Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng tư tưởng đó của sinh viên trường đại học Thương Mại vào khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.05 KB, 31 trang )

Mục Lục


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân
tộc. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt
Nam một nền văn hóa tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc và khát vọng tự
do là truyền thống của lịch sử. Đó là nền tảng văn hóa tư tưởng của sự hội tụ và
đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch
sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng
Cộng sản Việt Nam do chính Người sáng lập trong gần 80 năm đã qua cho phép
chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các
giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng
có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Tư tưởng Đại đoàn kết đã trở thành tình
cảm, suy nghĩ của mọi người Việt Nam yêu nước là sợi dây liên kết cả dân tộc và
tạo nên sức mạnh to lớn đưa đến thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Chỉ có huy động
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta mới đưa đất
nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn ming dân chủ.
Vì vậy, việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong công
cuộc đổi mới hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng. Đó là lý do nhóm chúng em
chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng tư tưởng
đó của sinh viên trường đại học Thương Mại vào khối đại đoàn kết dân tộc ở nước
ta hiện nay. Đề tài mang tính mở rộng cao, nhóm chúng em đã rất cố gắng song
vẫn còn không ít những hạn chế và thiếu xót. Rất mong giảng viên và các bạn đóng
góp ý kiến để đề tài thảo luận được hoàn thiện hơn.

2



CHƯƠNG 1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng hợp
thành trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người có thể nhận thấy cụm từ “đoàn
kết” được Người nhắc tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được Người
nhắc tới hơn tám mươi lần, điều đó nói lên sự quan tâm đối với vấn đề đoàn kết ở
mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lịch sử, đồng thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng
đoàn kết của Người. Đoàn kết có thể hiểu một cách đơn giản là sự tập hợp, kết
thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó.
Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy nhất
Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái
nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác”
“Đoàn kết đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Hồ Chí Minh
Từ thuở xa xưa, dân tộc Việt Nam đã có ý thức chung giòng giống – dòng máu Lạc
Hồng. Trong buổi đầu dựng nước nhân dân đã cố kết với nhau trong trong khai phá
làng mạc, làm thủy lợi để sản xuất và chống chọi với thiên nhiên, hành động xâm
lược của các thế lực bên ngoài đã hình thành nên sự đoàn kết nhân dân trong tình
làng nghĩa xóm. Văn hóa xóm làng của văn minh nông nghiệp lúa nước đã tạo ra
tính cộng đồng và đoàn kết chặt chẽ với nhau trong sản xuất chiến đấu cũng như
trong xây dựng tạo ra truyền thống dân tộc và tính bền vững của văn hóa dân tộc
và truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của nhân dân Việt Nam, tư tưởng đoàn kết,
sự thống nhất máu thịt:

-“ Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Hay là:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”
3


Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước tinh thần yêu nước gắn
liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được
hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, đối với mỗi người Việt
Nam yêu nước - nhân nghĩa – đoàn kết trở thành một tình cảm tự nhiên, truyền
thống cao cả và tốt đẹp.
Những giá trị truyền thống dân tộc đã trở thành một triết lí nhân sinh:
Một cây làm chăng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Hình thành phép ứng xử và tư duy chính trị : “Tình làng nghĩa nước”,”Nước mất
thì nhà tan”, “Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh”
Những truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân
gian mà còn được các anh hùng ở các thời kì khác nhau đúc kết nâng lên thành
phương pháp đánh giặc cứu nước ; được thể hiện ở phương pháp thống nhất lợi
ích, tư tưởng ; phương pháp nuôi dưỡng sứ dân và sủ dụng sức quân của Trần
Hưng Đạo: “ Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “ Tướng sĩ một long phụ
tử”, “ Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc giữ nước”. Hay phương pháp tập
hợp lực lượng và sức mạnh nhân dân của Nguyễn Trãi và hai cụ Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh : “Dựng gậy làm cờ, tập hộp bốn phương manh lệ”, “chở thuyền
là dân, lật thuyền cũng là dân” ... Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được truyền thống
yêu nước nhân nghĩa- đoàn kết dân tộc. Người đã khẳng định “ Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay,

mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi , nó kết thành một làn song
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. => Chủ nghĩ yêu nước, truyền thống đoàn kết,
cộng đồng của đân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.2 Tư tưởng đoàn kết trong quan niệm phương Đông và phương Tây
Các nền văn hoá - văn minh phương Đông thường xuất hiện gắn liền với các
dòng sông – nơi con người có thể “bám” vào đó để sinh tồn.
Với khởi nguồn và điều kiện ra đời như vậy, văn hoá truyền thống phương Đông
có một số đặc điểm tiêu biểu, khác với văn hoá phương Tây. Bài viết này đi sâu
vào những đặc điểm chủ yếu như sau:

4


Văn hoá phương Đông chủ yếu là văn hoá gốc nông nghiệp, trong khi văn
hoá phương Tây chủ yếu thuộc loại hình gốc du mục và thương nghiệp.
Tất nhiên nói như thế không có nghĩa là trong văn hoá phương Đông không có
các yếu tố du mục và thương nghiệp (như đã thấy qua việc khảo sát các khu vực
văn hoá phương Đông vừa trình bày ở trên) nhưng nhìn một cách tổng thể thì bản
sắc nông nghiệp - nông thôn là nét chủ đạo.
Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình nông dân cùng canh tác trên một cánh
đồng, ruộng đất nhà này tiếp giáp ruộng đất nhà kia. Để có được năng suất, những
người nông dân trong làng không thể không liên kết với nhau. Chỉ có đoàn kết con
người mới chống được thiên tai. “Lụt thì lút cả làng” vì vậy chỉ có sự đồng tâm
hiệp lực của cả làng, cả xã thì mới đắp được đập, được đê ngăn nước. Muốn chống
hạn, diệt sâu bệnh, chuột bọ,... cũng cần sức mạnh của cả làng. Môi trường canh
tác mang tính tập thể như thế chính là cơ sở để nảy sinh tính cộng đồng.
Đặc trưng này của văn hoá phương Đông khiến mỗi người khi hành động
luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội. Trong làng, người dân

thường tránh những việc làm phương hại đến tập thể. Từ đây nảy sinh quan điểm
sống vì tập thể. Vì tập thể, người ta sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân. Cũng vì thế
mà người phương Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm (trong khi phương
Tây thì coi trọng quyền lợi). Quả thực, trong việc chống chọi với thiên tai, địch
hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm được đề lên thành nghĩa vụ thì không thể
có được chiến thắng.
Những người trong làng sống nương tựa vào nhau, vì nhau, sống theo tinh thần
cộng đồng, do đó họ đối xử với nhau rất có tình cảm. Mọi vấn đề nảy sinh đều
được giải quyết bằng tình nghĩa họ hàng, bà con, láng giềng một cách mềm dẻo. Có
người ví văn hoá ứng xử phương Đông mềm dẻo và linh hoạt như nước. Vì
vậy mềm dẻo, trọng tình thực sự là một đặc trưng của văn hoá ứng xử phương
Đông. Người ta sống với nhau bằng tình cảm thương yêu, bằng tinh thần cộng
đồng, vì vậy sẵn sàng giúp đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, khó khăn, theo tinh
thần “lá lành đùm lá rách”. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng
đức, trọng văn, trọng sự hiếu hoà. Từ tính cộng đồng, từ sự đùm bọc làng xã, sau
này truyền thống tốt đẹp ấy phát triển thành tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu
nước phương Đông.
Nếu so sánh với văn hoá phương Tây thì cũng thấy một sự khác biệt nhất định.
Có thể nói, trong quan hệ ứng xử, phương Tây thiên về cá thể, trọng lí. Đối với
phương Tây, con người cá nhân được đề cao. Điều này có điểm mạnh là phát huy
cao độ sức sáng tạo cá nhân, tránh được sự dựa dẫm theo kiểu “cha chung không ai
5


