Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Thế giới nghệ thuật trong tập thơ tiếng thu của lưu trọng lư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.44 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG HOA THẮM

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG
TẬP THƠ TIẾNG THU
CỦA LƯU TRỌNG LƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Văn Lân

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
GS. TS. Lê Văn Lân, người đã giành nhiều tâm huyết và thời gian quý báu tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian vừa qua, kể từ khi tôi bắt tay vào
triển khai đề tài cho đến khi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo trong
Khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy chúng tôi suốt khoá học.
Tôi xin chân thành cảmơn các thầy cô trong thư viện nhà trường, phòng tư
liệu khoa, các thầy cô và cán bộ phòng sau đại học đã tạo điều kiện tốt nhất cho
chúng tôi hoàn thành thuận lợi khoá học và luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, dẫu còn nhiều thiếu sót, tôi mong rằng luận văn này sẽ được
xem như một lời cảm ơn gửi tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp - những người


thân yêu đã luôn là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần lớn lao để tôi hoàn thành
luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Dương Hoa Thắm.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 2
2.1. Thời kì đầu tiên ...................................................................................... 2
2.2. Thời kì thứ 2 ........................................................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
4. Nhiệm vụ, đóng góp của luận văn: ............................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
5.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học ........................................................ 7
5.2. Phương pháp so sánh văn học ................................................................ 7
5.3. Phương pháp thống kê............................................................................ 7
5.4. Phương pháp phân tích ........................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn: ................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 8
Chương 1: HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG TẬP THƠ TIẾNG THU.... 8
1.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật thơ trữ tình .............. 9
1.1.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong tập thơ Tiếng thu .......................... 11
1.1.1.1. Cái tôi mơ mộng ......................................................................... 13
1.1.1.2. Mộng là gì ? ............................................................................... 15
1.1.1.3. Mộng mới là quê hương của nhà thơ ......................................... 16
1.1.1.4. Mộng trong Tiếng thu ................................................................ 17
1.1.1.5. Mộng với sầu, buồn với say ....................................................... 20
1.1.1.6. Cái tôi tinh tế, nhạy cảm ........................................................... 26

1.1.1.7. Cái tôi phiêu lãng với những giấc mộng giang hồ ..................... 29
1.1.2. Cái tôi cô đơn .................................................................................... 34
1.1.2.1. Giấc mơ tình ái của nhà thơ ....................................................... 35
1.1.2.2. Tình yêu thầm kín đơn phương và nỗi thở than nuối tiếc ngàn đời .. 35
1.1.2.3. Giấc mộng tình tan vỡ ................................................................ 38


1.1.3. Cái tôi thành thực ............................................................................. 39
1.1.3.1. Tình yêu êm đềm của nhà thơ .................................................... 42
1.1.3.2. Sự trân trọng với các giai nhân .................................................. 46
1.1.4. Cái tôi tha thiết với cuộc đời. ............................................................ 51
1.1.4.1. Lòng yêu thương trắc ẩn với những thân phận bất hạnh. .......... 51
1.1.4.2. Tấm lòng với người mẹ, người chị( cõi riêng- ám ảnh): ........... 54
1.1.4.3. Một tấm lòng gắn bó với đất nước, với dân tộc. ....................... 57
Chương 2: THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TẬP
THƠ TIẾNG THU ............................................................................ 59
2.1. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 59
2.1.1. Thế nào là thời gian nghệ thuật ? ..................................................... 59
2.1.2. Thời gian nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu ................................... 60
2.1.2.1. Thời gian Thực - Ảo.................................................................. 60
2.1.1.2. Thời gian quá vãng gắn với những hoài niệm ........................... 61
2.1.1.3. Thời gian hiện tại gắn liền với sầu đau, đổ vỡ, trống vắng....... 64
2.1.1.4. Thời gian chảy trôi đem đến sự tàn phai rơi rụng ..................... 66
2.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 70
2.2.1. Thế nào là không gian nghệ thuật? ................................................... 70
2.2.2. Không gian nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu ................................ 71
2.2.2.1. Mây............................................................................................. 72
2.2.2.2 Trăng ........................................................................................... 73
2.2.2.3. Dòng sông, bến nước, con thuyền .............................................. 75
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT .................................... 79

3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 79
3.1.1. Các thể thơ tiêu biểu trong tập thơ Tiếng thu .................................. 79
3.1.2. Truyền thống và cách tân trong việc sử dụng một số thể thơ tiêu biểu
ở Tiếng thu ....................................................................................... 80
3.1.2.1. Thể thất ngôn.............................................................................. 80
3.1.2.2. Thể ngũ ngôn.............................................................................. 83
3.1.2. 4. Thể lục bát ................................................................................. 84
3.2. Nhạc điệu thơ ........................................................................................... 86


3.2.1. Thế nào là nhạc điệu thơ? ................................................................. 86
3.2.2. Sự kết hợp hài hòa giữa vần và nhịp ................................................. 87
3.2.3. Sự giao hoà giữa âm điệu của lòng người và ám thanh của ngoại giới.. 92
3.2.4. Sự kết hợp nhuần nhị các làn điệu dân ca ......................................... 94
3.3. Ngôn ngữ thơ............................................................................................ 96
3.3.1. Thế nào là ngôn ngữ thơ? .................................................................. 96
3.3.2. Ngôn ngữ tự nhiên............................................................................. 96
3.3.3. Ngôn ngữ của thế giới nội cảm ....................................................... 102
3.3.4. Ngôn ngữ vừacổ điển, vừa hiện đại ............................................... 105
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Văn học Việt Nam giai đoạn ( 1930-1945), được xem là một giai đoạn có
ý nghĩa vô cùng quan trọng, là một bước ngoặt tiến vào thời kì hiện đại của nền
văn học nước nhà. Và sự xuất hiện của phong trào Thơ Mới (thơ lãng mạn) lại
được coi là Thời đại của thi ca ( Hoài Thanh).

