái đẹp trong nghệ thuật giữa con ngời với nhau và quan hệ
giữa con ngời với tự nhiên, kiên quyết phê phán những thói h tật xấu, lên án
cái ác, cái thấp hèn.
Định hớng thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh từ các tác phẩm nghệ thuật
chính là nội dung định hớng sức tác động đặc thù của văn hóa nghệ thuật
mang giá trị sâu sắc, ý nghĩa nhân văn cao quý, đáp ứng nhu cầu thởng thức
của công chúng. Có thể nói, định hớng văn hóa nghệ thuật đúng đắn của
Đảng, sự rèn luyện sâu sắc về thị hiếu thẩm mỹ đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng nền nghệ thuật mới - nghệ thuật xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, định hớng thị hiếu ấy không chỉ dừng lại ở
phơng châm hớng dẫn cho các chủ thể sáng tạo thẩm mỹ mà nó còn tham
gia tích cực vào hoạt động đánh giá, sáng tạo đối tợng hoá các thị hiếu tốt
đẹp khi thởng thức và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật của công chúng.

19


Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá
nghệ thuật do đó đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản sau: bồi dỡng và phát huy
nhân tố con ngời, xây dựng con ngời mới Việt Nam phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, tình cảm lối sống và nhân cách trong môi
trờng lành mạnh của nền văn hoá mới Việt Nam:
- Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực nghệ thuật là gắn
liền với việc thờng xuyên chăm lo nâng cao nhận thức, hiểu biết về lí tởng
cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh cũng nh tình

hình đất nớc cho tầng lớp văn nghệ sỹ, cho cán bộ hoạt động văn hoá nghệ
thuật cũng nh đối với các nhà phê bình lí luận và công chúng tiếp nhận,
thởng thức nghệ thuật.
- Quản lý gắn liền với việc xây dựng, ban hành biện pháp và chính sách
văn hoá đối với hoạt động văn hoá nghệ thuật.
- Gắn hoạt động văn hoá nghệ thuật với phát triển kinh tế nhng phải
đảm bảo yêu cầu chính trị t tởng của văn hoá nghệ thuật.
- Khuyến khích hoạt động sáng tạo nghệ thuật không chỉ là vấn đề đào
tạo nhân tài, sử dụng nhân tài mà còn phải chú trọng đến việc đầu t, hỗ trợ
của tổ chức xã hội, của nhân dân với văn nghệ sỹ, các tổ chức hoạt động nghệ
thuật
- Đa dạng hoá, đa phơng hoá các mối quan hệ về văn hoá nghệ thuật
nhằm tiếp thu những tinh hoa, kinh nghiệm của nớc ngoài.
Hoạt động thẩm mỹ nói chung và hoạt động văn nghệ nói riêng dới sự
lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng đã đóng vai trò to lớn trong mọi
thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những định hớng cơ bản của
Đảng về văn hoá nghệ thuật nhằm nâng cao và phát triển phong phú đời sống
tinh thần con ngời Việt Nam là việc tiếp tục khẳng định vai trò to lớn và độc
đáo của văn hoá thẩm mỹ trong sự nghiệp đổi mới đất nớc, xây dựng một đời
20


sống tinh thần cao, đồng thời phát huy mọi nguồn lực sáng tạo nghệ thuật để
đáp ứng cho việc giáo dục thị hiếu nghệ thuật, nâng cao nhu cầu thởng thức
nghệ thuật lành mạnh cho nhân dân.
Tóm lại: Đờng lối văn hoá của Đảng luôn nhất quán, coi văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh
tế xã hội. Những chủ trơng, chính sách kịp thời của Đảng và Nhà nớc đã
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá nói chung và định hớng thẩm
mỹ nói riêng phát triển theo đúng định hớng dân tộc khoa học và nhân văn.