khóc”. Hơn nữa lối ứng xử trọng lí giúp con người sống theo pháp luật một cách có
ý thức - điều mà các xã hội nông nghiệp phương Đông phải phấn đấu rất gian khổ
mới có được.
1.1.3 Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin về đại đoàn kết dân tộc
Chủ nghĩa Mác - Lê nin là cơ sở lí luận quan trọng nhất đối với quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chủ nghỉa Mác - Lê nin cho

rằng : Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng ; Nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử ; Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc; Liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lưc lượng cách mạng ; Đoàn kết dân tộc phải gắn
liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại”. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin là vì chủ nghĩa
Mác - Lê nin đã chỉ ra cho các dân tộc con đường tự giải phóng. Lê nin cho rằng,
sự liên minh giai cấp trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết đảm bảo
cho thắng lợi của cách mạng vô sản, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa
số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách
mạng vô sản không thể thực hiện được. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê nin không
những đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí
của khối liên minh công nông trong cách mạng vô sản. Thông qua hoạt động
nghiên cứu và tìm hiểu của mình Hồ Chí Minh đã sớm nắm được linh hồn và vấn
đề cốt lõi của học thuyết Mác - Lê nin. Những quan điểm cơ bản của chủ Mác – Lê
nin quyết định sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, từ đó
Người đã có cơ sở khoa học để nhìn nhận, đánh giá chính xác sức mạnh của những
giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị truyền thống của
cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lê nin là cơ sở khoa
học, là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản đã trang bị thế giới quan, phương pháp luận
khoa học trên cơ sở đó Hồ Chí Minh nhận xét, đánh giá về phong trào cách mạng
Việt Nam, cách mạng thế giới đồng thời nhận thức và vận dụng sáng tạo những giá
trị truyền thống dân tộc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. Những bài học rút ra từ cuộc cách mạng các nước đã hình thành và hoàn chỉnh
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

6


1.2 Cơ sở thực tiễn
Về thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên

cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong
trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới nhất là phong trào giải phóng đân tộc ở
các nước thuộc địa.
*Tổng kết phong trào cách mạng ở Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho thời kỳ cai trị và
áp bức của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 80 năm trời ròng rã. Nhưng
cũng chính trong vòng gần 80 năm đó, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc lại sôi nổi hơn bao giờ hết( như các phong trào yêu nước như Cần
Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy
Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX ) nhưng cuối cùng vẫn thất bại.Thực tiễn hào hùng,
bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ rằng, bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần yêu
nước thì không thể đánh bại các thế lực Đế quốc xâm lược. “Sử ta dạy cho ta rằng
khi dân ta biết đoàn kết thì khi đó dân ta mới giành thắng lợi”.
Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước tiền bối, đặc biệt là trong vấn đề tập hợp lực lượng
(như cụ Phan Bội Châu chủ trương tập hợp 10 hạng người chống Pháp là : quý hào,
quý tộc, nhi nữ, anh sĩ, du đồ, hồi đảng, thông ngôn, kí lục, bồi bếp, tín đồ thiên
chúa giáo nhưng thiếu công nhân và nông dân). Người rút ra những bài học kinh
nghiệm đấu tranh không thể không có sự đoàn kết chặt chẽ của những người cùng
khổ thành khối vững chắc,và Người cũng thấy rõ yêu cầu khách quan của sự đoàn
kết thống nhất trên cơ sở có đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, khoa học.
Bởi vậy, vấn đề đoàn kết dân tộc luôn được Người xem như vấn đề cót lõi trong
quá trình đấu tranh của nhân dân ta sau này.
*Tổng kết phong trào cách mạng trên thế giới
Bước chân ra đi tìm đường cứu nước từ Bến cảng Nhà Rồng. Từ 1911 đến 1941
Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Đối với cách mạng thế giới Người
đã nghiên cứu các cuộc cách mạng Tư sản đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng
Pháp, Người đã rút ra kết luận : cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp là những cuộc
cách mạng “Chưa đến nơi”. Cách mạng thành công mà quyền nắm trong tay bọn ít
người, dân chúng vẫn bị áp bưc bóc lột và nghèo nàn. Tổng kết thực tiễn đấu tranh