Thơ Mới đã dựng lên một cột mốc mới cho thi ca hiện đại. sự bùng nổ và
phát triển mạnh mẽ của Thơ Mới xuất hiện nhiều tên tuổi mới như: Thế Lữ, Hàn
Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,Lưu Trọng Lư…Trong thế hệ những người
đầu tiên có công khai sinh ra Thơ mới Lưu Trọng Lư là một dấu ấn khác biệt.
Lưu Trọng Lư (1911 - 1991), ông sinh ngày 16/9, tại Cao Lao Hạ,Bắc
Trạch, Quảng Bình. Sinh trưởng trong một gia đình quan lại ,nho học. Ông đã ba
lần bị đuổi học khi theo học ở Quốc học Huế. Sau đó ông ra Hà Nội học trường
tư thục, rồi lại bỏ ngang để viết văn, làm báo ,dạy học. Và đặc biệt thành công ở
lĩnh vực thi ca, được mệnh danh là chủ tướng của phong trào Thơ mới. Lê Tràng
Kiều cho rằng “ Lưu Trọng Lư là người đầu tiên “gieo hạt” cho Thơ Mới vào
đất Bắc” ( Hà Nội báo số 30, ngày 29/7/1936). Khi nhắc đến Lưu Trọng Lư là
nhắc đến tập thơ Tiếng thu bất hủ.
Tập thơ Tiếng thu (1939) là tập thơ đầu tay và cũng là những thanh âm
huyền diệu nhất, lôi cuốn và có sức ngân vang nhất của đời thơ Lưu Trọng Lư.
Tập thơ đã khẳng định tài thơ xuất sắc của Lưu Trọng Lư, góp phần vào chiến
thắng của Thơ Mới đối với Thơ Cũ. Chính vì thế mà Tiếng thu của Lưu Trọng
Lư là tập thơ được giới nghiên cứu và phê bình văn học đánh giá cao. Tập thơ
được xem là một công trình nghệ thuật có tiếng vang lớn nhất trong những năm
nửa đầu thế kỉ XX bởi chất thơ quyến rũ, đắm say, kì ảo ( Hà Minh Đức) của nó.
Cũng vì chất thơ ấy, Hoài Thanh trong quá trình chọn lựa đã đưa 11 bài thơ
trong tập Tiếng thu vào Thi nhân Việt Nam. Tiếng thu cũng có một số bài
1


được chọn giảng trong chương trình Ngữ văn phổ thông và có nhiều hình ảnh
thơ Lưu Trọng Lư trở nên quen thuộc lắng đọng trong lòng nười yêu thơ.
Với đề tài Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư,
chúng tôi mong muốn góp một phần bé nhỏ vào việc tìm hiểu, đánh giá sâu sắc
hơn phong cách thơ Lưu Trọng Lư trước cách mạng Tháng tám cũng như đặc
sắc của Tiếng thu– một hiện tượng thơ ca độc đáo mang đậm tính dân tộc và

thời đại.
2. Lịch sử vấn đề:
Thuộc thế hệ thi sĩ đầu tiên có công khai mở và đưa tới chiến thắng cho
phong trào Thơ mới, tên tuổi Lưu Trọng Lư đã được đông đảo công chúng yêu
mến. Bên cạnh những tên tuổi hàng đầu của Thơ Mới, người yêu thơ không thể
không nhắc đến Lưu Trọng Lư, tác giả của tập thơ Tiếng thu. Trong thực tế,
những công trình nghiên cứu về Lưu Trọng Lư còn rất ít , hầu như chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách công phu về tác giả này. Trong sự nghiệp văn
chương phong phú của Lưu Trọng Lư, thì tập thơ Tiếng thu thu hút sự chú ý
nhiều nhất của công chúng và giới nghiên cứu. Tuy chưa có những công trình
trực diện nghiên cứu tập thơ Tiếng thu như một thế giới nghệ thuật nhưng nhiều
phương diện của tập thơ đã được đề cập đến. Ở đây, chúng tôi xin điểm lại tình
hình nghiên cứu tập thơ này theo dòng lịch sử:
2.1. Thời kì đầu tiên (trước cách mạng tháng Tám):
Hầu hết các tác giả viết về Lưu Trọng Lư đều nhận thấy Tình và Mộng
cũng như âm điệu là một đặc trưng nổi bật và đặc sắc của thơ Lưu Trọng Lư. Lê
Tràng Kiều trong bài viết Một nhà thơ mới rất chú trọng về âm điệu: Lưu
Trọng Lư đã cảm nhận về thơ Lưu Trọng Lư: “Hồn nhà thi sĩ như chỉ bàng bạc,
phảng phất trong cái thế giới vô hình... Động mạnh là hồn thi sĩ tan ngay”
[22.26]. Lê Tràng Kiều đặc biệt đề cao tính nhạc trong thơ Lưu Trọng Lư:
“Muốn chứng tỏ cho các nhà thơ cổ biết rằng,Thơ Mới là một thứ thơ có âm
nhạc hẳn hoi, không hay gì hơn là đưa thơ của Lưu Trọng Lư mà nói, một thi sĩ
xưa nay rất chút trọng về mặt âm nhạc của thơ ” [22.22]. Hoài Thanh trong Thi
2


nhân Việt Nam đã nắm bắt rất trúng cái thần thái của thơ Lưu Trọng Lư:
“ Trong thơ Lư, nếu có tả chim kêu hoa nở, ta chớ có tin, hay ta hãy tin rằng,
tiếng kia, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư”
[57. 285]. Về âm điệu, Hoài Thanh nhận xét: “ Lư chỉ có một ít khúc đàn bình

dị, một ít khúc đàn xưa” [57.286]. Vũ Ngọc Phan dường như là một người xem
xét về thơ Lưu Trọng Lư kĩ lưỡng hơn cả: “ Lưu Trọng Lư là một thi sĩ đa tình
và mơ mộng... Có thể tóm tắt tất cả những ý trong thơ Lưu Trọng Lư vào hai
chữ Tình và Mộng... Thơ Lư có một cái đặc biệt là giàu âm điệu” [42. 672].
2.2. Thời kì thứ 2 (sau cách mạng):
* Giai đoạn (1945 - 1954):
Sau cách mạng, cùng với sự chuyển biến của văn học, các nhà thơ lãng
mạn hầu hết đã đến với Cách mạng, Lưu Trọng Lư cũng là một đại diện tiêu
biểu. Trong xu thế đó, người ta muốn đoạn tuyệt với con người cũ, với những
cảm xúc cũ. Nhìn lại phong trào Thơ Mới, Hoài Thanh trong Nói chuyện thơ
kháng chiến (1951) viết: “Những vần thơ buồn tủi bơ vơ ấy là những vần thơ có
tôi. Nó xui người ta buông tay, cúi đầu do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc.
Sự thật khách quan là thế, xét về lý là thế. Song cũng nên thể tình con người
trong thơ cũ, nó đáng thương hơn là đáng trách.”
Trong tình thế ấy, các công trình nghiên cứu về Thơ Mới và Lưu Trọng
Lư là không có.
* Giai đoạn(1954 - 1975):
- Miền Bắc: Từ năm 1960, Thơ Mới đã được tìm hiểu trở lại trong một số
công trình lịch sử văn học và chuyên khảo. Trong thời kì này, Lưu Trọng Lư
được nhắc đến như một tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ Mới (Bộ Lược
thảo lịch sử Văn học Việt Nam – Nhóm Lê Quý Đôn, 1957; Văn học Việt
Nam (1930 - 1945) của Bạch Đăng Thi và Phan Cự Đệ, 1961; Lịch sử văn học
Việt Nam (1930 - 1945), tập 5, 1962; Lịch sử văn học Việt Nam của nhóm tác
giả Đại học Sư phạm Hà Nội, 1973). Đặc biệt Phong trào Thơ Mới của Phan
Cự Đệ, 1966 là một chuyên khảo khá lớn về phong trào Thơ Mới, đã đề cập đến
3