2.2. Vai trò của văn hoá - văn nghệ trong đời sống tinh thần của nhân
dân
Văn hoá văn nghệ có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần
của nhân dân, văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con ngời tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng và nhân văn của dân tộc.
Không ai có thể chối cãi rằng nghệ thuật là sáng tạo kỳ diệu của con
ngời cho nên nghệ thuật càng có thể dạy con ngời những điều kỳ diệu, nó là
phơng tiện để ngời này hiểu ngời khác và cũng nh hiểu chính mình. Vì là
sự sáng tạo kỳ diệu, nghệ thuật giúp ngời ta tinh tế hơn. Nó có thể nâng con
ngời lên cao tới mức những gì trong quá khứ và những gì xảy ra trong tơng
lai đều dễ hiểu và gần gũi. Đôxtoiepxki đã nói: Nghệ thuật là sự biểu hiện
sáng chói nhất, cái đẹp cứu rỗi nhân loại.[ 26 tr.419]. Đảng ta cũng khẳng
định: Không một hình thái t tởng nào thay thế đợc nghệ thuật trong việc
giáo dục t tởng, tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp
nghĩ, nếp sống của con ngời[32 tr.103].Văn học, nghệ thuật có vai trò
rất to lớn trong việc xây dựng con ngời về các mặt tình cảm, đạo đức, t
tởng. Tác động của nó rất sâu sắc đến từng ngời, từng lứa tuổi mà không thể
có một hình thái ý thức xã hội nào có thể thay thế đợc. Ngời xa thờng nói

21


Văn tức là Ngời và cho rằng nói học văn là để làm Ngời. Tác động của
giá trị văn học, nghệ thuật là lâu dài, nối tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Thực tiễn của những năm đổi mới cho thấy văn hoá nghệ thuật đã có
những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất nớc, nền văn
hoá nghệ thuật đã phong phú hơn về nội dung đề tài, đa dạng hơn về hình thức
thể loại và phong cách thể hiện.
Văn hoá nghệ thuật là phơng tiện giáo dục thẩm mỹ có hiệu quả nhất,
bởi giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật là hình thức hấp dẫn, do đó nó đi vào

lòng ngời một cách tự nguyện vì thế có hiệu quả to lớn và lâu bền. Cái đẹp
nghệ thuật làm cho con ngời say mê ngời ta hoàn toàn tự nguyện đi theo
định hớng gợi mở của nó. Tác động của nghệ thuật không chỉ toả ra một tri
thức tổng hợp mà chủ yếu bằng sức hấp dẫn kỳ diệu với sự hoà hợp giữa lý trí
và tình cảm cảm hoá con ngời đạt đến Chân Thiện Mỹ.
Văn hoá nghệ thuật Việt Nam lấy nhân dân làm đối tợng phục vụ, trở
thành bộ phận quan trọng của nền văn hoá mới. Nó hớng hạnh phúc và tự do
của nhân dân để phục vụ và mọi hoạt động nghệ thuật đều vì con ngời, đa
con ngời tới tự do và hạnh phúc.
2.3. Vai trò và nhiệm vụ của báo chí trong thông tin và định hớng thẩm mỹ
Hoạt động báo chí là một bộ phận quan trọng trong công tác văn hoá t
tởng. Trong thế giới bùng nổ truyền thông nh hiện nay, báo chí đã và đang
là hình thức thông tin mang tính hiệu quả cao. Nó là sản phẩm của phơng
tiện của truyền thông đại chúng, vừa là sản phẩm của một nền văn hoá , là
phơng tiện đắc lực trong tuyên truyền, nâng cao dân trí, đời sống văn hoá cho
mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Báo chí cung cấp thông tin mọi mặt của
đời sống xã hội, vừa phong phú vừa cụ thể trong đó mảng thông tin về văn hoá
văn nghệ đang dần chiếm một khối lợng lớn, phần thông tin này đợc tổ
chức thành chuyên trang riêng biệt trên từng tờ báo, tạp chí, các chơng trình
22


×