của các dân tộc thuộc địa Người nhận thức một sự thực: “Các dân tộc thuộc địa
7


tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi
vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai
cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
. Yêu cầu đặt ra là phải có một tổ chức để đoàn kết thống nhất cuộc đấu tranh của
nhân dân các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là Chủ
nghĩa thực dân và Chủ nghĩa Đế quốc. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã
đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt trong việc tìm đường cứu nước.
*Tổng kết kinh nghiệm từ cách mạng tháng 10 Nga
Tháng 9/1917, Lenin nhận định: “Hiện nay, tình thế đã thay đổi khác hẳn. Chúng
ta đã giành được đa số trong giai cấp đứng làm đội tiên phong của cách mạng, đội
tiên phong của nhân dân và có khả năng lôi cuốn quần chúng theo mình. Chúng ta
đã giành được đa số trong nhân dân. Thắng lợi chắc chắn thuộc về chúng ta”. Với
sự ủng hộ từ người dân các khu vực lớn, thời cơ để đảng Bolshevik tiến hành Cách
mạng đã chín muồi.Sang tháng 10, làn sóng cách mạng lan tràn khắp nước Nga.
CMT10 Nga thành công (1917) đã soi sáng mọi trái tim yêu nước trên khắp thế
giới. Trở thành “ngọn hải đăng” soi sáng những “con tàu” cách mạng đang lạc tay
lái lúc bấy giờ. Đối với Hồ Chí Minh thì đây là bước ngoặt quyết định trong việc
chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Đến với Lênin, đến với cách mạng tháng Mười Nga, từ chỗ chi tiết đến CMT10 một cách cảm
tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường CMT10 và những
bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào
cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh nhận ra nhiều yếu tố, nhiều điều mới trong đó
nếu những người Bôn-Sê-Vích Nga không thực hiện đoàn kết rộng rãi thì không
thể đánh thắng 14 nước đế quốc, không thắng nổi thù trong, giặc ngoài để bảo vệ
Nhà nước Xô Viết non trẻ đầu tiên vừa mới ra đời – đây là bài học cho sự huy
động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ
chính quyền cách mạng. Chính những điều trên đã giúp Người hiểu sâu sắc thế nào

là một cuộc “cách mạng đến nơi” để chuẩn bị lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào
con đừơng cách mạng những năm sau này.
Đối với phong trào ở các nước thuộc địa và phụ thuộc Hồ Chí Minh đặc biệt chú
ý đến Trung Quốc và Án Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học
rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng ( đoàn
kết các dân tộc, các giai tầng, các đảng phái và tôn giáo…Nhằm thực hiện mục tiêu
của từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng).
8