Lưu Trọng Lư như một tên tuổi tiêu biểu; “Thi sĩ đã thành công trong việc đào
tạo ra một âm nhạc êm dịu, gợi cảm như trong thơ tượng trưng Pháp.” Tuy

nhiên Lưu Trọng Lư vẫn “giữ được một nhạc điệu rất Á Đông, rất Việt Nam” [8.
171]. Ông nhấn mạnh rằng thơ Lưu Trọng Lư rất giàu nhạc điệu: “Một thứ nhạc
điệu mơ màng và buồn xa vắng” [8. 213]. ... Và thoát li thực tế đấu tranh, Lưu
Trọng Lư trốn vào Tình và Mộng. Thi sĩ sống bằng nội tâm nhiều hơn ngoại
giới” [8. 212].
- Miền Nam: Văn học lãng mạn vẫn được đề cao. Lưu Trọng Lư được
nhắc đến là một tên tuổi tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới. Đặc biệt, trong
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã nhận định thơ Lưu
Trọng Lư “tiếp tục nguồn thơ lãng mạn, êm đềm của Tản Đà mà ông rộng ra:
Say, mộng, tình, buồn, sầu vơ vẩn, nhớ bâng khuâng...” và “Thơ ông như dòng
suối hồn nhiên từ kẽ đá tuôn ra... nếu chỉ nhằm thưởng thức một âm điệu, những
ấn tượng thì tuyệt” [38. 57].
Trong công trình Việt Nam thi nhân tiền chiến, ở bài Nhà thơ Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng cảm nhận về thơ Lưu
Trọng Lư: “Tiếng thơ Lưu Trọng Lư là tiếng nói xa xôi nửa hư nửa thực. Hồn
thơ của Lư là những gì mờ ảo, huyền hoặc, xa xăm... Những cái nhìn mông lung,
những tiếng thở dài không trọn vẹn... Lưu Trọng Lư đã đưa người đọc vào thế
giới xa lạ. Thế giới của mộng, của mơ, của nhớ thương” [22.176].
* Từ 1975 đến nay:
Thơ Mới đã có một khoảng thời gian để đánh giá và trả lại cho nó vị trí
xứng đáng trên thi đàn dân tộc. Một trào lưu đánh giá lại thi ca lãng mạn ra đời,
có những phần, những bài viết khá công phu về thơ Lưu Trọng Lư nói chung và
tập thơ Tiếng thu nói riêng. Chúng tôi phân loại như sau:
- Phong trào Thơ Mới: Phong trào Thơ Mới (1932 - 1945), Phan Cự Đệ,
1982; Thơ Mới những bước thăng trầm, Lê Đình Kị, 1993; Nhìn lại một
cuộc cách mạng trong thi ca, Huy Cận - Hà Minh Đức, 1997; Một thời đại

4



trong thi ca ( về phong trào Thơ Mới 1932- 1945), 2002; Chương Thơ Mới của
Phan Cự Đệ trong Văn học Việt Nam (1900 - 1945), 2000.
- Thơ Lưu Trọng Lư và tập Tiếng thu : Bài Lưu Trọng Lư của Nguyễn
Trọng Lư của Nguyễn Xuân Nam trong Nhà thơ Việt Nam hiện đại, 1984;
mục từ Lưu Trọng Lư và Tiếng thu của Nguyễn Văn Long trong Từ điển
văn học, tập 1 và 2, 1984; Lời giới thiệu trong Thơ Lưu Trọng Lư và những
lời bình, 2000, của Mai Hương.
Ngoài những tài liệu trên, còn có những bài viết về những thi phẩm đặc
sắc trong tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư của các nhà nghiên cứu: Hà
Minh Đức, Đỗ Đức Hiểu, Văn Tâm, Kiều Thanh Quế, Ngô Văn Phú, Trần Đình
Sử, Chu Văn Sơn, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Thụy Kha... được in trong các sách
tuyển về các gương mặt của phong trào Thơ Mới, hoặc nằm tản mạn trong các
báo, tạp chí.
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cho rằng thơ Lưu Trọng Lư “đắm say
trong mộng tưởng và yêu đương... và bảng lảng trong đám sa mù, xa lạ với cuộc
đời thực” [22. 52].
Một số bài viết của các nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ, Văn Tâm, Đỗ Đức
Hiểu... và những hồi ức kỉ niệm của người thân và bè bạn : Hoàng Trung Thông,
Tế Hanh, Lữ Giang, Đoàn Minh Tuấn... đều khẳng định: Trước Cách mạng, Lưu
Trọng Lư , một hồn thơ sầu mộng, đắm say và thành thực. Họ đều cho rằng quê
hương của Lư là Tình và Mộng, “âm thanh, nhạc điệu là sức mạnh đặc biệt
trong thơ Lưu Trọng Lư” [28.16].
Các bài viết về thi phẩm Tiếng thu của các nhà nghiên cứu, phê bình mở
ra nhiều cách cảm thụ khác nhau, song đều khẳng định: Tiếng thu là thi phẩm
đặc sắc nhất của đời thơ Lưu Trọng Lư, là tiếng lòng thổn thức của một thi nhân
nặng lòng yêu dấu và cũng là tiếng lòng của bao thế hệ một thời.
Từ tình hình thực tế cho thấy, thơ Lưu Trọng Lư ngay từ những bài thơ
đầu tiên trình làng đã là một hiện tượng đáng chú ý và gây được tiếng vang
trong lòng công chúng. Dư luận nhìn chung có nhận định thống nhất về thơ Lưu
5



Trọng Lư và đặc biệt là tập Tiếng thu, nét nổi bật nhất là Tình và Mộng, sức hấp
dẫn nhất của thơ Lưu Trọng Lư là nhạc điệu . Tập thơ này được coi là thành tựu
nghệ thuật đặc sắc nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư. Cùng với những ý kiến về
nghệ thuật của Lưu Trọng Lư đã góp một phần quan trọng trong việc đổi mới
cũng như làm phong phú, giàu có hơn cho diện mạo của Thơ Mới (1932- 1945).
Lưu Trọng Lư thực sự là một gương mặt tiêu biểu, một chiến sĩ tiên phong của
phong trào Thơ Mới.
Riêng về tập thơ Tiếng thu, cần phải có những công trình nghiên cứu một
cách hệ thống và toàn diện. Trên cơ sở những nghiên cứu quý báu của lớp cha
anh đi trước,chúng tôi tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về một số phương diện của thế
giới nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Trọng Lư qua
những bài thơ in trong tập thơ Tiếng thu được công bố vào năm 1939, dựa vào
tập Tiếng thu tái bản năm 1991 của nhà xuất bản Hội Nhà văn- Hội Nghiên cứu
giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh.Ngoài ra còn có những sáng tác
khác của Lưu Trọng Lư về các thể loại: Truyện, kịch, thơ, hồi kí, tiểu luận phê
bình... Trong đó có tập Người sơn nhân cũng là những tư liệu cần thiết cho việc
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
4. Nhiệm vụ, đóng góp của luận văn:
Chọn đề tài Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng
Lư, luận văn hi vọng góp phần làm nổi bật những nét đặc sắc trong thế giới nghệ
thuật thơ Lưu Trọng Lư trước cách mạng thông qua các quá trình khảo sát đặc
điểm riêng của thế giới nghệ thuật thơ trong tập Tiếng thu trong quan hệ nội tại
thống nhất giữa tư tưởng, cảm xúc và hình thức biểu hiện qua ba phương diện sau:
- Hình tượng cái tôi trữ tình trong tập thơ Tiếng thu.
- Thời gian và không gian nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu.
- Một số phương diện nghệ thuật.