CHƯƠNG 2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc
2.1 Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
2.1.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng
Phân biệt chiến thuật, sách lược, chiến lược
Mặc dù chiến thuật và chiến lược có mối quan hệ khăng khít, lệ thuộc lẫn nhau,
nhưng hai khái niệm này khác nhau về cơ bản. Chiến thuật là một tổ hợp các hành
động cụ thể nhắm đến các mục tiêu trong ngắn hạn. Do đó, chiến thuật có thể thay
đổi một cách nhanh chóng và linh hoạt, tùy theo hoàn cảnh. Nếu như chiến thuật
gắn liền với từng trận đánh thì chiến lược quan tâm tới toàn cục cả cuộc chiến. Có
thể nói, chiến lược là một thứ lôgic vĩ mô kết nối các mục tiêu lớn với các nguồn
lực cơ bản mà một quốc gia sẵn có.1Nhiệm vụ của chiến lược không phải là giành
các thắng lợi nhỏ lẻ mà là đảm bảo sự hài hòa, nhất quán trong chính sách và ổn
định vĩ mô về lâu dài.
Do đó, tầm quan trọng của chiến lược dường như hết sức hiển nhiên. Tuy vậy,
chuyên gia Raphael Cohen của Viện nghiên cứu RAND nhận thấy rằng trên thực
tế, chiến lược thường khiến người ta thất vọng bởi đa số các chiến lược đều dài
dòng, thiếu thực chất trong khi lãnh đạo lại không sẵn sàng chấp nhận những sự
đánh đổi khó khăn, vốn là một phần tất yếu của chiến lược.2
Ngay cả trong giới học giả vẫn luôn tồn tại một luồng ý kiến cho rằng chiến lược

không có vai trò đáng kể trong hoạch định chính sách.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào hai cuộc chiến trường kỳ của Mỹ ở Việt Nam và I-rắc thì
có thể thấy rằng tuy chiến thuật quân sự của người Mỹ hoàn toàn hiệu quả nhưng
rốt cục họ vẫn không đạt được mục tiêu chính trị và thắng lợi cuối cùng, do không
có chiến lược đúng đắn dẫn đường chỉ lối. Cần lưu ý rằng, khác với chiến thuật,
chiến lược không phải là một công thức. Giá trị của chiến lược một phần rất lớn
nằm ở chỗ định hình đường lối tư duy và dẫn dắt các cuộc tranh luận trong giới
Xem thêm Richard K. Betts. “Is Strategy an Illusion?” International Security 25, số 2 (2000):
5-50.
1

Cohen, Raphael S. “Why Strategies Disappoint and How to Fix Them”, Lawfare, ngày
19/3/2017, />2

9


tinh hoa. Do đó, khó có thể thấy được ngay tính hiệu quả của chiến lược. Tuy vậy,
điều này không chứng tỏ chiến lược không hữu dụng mà chỉ cho thấy chúng ta cần
thiết kế một khung đánh giá hợp lý dành riêng cho chiến lược.
Sách lược là những biện pháp, cách thức, đường lối, hình thức tổ chức và đấu
tranh cụ thể được thực hiện trong một giai đoạn nhất định nhằm thực hiện thành
công một chính sách, chiến lược nào đó. Trong quân sự, sách lược là những hành
động cụ thể như viện trợ quân sự, sử dụng lực lượng quân đội, vũ khí, để thực hiện
thành công một chính sách quân sự cụ thể nhằm đạt được mục tiêu chiến lược lâu
dài. ách lược của bạn là hành động hay chuỗi các hành động cụ thể và lịch trình mà
bạn sẽ sử dụng để biến chiến lược thành hiện thực. Nếu như bạn có khá nhiều
chiến lược, bạn sẽ phải có những sách lược khác nhau cho mỗi chiến lược ấy.
Chiến lược là chương trình hành động, kế hoạch hành động được thiết kế để đạt
được một mục tiêu cụ thể, là tổ hợp các mục tiêu dài hạn và các biện pháp, các

cách thức, con đường đạt đến các mục tiêu đó.
Chiến lược liên quan đến các định hướng lớn, tạo ra những kết quả to lớn tại những
khu vực quan trọng và then chốt trong dài hạn, có sự tích lũy kế thừa, mà kết quả
này chỉ có thể có được từ hoạt động nhất quán, tập trung. Sự nhất quán và tập trung
là cần thiết, vì nguồn lực không phải là vô hạn. Như vậy, chiến lược thể hiện rõ sự
ưu tiên. Nếu cùng làm tất cả những điều "quan trọng" thì đó không phải là chiến
lược với đúng ý nghĩa của nó. Trong tương quan với chiến lược thì chiến lược là kế
hoạch quy mô lớn, mang viễn kiến và tầm bao quát rộng; còn sách lược là chuỗi
những hành động và lịch trình chi tiết nhằm cụ thể hóa và thực hiện chiến lược.
Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất
quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng.Đó là
chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành và phát
huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc, của
nhân dân lao động.
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản là
phương pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một
tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng, Người khẳng định:
“Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị” 3. Có
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244