6


Từ đó, luận văn có khả năng soi sáng phong cách cơ bản của Tiếng thu
nói riêng và của thơ Lưu Trọng Lư nói chung. Nhờ đó có thể trở thành một tài
liệu tham khảo bổ ích cho việc học tập,nghiên cứu và giảng dạy trong trường về
thơ Lưu Trọng Lư.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Chúng tôi vận dụng lý thuyết thi pháp học, dựa trên cơ sở khái niệm về
thế giới nghệ thuật để tiếp cận tập thơ.
5.2. Phương pháp so sánh văn học
Luận văn sử dụng phương pháp này để làm rõ những nét riêng trong phong
cách thơ Lưu Trọng Lư (trong phạm vi giới hạn của để tài). Đây là phương pháp
quan trọng sẽ được chúng tôi sử dụng với tần suất cao theo hai hướng:
- Đồng đại: so sánh Lưu Trọng Lư với những nhà thơ cùng thời để khám
phá những nét riêng, đóng góp mới của ông.
- Lịch đại: đặt thơ Lưu Trọng Lư trong sự đối sánh với thơ truyến thống
để thấy được sự tiếp nối và phát triển của tập Tiếng thu với truyền thống thơ
dân tộc.
5.3. Phương pháp thống kê
Chúng tôi tiến hành khảo sát 52 bài thơ, thống kê những biểu hiện đặc sắc
của thế giới nghệ thuật Tiếng thu thông qua những từ ngữ, hình ảnh mang sắc
thái độc đáo, riêng biệt xuất hiện trong tập thơ. Chúng tôi chú ý đến những hình
tượng được lặp đi lặp lại trong từng bài thơ và trong suốt tập thơ, để có cơ sở rút
ra những nhận xét vế từng phương diện nội dung và nghệ thuật của tập thơ.
5.4. Phương pháp phân tích
Vì đối tượng nghiên cứu là một tác phẩm, một tác giả thơ nên phương
pháp chủ yếu để nghiên cứu đề tài sẽ là phân tích tác giả và tác phẩm văn học.

6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hình tượng cái tôi trữ tình trong tập thơ Tiếng thu.
Chương 2: Thời gian và không gian nghệ thuật trong tập thơ Tiếng thu.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật.
7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG TẬP THƠ TIẾNG THU
Để nghiên cứu những vấn đề trọng tâm thuộc phương diện nghệ thuật,
chúng tôi chọn hướng tiếp cận từ các vấn đề về hình tượng cái tôi trữ tình, thời
gian và không gian trong thơ Lưu Trọng Lư.
Ở góc độ lí luận văn học, chúng tôi xin đưa ra quan điểm về hình tượng
nghệ thuật mà chúng tôi dựa vào để nghiên cứu thế giới hình tượng trong thơ
Lưu Trọng Lư. Thế giới hình tượng là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh,
thể hiện và cải tạo hiện thực theo qui luật của nghệ thuật. Nói cách khác, nghệ sĩ
tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm
của mình, giúp con người thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ
có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh – chất liệu,
phương tiện để thực hiện mục tiêu đó chính là hình tượng. Thế giới hình tượng
ấy tồn tại trong một không gian riêng, thời gian riêng và có những giá trị riêng.
Nó chịu sự chi phối của nhân sinh quan và thế giới quan của nhà văn.
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, thì “ hình tượng nghệ thuật ( image)
chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng
tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực qua độc lập là đặc điểm quan
trọng của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có
thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một
phong cảnh thiên nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Hình tượng có

thể tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó là ở phương diện tinh
thần. Nhưng nói tới hình tượng nghệ thuật người ta thường nghĩ tới hình tượng
con người, bao gồm cả hình tượng một tập thể người (như hình tượng nhân dân
hoặc hình tượng Tổ quốc) với những chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú....
Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống nhưng không phải sao chép y nguyên
những hình tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí
8


tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ sao cho các hình tượng truyền lại được ấn
tượng sâu sắc,... Hình tượng nghệ thuật vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể,
cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất
của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của nghệ sĩ.
Hình tượng nghệ thuật không phản ánh các khách thể thực tại tự nó, mà thể hiện
toàn bộ quan niệm và cảm thụ sống động của chủ thể đối với thực tại... Hình
tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mĩ của nghệ
thuật” [52. 147- 148].
1.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật thơ trữ tình
Lý luận văn học tồn tại một khái niệm là hình tượng tác giả. Hình tượng
tác giả trong tác phẩm văn học gắn với ý thức của tác giả về vai trò xã hội, tư thế
văn học rất đa dạng của mình. Cơ sở tâm lí của hình tượng tác giả là hình tượng
“ cái tôi” trong nhân cách mỗi người thể hiện trong giao tiếp. Hình tượng cái tôi
chỉ được hình thành khi nhà thơ có một quan niệm nghệ thuật, một cái nhìn
riêng về cuộc đời. Bởi thơ ca là sự bộc lộ số phận, nhu cầu của cá nhân giữa cõi
đời đang sống. Và như thế, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ bộc lộ bản sắc
tâm hồn, tiềm năng sáng tạo và khả năng đồng hóa hiện thực cảu mỗi nhà thơ.
Các nhà thơ lớn đều xây dựng được cái tôi trữ tình độc đáo, đa dạng và phong
phú, mang dấu ấn riêng trong nền thi ca nhân loại, và cũng luôn mang dấu ấn
của thời đại. Hình tượng một cái tôi khát khao giao cảm trong thơ Xuân Diệu có
cái “ bồng bột” của buổi đầu giao thoa gió Đông, gió Tây khác với niềm khát

khao giao cảm nồng nàn của cái tôi trong thơ Bô-đơ-le; và cái tôi thích chơi
ngông trong thơ Tản Đà lại có phần bơ vơ côi cút giữa dòng giao thời chứ không
“ vút tới trời” như cái tôi ngông ngạo trong thơ Lí Bạch...
Luận văn này nghiên cứu hình tượng cái tôi ở cấp độ nhà thơ trong một
tập thơ tiêu biểu – hình tượng cái tôi giống như một kiểu nhân vật trong tác
phẩm văn học. Nhà thơ đã tách ra khỏi xã hội như giọt nước tách ra ngoài biển
cả để nhìn ngắm đối tượng thẩm mĩ một cách đầy đủ, tường tận hơn. Tuy thế,
hình tượng cái tôi không hoàn toàn đồng nhất với con người tác giả mà nó thực
9


chất là kết quả của sự điển hình hóa nghệ thuật khi cá nhân nhà thơ tạo được
một sự đồng cảm trong lòng người đọc. Từ đây, cái tôi loại hình chuyển sang cái
tôi tính cách, các nhà thơ ý thức về mình như một thế giới phức tạp.
Về cái tôi Lưu Trọng Lư, trong Thi nhân Việt Nam, hai nhà phê bình
Hoài Thanh - Hoài Chân trước hết xác định vai trò Lưu Trọng Lư trên tư cách “
Người hưởng ứng thứ nhất” phong trào Thơ Mới, nhấn mạnh chất thơ và “ dòng
thơ” Lưu Trọng Lư, xác định những nét riêng đặc sắc của phong cách thơ đặt
trong tương quan một thời đại thi ca: “ Tôi muốn xếp riêng vào một dòng những
nhà thơ tuy có chịu ảnh hưởng phương Tây nhưng rất ít và cũng không chịu ảnh
hưởng thơ Đường. Thơ của họ có tính cách Việt Nam rõ rệt. Đứng đầu dòng này
là Lưu Trọng Lư. Điều ấy không có gì lạ. Lưu Trọng Lư nhác đọc sách nhất
trong các thi sĩ đương thời. Họ Lưu ưa sống trong cuộc đời nhiều hơn trong
sách vở. Sách Tàu hay sách Tây cũng vậy. Thi nhân chỉ nhớ mang máng một
ít Kiều, một ít Chinh phụ ngâm, năm bảy câu trong bản dịch Tỳ bà hành cùng
vài bài cổ phong từ khúc của Tản Đà. Trong những thể thơ ấy, Lưu Trọng Lư đã
gửi rất dễ dàng nỗi đau buồn riêng của một người thanh niên Việt Nam thời
mới… Các nhà thơ về dòng này thường có lời thơ bình dị. Họ ít ảnh hưởng lẫn
nhau và cũng ít có ảnh hưởng đối với thi ca cận đại. Thi phẩm của họ có tính
cách vĩnh viễn nhiều hơn tính cách một thời. Vả họ nương vào thanh thế phương

Tây cũng ít...” Rồi sau khi cảm nhận, phân tích, lý giải, biện luận về mối quan
hệ giữa đời và thơ, thế giới tưởng tượng, hình ảnh và âm điệu câu thơ Lưu
Trọng Lư, hai ông đi đến kết luận: “ Sao lại có người có thể đọc những câu thơ
như thế mà vẫn dửng dưng. Họ bảo những nỗi đau thương ấy thường quá. Vâng,
thường, thường lắm, thường như hầu hết những nỗi đau thương thành thực của
loài người. Tôi không muốn nói nhiều. Trước sự đau thương của người bạn, tôi
muốn im lìm, kính cẩn. Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi
lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ tôi cứ vương
vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư
nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà
10


chính là tiếng lòng thổn thức cũng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”…
[57.5-6].
1.1.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong tập thơ Tiếng thu
Với sự bùng nổ của ý thức cá nhân, Thơ Mới được coi là một “thời đại của
cái tôi”. Là một thủ lĩnh của Thơ Mới, cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Trọng Lư
có những đặc trưng thống nhất trong cả tập thơ Tiếng thu là Cái tôi mơ mộng,
Cái tôi cô đơn, Cái tôi thành thực, Cái tôi tha thiết với cuộc đời.
Hình tượng cái tôi trữ tình chỉ hình thành khi nhà thơ có một quan niệm
nghệ thuật,một cái nhìn riêng về cuộc đời. Bởi thơ ca là số phận, nhu cầu cá
nhân của cõi đời đang sống.
Hình tượng cái tôi trữ tình trong nghệ thuật nói chung và trong thơ nói
riêng là một yếu tố cực kì quan trọng,bộc lộ bản sắc,tiềm năng và khả năng đồng
hóa hiện thực của người nghệ sĩ, của nhà thơ. Những nhà thơ lớn đều có cái tôi
trữ tình độc đáo,đa dạng và phong phú ,in dấu ấn riêng trong nền thơ dân tộc.
Ở sáng tạo của các nhà thơ lớn,cái tôi bước vào thế giới nghệ thuật và trở
thành một hình tượng toàn vẹn. Khái niệm hình tượng cái tôi nhằm xác định một
chủ thể trữ tình đang tự bộc lộ với toàn bộ sức mạnh nhân cách,với mọi khả

năng của nó.Hình tượng cái tôi này chính là nhân vật trung tâm trong tác phẩm
thơ,mang vẻ đẹp độc đáo không lặp lại.
Ở đây, chúng tôi nghiên cứu hình tượng cái tôi ở cấp độ nhà thơ trong một
tập thơ tiêu biểu.Ở cấp độ này, hình tượng cái tôi là một kiểu nhân vật trong tác
phẩm văn học. Nhân vật này giống với nhân vật trong tác phẩm tự sự. Song, cái
tôi trữ tình hiện lên qua cách cảm thụ đời sống,qua cái nhìn qua giọng điệu.
Hình tượng cái tôi trữ tình đến với người đọc bằng tâm trạng,qua tâm trạng. Nó
không hoàn toàn đồng nhất với con người tác giả mà là kết quả của sự điển hình
hóa nghệ thuật khi cá nhân nhà thơ “ nghe thấy mình trong người khác, với
người khác và cho người khác” [ 21.27].
Hình tượng cái tôi luôn mang dấu ấn của thời đại. Nếu như “đặc điểm của
cái tôi trữ tình trong thơ cổ điển là tính chất phi cá thể, siêu cảm giác” [ 21.28] .
11


Với hình tượng cái tôi như thế, ta có thể hình dung diện mạo của nhà thơ qua
hành trang của con người với tư cách một loại hình xã hội : Nhà thơ minh quân,
nhà thơ tăng lữ, nhà thơ ẩn sĩ …thì đến thơ ca lãng mạn, thế giới được nhìn
ngắm với con mắt khác “ cá nhân tách khỏi xã hội, giọt nước ra ngoài biển cả” [
21.28] .Tách ra ngoài để nhìn ngắm xã hội một cách đầy đủ, tường tận hơn. Từ
đây cái tôi ngoại hình chuyển sang cái tôi tính cách các nhà thơ ý thức về mình
như một thế giới phức tạp.
Đến với thơ ca lãng mạn,chúng ta bắt gặp sự phong phú, phức tạp của
những thế giới bên trong, khi nhà thơ chân thành, cởi mở lòng mình. Có thể nói
thơ ca lãng mạn chính là “ Cuốn nhật ký của những cảm xúc” [ 21.29] của hồn
người. Vì thế mà trong Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh mới có thể thâu tóm
một cách tài tình thần thái của các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới. Thế Lữ :
rộng mở, Huy Thông : hùng tráng, Nguyễn Nhược Pháp: trong sáng, Huy Cận:
ảo não, Nguyễn Bính: quê mùa, Chế Lan Viên: kỳ dị , Lưu Trọng Lư: mơ mộng.
Từ đây, trong thơ lãng mạn đã xuất hiện nhiều cái tôi độc đáo,riêng biệt