10


thể nói đoàn kết dân tộc vừa là điều kiện tiên quyết, sống còn đối với sự nghiệp
cách mạng, đồng thời là tôn chỉ, mục đích, là nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp
cách mạng cần hướng và đạt tới.
Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một chủ trương, một chiến lược xuất
phát từ nguyện vọng, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà là sự đúc kết
những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành. Nếu
như xuất phát từ nhu cầu của lực lượng lãnh đạo cách mạng, đại đoàn kết dân tộc

sẽ chỉ dừng lại là một thủ đoạn chính trị nhằm đạt được mục đích, một ý đồ nhất
định. Ngược lại, nhìn nhận đoàn kết dân tộc như một đòi hỏi tự thân, khách quan
của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng thì đại đoàn kết là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng,
Người yêu cầu không được có bất cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại trong
nhận thức mà được cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát triển của cách
mạng, Người nói: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.4
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một công việc hết
sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành công khi
quy tụ được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc vì đoàn kết mới tạo nên sức mạnh,
tạo nên lực lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến thắng kẻ thù.
Chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
có thể điều chỉnh cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết
dân tộc luôn được Hồ Chí Minh coi là vấn đề sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cách mạng.
Ngay sau khi ra đời, ngày 18-11-1930, Đảng ta đã quyết định thành lập Mặt trận
Dân tộc thống nhất Việt Nam nhằm tập hợp rộng rãi các giai cấp, dân tộc, tôn giáo,
tầng lớp xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc thực hiện thắng lợi mục tiêu,
con đường đã chọn. Suốt 85 năm qua, với các phương thức hoạt động, hình thức tổ
chức, tên gọi khác nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất đã lớn mạnh không ngừng và
có những đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ĐĐK toàn dân
4Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244

11


tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng trong mỗi thời kỳ.
Kế tục sự nghiệp vẻ vang của Hội Phản đế đồng minh (1930-1936) và của Mặt trận
dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận Việt Minh do chính Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập (19-5-1941) đã tập hợp các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu
nước và các tổ chức cứu quốc, đoàn kết, động viên toàn dân nổi dậy giành chính
quyền, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng
lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà
bình Việt Nam, tạo sức mạnh để nhân dân ta “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Với Người, đoàn kết là sức mạnh, là cội nguồn của thành công: “Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”5.
Thực tiễn cách mạng đã trả lời giữa đoàn kết và thành công có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau bởi phạm vi, mức độ, quy mô của thành công trước hết phụ thuộc vào
chính quy mô và mức độ của khối đại đoàn kết. Là người lãnh đạo tối cao cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không
chỉ tạo nên sức mạnh mà là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành
bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Để lý giải một nước Việt Nam
nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại một tên thực dân đầu sỏ có ưu
thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện chiến tranh, Người nói: “Toàn dân Việt Nam
chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ, Chỉ có một ý chí: Quyết không chịu mất
nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập
cho tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững
chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu
nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại” 6. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã

trả lời, có đoàn kết mới có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ
5

Sđd, tập 13, tr.119

6

Sđd, tập 3, tr.256; tr.168

12


bao nhiêu lại cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt quan tâm tới vấn đề đoàn kết vì đoàn
kết là mấu chốt của thắng lợi và rút ra một bài học lớn đồng thời là quy luật mang
tính sống còn của dân tộc Việt Nam: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta
đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”7.