làm nên diện mạo mới cho thơ lãng mạn. Trong sự phong phú, đa dạng đó,cái tôi
Lưu Trọng Lư tuy không phải là cái tôi gây ấn tượng bởi vẻ đẹp lạ lùng, kỳ dị
nhưng vẫn là một cái tôi với sắc diện riêng không dễ lẫn và có một vị trí đáng kể
trong thơ ca lãng mạn. Để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Mơ màng ấy chính là thần thái, là điệu hồn riêng của cái tôi trữ tình Lưu
Trọng Lư. Hoài Thanh đã khẳng định: “ Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là
kẻ ngơ ngơ, ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có Lư thi sĩ
hơn ai hết” [ 57.285]. Thi sĩ đi giữa cõi trần mà như giữa cõi mộng. cái tôi trữ
tình ấy hiện diện trong thế giới Tiếng thu “ như một làn khói lam ẻo lả, lơ lửng
giữa cảnh chiều thu” [ 22.30] và “ Hồn thi sĩ chỉ bàng bạc, phảng phất trong cái
thế giới vô hình động mạnh là hồn người thi sĩ tan ngay” [ 22.26]. Cái tôi trữ
tình ấy được Nguyễn Văn Long cảm nhận thật đầy đủ và sâu sắc: “ Cái tôi trữ
tình trong thơ Lưu Trọng Lư hầu như rất ít mối liên hệ với thực tại, mất khả
năng nhận thức cuộc sống hiện thực mà luôn chìm đắm trong thế giới mộng
12


tưởng. Màu sắc, đường nét của khung cảnh, bóng dáng của con người cho đến
thời gian và không gian… Tất cả đều khá mơ hồ, không rõ nét, không xác
định…”[ 28.15].
Đối với Lưu Trọng Lư, thế giới mộng không phải là cõi tách biệt với cõi
thực mà chính là môi trường sống của hồn thi sĩ. Nếu các thi sĩ lãng mạn khác
( Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương) phải mượn đến nàng tiên nâu để nhập mộng
thì Lưu Trọng Lư mộng là quê hương, mộng là cuộc sống. Ra khỏi cõi mộng
nhân vật trữ tình luôn cảm thấy giật mình, ngơ ngác như lạc vào xứ sở chỉ có
đau thương. Vì thế nhân vật trữ tình trong Tiếng thu coi đời là cõi mộng: mộng
trong đời, mộng trong sự sống, mộng trong tình, mộng trong thiên nhiên…Mọi
thi tứ trong thơ Lưu Trọng Lư đều nảy sinh từ cái tôi mơ màng, ảo mộng.
1.1.1.1. Cái tôi mơ mộng
Thi sĩ say sưa với tất cả mọi cái đẹp, mà cái đẹp ấy phần lớn chỉ tìm trong

cõi mộng. Tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức ,rạo rực.“Sống ở thế kỷ
XX,ngày ngày nện gót giày trên các con đường của Hà Nội, mà người cứ mơ
màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào” [57.285]. Mơ màng không
thể phủ nhận , chính là khí chất, là diện mạo tinh thần riêng của Lưu Trọng Lư
trong phong trào Thơ Mới.
Chúng ta không thể phủ nhận một điều : Mơ mộng theo tâm lý học là
trạng thái tâm lý của con người khi thoát ra khỏi thực tại, khỏi sự kiểm soát của
ý thức để cho tiềm thức và vô thức hoạt động. Theo phân tâm học,mơ là trung
gian giữa vô thức và tiềm thức,là hành vi giải phóng những ẩn ức vô thức. Chính
vì vậy mà sáng tạo nghệ thuật có thể coi là giấc mơ ban ngày. Mộng mà người
nghệ sĩ sáng tạo nên, hư cấu nên cũng như cơ cấu của vô thức được vận hành.
Và mộng của nghệ sĩ là phương tiện để chuyển tải và sáng tạo biểu tượng.
Với Lưu Trọng Lư mơ màng là trạng thái, là cách thức để hồn thơ ông đi
về giữa cõi thực và cõi mộng. Cái tôi trữ tình của Lưu Trọng Lư là cái tôi mơ
mộng. cái tôi mơ mộng của Lưu Trọng Lư được kiểm soát bởi ý thức .Song có
thể nói, mơ mộng như một đặc điểm của cá tính sáng tạo của Lưu Trọng Lư.
13


Khi tìm hiểu thơ Lưu Trọng Lư, ta thường xuyên bắt gặp hình ảnh nhân
vật trữ tình trong trạng thái chiêm bao, mộng mị, lạc trong quá khứ và ngơ ngác
trong hiện tại :
Hôm qua bạn ạ, ta chiêm bao
Gò ngựa bên sông dưới gốc đà o
( Hôm qua)
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không
( Nắng mới)
Các từ mơ, mộng ,chiêm bao ,say xuất hiện rất nhiều trong tập thơ Tiếng
thu. Thi nhân lúc nào cũng phiêu du trong cõi mộng: mộng lúc chiều về…,bơi

thuyền trong mộng, mộng gò ngựa bên gốc đào. Mộng giang hồ, mộng tình ái là
chất liệu quan trọng tạo nên cái tôi mơ mộng đư thi sĩ đến tận chân trời góc bể,
bến thần tiên hay cả bến mơ.
Dưới con mắt mơ màng của cái tôi trữ tình, thực và mộng thường hòa làm
một. Mỗi hình ảnh của thực tại có thể biến thành những ảo ảnh trong tâm tưởng,
tạo nên một chuỗi những suy tưởng mộng mị trong tâm hồn nhạy cảm của thi
nhân. Để rồi nhìn một bông hoa, một ngọn gió cũng gợi cho ông bao hoài niệm.
Tâm hồn nhậy cảm của người nghệ sĩ khiến cho mỗi hình ảnh trong đời
sống không trôi qua một cách vô tình mà để lại biết bao ám ảnh. Khí chất mơ
mộng của ông lại suy tưởng, hư cấu nó thành một thế giới nội cảm, trăn trở về
một kiếp người. Trong thơ ông người đọc thường bắt gặp những trạng thái giật
mình tỉnh mộng , mộng tan.
Than ôi , ngoảnh lại, biến đâu rồi
Còn vẳng trên đồi giọng hát thôi
Giật mình ta thấy đôi bồ lạnh
Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi
( Hôm qua)

14


Thế giới thơ trong Tiếng thu là thế giới của cái tôi mơ mộng. Cái tôi trữ
tình trong Tiếng thu rất ít mối liên hệ với thưc tại, mất khả năng nhận thức
cuộc sống thực tại mà luôn chìm đắm trong thế giới của mộng tưởng. Cái tôi
mơ mộng, nhạy cảm ấy đã làm nên bản sắc riêng của Lưu Trọng Lư trong
vườn hoa đầy hương sắc của phong trào Thơ Mới.
1.1.1.2. Mộng là gì ?
Mộng là một hiện tượng phức tạp trong đời sống con người. Để hiểu được
cụ thể Mộng là gì? ta phải đặt nó trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nhưng ở đây
chúng ta chỉ xét nó trong đời sống xã hội và trong sáng tạo nghệ thuật.

Trong đời sống xã hội:
Mộng trở thành một khái niệm phổ biến chỉ lý tưởng, khát vọng của con
người, là “ điều luôn được hình dung ,tưởng tượng và mong muốn trở thành hiện
thực” và là “ những say mê theo những hình ảnh tốt đẹp nhưng xa vời, thoát li
thực tế” [ 50.622].Thậm chí, mộng còn bị hiểu theo nghĩa tiêu cực là mơ mộng
,hão huyền…nhưng nói chung, nói tới mộng là nói tới ý tưởng “ hạt giống hi
vọng” của nhân loại.
Trên bình diện tâm lý học sáng tạo nghệ thuật:
Mơ mộng hay( ảo mộng) được đề cập hầu hết trong các cuốn tâm lý học
nghệ thuật. N.Arnaudop xem ảo mộng là sản phẩm của trí tưởng tượng và “ có
thể sử dụng chúng như những gì thấy trong thực tế vậy” [37.289] còn phân tâm
học thì coi mơ mộng là tâm thế tối ưu cho sáng tạo và “ những mộng do nhà văn
bịa ra có thể giải thích như những cái có thực vậy trong hoạt động sáng tạo của
nhà thơ,cũng như những cơ chế vô thức được vận hành” [ 41.38]
Do đó, “ Mộng là phương tiện chuyển tải và sáng tạo biểu tượng” [ 4.164].
Trong văn học: Mộng không những là đối tượng miêu tả thể hiện quan điểm
nhân sinh, mộng còn là phương tiện tư duy nghệ thuật. Ưu thế của nó là khả
năng hư cấu vô hạn. Mộng tạo ra vẻ đẹp huyền diệu,biến hóa thỏa mãn trí tưởng
tượng của con người.

15


Mơ cũng rất gần với mộng. Theo Từ điển tiếng Việt thì mơ cũng có nội
hàm tương tự mộng. Mơ thường thấy trong những giấc ngủ về những điều
thường ngay nghĩ tới hoặc không nghĩ tới. Mơ còn là tưởng tượng, mong ước
những điều tốt đẹp.
Cả mộng và mơ ta đều có thể hiểu là những điều không có thực. Xung
quanh mộng và mơ có hàng loạt các từ gắn với nó : Mộng tưởng, mơ hồ,mơ
màng, mơ mộng, mộng ảo…

Baudelaire quan niệm: “ Nghệ thuật trong mơ mộng và mơ mộng trong
nghệ thuật” [15]. Nghĩa là, thế giới của nghệ thuậtchính là thế giới của mơ mộng
và mộng mơ là trạng thái sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật.
1.1.1.3. Mộng mới là quê hương của nhà thơ
Hoài Thanh là người đã nắm bắt được cái thần thái đó của thơ Lưu Trọng
Lư. Trước thực tại tù túng ,để tìm nơi nương náu cho cái tôi cô độc không thể sẻ
chia của mình, Lưu Trọng Lư với điệu hồn riêng biệt đã tìm quên trong thế giới
ảo mộng. Thi nhân giấu mình trong những giấc mơ triền miên, giăng mắc khắp
cõi thơ của mình trong sương khói ảo ảnh làm nên cõi mộng Tiếng thu huyền
diệu. Thi sĩ đã tắm mình trong cõi mộng để vượt lên trên thực tại tầm thường ,
nhạt nhẽo. Ông đến với thế giới lung linh huyền ảo nhằm khẳng định cái tôi tự
do của con người trong thời đại mới. Điều này ,làm nên sự khác biệt giữa cái tôi
mơ mộng của Lưu Trọng Lư Với cái tôi mơ mộng của các nhà nho xưa. Khi bất
đắc chí với cuộc đời, họ bèn trốn vào mộng để bảo toàn khí tiết của kẻ sĩ, đứng
cao hơn, vượt lên trên cái tầm thường của cuộc đời ô trọc. Mộng của Lưu Trọng
Lư có sự gần gũi với mộng của Tản Đà. Giấc mộng của họ mang style của thơ
ca lãng mạn nhưng vẫn vấn vương chút cốt cách nhà nho của thi ca lãng
mạn.Đến Lưu Trọng Lư, thi sĩ đã thêm một lần đẩy mộng của Tản Đà tới lãnh
địacủa thi ca lãng mạn. Mộng trong Tiếng thu là một thế giới mơ màng, huyền
ảo, nơi phiêu du của những giấc mơ tình ái, giấc mộng giang hồ của một tâm
hồn khao khát sự sẻ chia đồng cảm. Chính mộng là cội nguồn,là quê hương sản

16


sinh ra và nuôi dưỡng hồn thơ Lưu Trọng Lư càng được thể hiện rõ nét trong tập
thơ Tiếng thu của thi sĩ.
1.1.1.4. Mộng trong Tiếng thu
Trong tập Tiếng thu của Lưu Trọng Lư mộng có thể coi là nét đặc trưng
của phong cách. Phong cách đó ,đã tạo nên Lưu Trọng Lư với hồn thơ đắm say,

mơ màng. Mộng chỉ là cảm hứng nổi trội và bao trùm lên thế giới nghệ thuật của
Tiếng thu.
Tiếng thu là một miền mơ hồ mông lung. Mộng xuyên thấm vào từng câu
chữ, hình ảnh, nhạc điệu. P.Velery nhà thơ Pháp đã rất có lí khi nhận định: “Mơ
mộng là nhận thức” [15]. Bằng mơ mộng Lưu Trọng Lư đã đi vào thế giới của
tưởng tượng, của sáng tạo nghệ thuật. Vì thế mà Tiếng thu đến với chúng ta như
một giấc mộng đẹp, với những âm điệu du dương, thiết tha. Ở đây, không có
nhiều bài thơ trực tiếp nói về mùa thu nhưng cái đặc trưng của mùa thu vẫn hiện
hữu ám ảnh không thôi. Nó ngập tràn lòng ta, không lấn át mà nhẹ nhàng xuyên
thấm.Vũ Ngọc Phan đã lí giải: “ Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng, thì dẫu
mùa đông hay mùa xuân, mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có các buổi “
chiều thu”, những buổi chiều mà cái buồn vơ vẩn nó đến van lơn, cám dỗ,
những buổi mà tiếng thu vang reo vừa nhẹ vừa chìm” [22.23]. Lắng nghe Tiếng
thu bằng cả tâm hồn ta sẽ được cùng thi sĩ phiêu du vào cõi mộng, để cùng thi
nhân cảm nhận cái thổn thức ,rạo rực của lòng người, cái xôn xao của đất trời
khi vào thu. Muốn thâm nhập vào cõi ấy, ta “ đừng nói to, bước nặng”, hãy “ lấy
hồn ta , để hiểu hồn người” [57.23].
Mộng xuất hiện dày đặc trong Tiếng thu. Theo khát sát 52 thi phẩm trong
tập thơ Tiếng thu thì mộng ( mơ) hiện diện 34 lần trong 17 bài thơ ( 11 lần dùng từ
mơ). Bản thân chữ mộng trong Tiếng thu cũng được dùng thật đa dạng. Ở đây tác
giả không chỉ dùng giấc mộng, cơn mộng như người đời thường nói mà còn là:
thuyền mộng, gối mộng, mộng vàng, đóa mộng đầu…Thi sĩ mộng trong đời , mộng
trong tình, mộng giai nhân, mộng thần tiên và mộng với cả quá khứ…