2.1.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân
tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là
mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh
vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
Trong lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, thay mặt Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào: "Mục đích của
Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc".
Theo quan niệm của Người, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết "mọi người mang

trong mình dòng máu con Lạc, cháu Hồng", là đoàn kết "mọi con dân đất Việt",
đoàn kết "mỗi một người con Rồng, cháu Tiên". Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, mà cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, vì
nó là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải
phóng mình. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển hóa những
đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành
hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
7 Sđd, tập 5, tr.178-179; tr.33

13


Và chính Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp đó. Nghiên cứu những
bài viết, bài nói của Người, ta thấy hầu như không bài nào vắng bóng những từ
"đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết". Trên cương vị và uy tín của mình, Người đã
dành khá nhiều thời gian viết thư gửi nam, phụ, lão, ấu, đồng bào các dân tộc, công
nhân, nông dân, bộ đội, nhân sĩ, trí thức, giới công thương, Việt kiều, đồng bào các
tôn giáo, v.v. nhằm duy trì và mở rộng khối đại đoàn kết.
Đối với đồng bào các dân tộc, Người kêu gọi: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều
là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng
khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi
giục để chia rẽ chúng ta.
Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung của chúng ta.
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên
tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ
Chính phủ ta". (Trích thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền nam tại Plây Cu
ngày 19-4-1946).

Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên
phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần
chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là
ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong".
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm
vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh
tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có
đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể
hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực
lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ
tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên
huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là
làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi Bây giờ mục
đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà"
14


Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu của
Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh
để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu
đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng
dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại
đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.

2.2 Lực lượng đại đoàn kết dân tộc.
2.2.1 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Người đã từng nói:
"Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng,
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông
Oanh oanh liệt liệt con Rồng, cháu Tiên!
Khái niệm Dân, trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng. Người dùng
các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên", không
phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân
tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu
tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất
và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với
họ"8
Như vậy dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách
là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân
dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn
kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN.
Điều đó được nêu trong bức thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31-5-1946:
"Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
8 Hồ Chí Minh - Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, Tập 7, tr. 438.
15


Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!
Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón
vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người
cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ

tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu
Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết,
có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang...".
Trong thư gửi các linh mục và đồng bào công giáo Việt Nam ngày 25-12-1945, Hồ
Chủ tịch viết: "Trong lịch sử Việt Nam ta, lần này là lần đầu mà đồng bào công
giáo ta làm lễ Nôen một cách vui vẻ, sung sướng trong nước Việt Nam độc lập, tự
do". Người tin rằng: "Đồng bào công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc
để giữ vững nền tự do độc lập đó".
Gửi thư cho Hội Phật tử Việt Nam ngày 30-8-1947, Người cảm ơn sự đóng góp
của đồng bào phật tử trong cuộc kháng chiến cứu nước và mong đồng bào đoàn
kết, cố gắng thêm, cố gắng mãi cho đến ngày trường kỳ kháng chiến thắng lợi,
thống nhất và độc lập thành công.
Gặp gỡ Việt kiều ở Pháp năm 1946, Bác căn dặn mọi người đoàn kết, giúp nhau
tiến bộ, cố gắng học một nghề gì có ích để phục vụ dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!
Thành công, thành công, đại thành công!
Ngày 6/6/1941, Nguyễn Ái Quốc, trong lời hiệu triệu “Kính cáo đồng bào” với
nhận thức sau khi Pháp đã bị mất nước vào tay phát xít Đức và phát xít Nhật bị sa
lầy ở Trung Hoa, nên cơ hội tự giải phóng mình lớn chưa từng thấy đã tới với hơn
hai mươi triệu người Việt Nam. Người con yêu nước vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã lý
giải, sở dĩ trước đây nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, dù dân tộc ta đã có
những tấm gương oanh liệt nổi dậy chống giặc ngoại xâm của các bậc lão tiền bối
như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến… nhưng “việc lớn
chưa thành”, đó không chỉ vì “cơ hội chưa chín” mà còn là vì “dân ta chưa hiệp lực
đồng tâm”. Và vì thế, “muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: TOÀN DÂN
ĐOÀN KẾT!”.
16