17


Mở đầu tập thơ thi sĩ đã dắt ta vào cõi của mộng, của mơ, của bồng lai,
tiên cảnh: Hôm qua bạn ạ ! Ta chiêm bao/Gò ngựa bên sông dưới gốc đào(
Hôm qua)

Trong mơ, thi sĩ thấy mình gò ngựa bên sông cùng người đẹp quá bến,
thưởng thức những trái đào chín mọng không có thực như: suối mây, vườn đào,
bến thần tiên , sông Linh... Cùng người đẹp trên một con thuyền mộng phiêu du
đến một nơi vô định.
Mộng đẹp rồi cũng qua , người đẹp rồi cũng biến mất như sương như khói
hư vô, khiến thi sĩ còn lại một mình ngẩn ngơ, thẫn thờ: Giật mình ta thấy đôi bồ
lạnh/ Người đẹp bên chăn biến mất rồi( Hôm qua)
Tưởng rằng thực tại sẽ đem thi nhân thoát ra khỏi mộng mị. Nhưng làm
sao thi nhân thoát ra được khỏi cõi mộng mị hư ảo ấy cho được, bởi với Lư
Trọng Lư “ mộng là quê hương”. Thi nhân lại chìm đắm trong cõi mộng, để lắng
nghe những âm thanh không lời của sự sống và như thế thi sĩ lại một lần nữa đẩy
thơ mình vào cõi mộng: Thơ ta cũng giống như tình nàng vậy/ Mộng/ Mộng mà
thôi, mộng hão hờ. Tất cả chỉ là hư vô, thực thực, hư hư khó lòng mà phân biệt.
Ba chữ mộng trùng điệp trong một câu thơ lại thêm hão hờ khiến cho tất cả lại
chìm đắm trong mộng ảo, phù du.
Không chỉ có vậy, mộng trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư lại có thêm
những hàm nghĩa mới:
Có khi, là một ẩn ức, một ám ảnh không sao giải thoát:
-Đã qua rồi cơn mộng
Đừng vỗ nữa tình ơi
(Còn chi nữa)
-Lúc mộng nhìn nhau cười ngặt nghẽo
Mộng tàn trên gối lệ hoen rơi
( Mộng chiều hè)
Khi lại là một trạng thái êm nhẹ lơ lửng:
-Trên trời chiếc nhạn êm như mộng
18


Lơ lửng âm thầm nhẹ cánh bay

( Im lặng)
-Một cõi u tĩnh lồng lộng:
Dưới chân không nghe chèo rẽ sóng
Thuyền bơi trong cõi mơ lồng lộng
( Thuyền mộng)
-Thi sĩ cứ đắm chìm mãi trong cõi mộng và cõi mộng ấy lại là ở cõi thần tiên:
Nhìn mây thẳm trời xa chóng mặt
Van nàng cắm lại chiếc thuyền mơ
(Thuyền mộng)
-Mộng có khi lại là một cái gì đó gần gũi, gắn bó dấu yêu của tuổi thơ:
Lững thững sườn non chiếc cáng diều
Ngàn thông còn đắm mộng thương yêu
( Chiếc cáng diều)
-Hay mộng mơ với thi sĩ còn là lúc ấu thơ được sống bên mẹ:
Hình bóng me tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
( Nắng mới)
Ấn tượng hơn là những đóa mộng đầu, chỉ một lần xuất hiện trong Tiếng
thu, đóa mộng ấy, tỏa hương ngất ngây tinh khiết của tình yêu thủa ban đầu:
Em xinh em đẹp lòng anh trẻ
Dan díu cùng nhau giấc mộng đầu
( Tình điên)
Ấm áp, ngọt ngào như một lời hẹn ước của tình đầu đắm say:
Chờ anh dưới gốc sim già nhé
Em hái đưa anh đóa mộng đầu
( Một chút tình)
Với Lưu Trọng Lư, cõi mộng không chỉ là chốn bồng lai như Thế Lữ,
cũng không phải là thủa hồng hoang nơi không gian và thời gian ngự trị như
19



Đinh Hùng, càng không phải là thế giới kì ảo hư Vũ Hoàng Chương. Mà với thi
sĩ , mộng đồng nghĩa với huyền diệu, ngát hương tình và tỏa men say. Mộng
trong Tiếng thu thậm chí còn mang sắc màu rực rỡ, tươi tắn, đầy ấn tượng:
Mộng nở trong lòng sắc đỏ hoe ( Mây trắng), Mộng vàng không kịp hái(
Mưa…mưa mãi). Có khi ta lại bắt gặp những giấc mộng kép hay mộng trong
mộng: Ta mơ trong đời hay trong mộng/ Ta mơ trong đời hay trong mộng( Tình
điên)
Câu thơ có sự giăng mắc của sương khói và huyền ảo như mộng. Với sự
trùng phức của những hình ảnh chập chờn hư ảo. Ảo hay mộng? Thực hay mơ?
Kỉ niệm đẹp hay nỗi đau vì đôi ngả tình đi có làm tác giả tỉnh mộng để quay về
với thực tại? Điều đó có lẽ chính thi sĩ cũng không biết. chỉ biết rằng trong Tiếng
thu với sự xuất hiện dày đặc của mộng cho thấy tâm hồn thi sĩ luôn chìm đắm
trong tưởng tượng và mộng ước xa xăm. Mỗi bài thơ trong Tiếng thu là một đóa
mộng mà thi sĩ đưa tay hái lượm lấy trong những bước phiêu du nơi hải hồ hay
những cuộc phiêu du tình ái bằng trí tưởng tượng. Những đóa mộng ấy kết thành
một chùm nguyện, một chùm thơ, là Tiếng thu- tiếng thơ của hồn mộng.
1.1.1.5. Mộng với sầu, buồn với say
Trong Tiếng thu, mộng đã huyền ảo hóa những dòng thơ. Thế giới của
Tiếng thu là một thế giới mộng. Vì thế bản thân sự xuất hiện của từ mộng
không đủ để mộng hóa Tiếng thu. Chất mộng ấy được thoát thai từ hồn thơ
bảng lảng, chập chờn sương khói Lưu Trọng Lư. Đọc Tiếng thu có những bài
rất mộng nhưng lại không hề có một chữ mộng ( mơ) nào. Tiếng thu có những
bài thơ sắc nét hiện thực nhưng lại là hình ảnh của cõi mộng ( Nắng mới). Mộng
chuyển hóa những dòng thơ trong nỗi sầu mênh mang và cái say sưa chuyênh
choáng. Sầu ,buồn và say là những biểu hiện trong Tiếng thu.
 Mộng bao giờ cũng gắn với sầu buồn:
Trong văn chương lãng mạn nói chung, sầu- buồn được coi là một tâm
bệnh của thời đại. Có lẽ vì thế mà: “ Thơ mới vừa cất tiếng chào đời đã buồn


20


×