Còn tháng 8/1945, trong thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Bác Hồ cũng đã nhắc lại:
“Bốn năm trước đây, tôi đã có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết
mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO…” Và Bác lại
nhấn mạnh: “Chỉ có đoàn kết phấn đấu, nước ta mới được độc lập”. Bác nêu rõ:
“Việt Minh là cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này. Hãy
gia nhập Việt Minh. ủng hộ Việt Minh, làm cho Việt Minh rộng lớn, mạnh mẽ…”
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân được
lập nên, Bác Hồ với tư cách người đứng đầu bộ máy điều hành đất nước, lại thêm
lần nữa nêu bật yếu tố đoàn kết trong tất cả những thành công của cách mạng:
“Nhờ nhân dân ta đoàn kết một lòng và Chính phủ lãnh đạo khôn khéo mà chúng ta
bẻ gãy xiềng xích nô lệ, tranh được độc lập, tự do…”.
Và Bác đã đưa ra yêu cầu: “Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một
khối”, bởi lẽ: “Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng, nếu không có
Chính phủ thì không ai dẫn đường…” (trích “Thư gửi các ủy ban nhân dân các bộ,
tỉnh, huyện và làng”, tháng 10/1945). Trước đó, nửa tháng sau khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, đăng trên báo
Cứu quốc ngày 17/9/1945, Bác đã chỉ rõ nhiệm vụ đầu tiên và trên hết trong chính
sách của Chính phủ là: “Củng cố sự đoàn kết toàn dân”. Và ngay từ thời điểm đó,
Bác đã cảnh báo một trong những căn bệnh “to nhất” mà chính quyền ở các địa
phương dễ mắc phải là “khuynh hướng chật hẹp và bao biện”, tức là chỉ tin và giao
việc đối với những người “đàng mình”, “không biết đem những người có danh
vọng và tài cán ở địa phương vào giúp việc”
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập
hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có
lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội
lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy. Hồ
Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt
tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tới cách mạng dân

chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.2.2 Điều kiện thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
* Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành,
củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm
của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn
17


của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ thời các Vua Hùng
dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, QuangTrung...
Truyền thống yêu nước, đoàn kết
Từ thế kỷ thứ III tr. CN., dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn
phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 tr. CN. đến năm 938,
nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc (tổng cộng 1117 năm). Đây là
thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật
cường, sự vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng
oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn
đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên - Mông, Lê Lợi đánh
bại quân Minh, Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh... Rồi đến những thắng lợi vang
dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến
tranh tàn khốc đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở
tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên
lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp
giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của
dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh
dũng hy sinh nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng,
tiễn con ra mặt trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Có những bà mẹ có
tới chín người con trai, một người con rể và cả chồng là liệt sĩ! Đây là sự hy sinh to
lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu thôi

cũng đã quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước không phải là một triết lý đế
án đàm, nó là kim chỉ nam cho hành động, đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy
dân tộc ta tiến lên.
Điều này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và lũ cướp nước”9
Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến
thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc
được giữ vững.

9

Hồ Chí Minh. Toàn tập. t. 6. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171

18


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc (1954-1975) là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng
nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Đó là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, tinh thần yêu nước, bản lĩnh, trí tuệ và giá trị nhân văn đã được hun
đúc, kế tục qua hàng ngàn năm văn hiến. Thắng lợi vĩ đại này làm cho nhân dân
thế giới hiểu rõ hơn về một Việt Nam giàu lòng yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ,
kiên cường, bất khuất, nhất là lòng nhân ái, bao dung, nhân văn.
Truyền thống nhân nghĩa
Chiến tranh đã lùi xa hàng thập kỷ nhưng trong ký ức của nhiều người lính Mỹ
đã từng tham chiến ở Việt Nam vẫn còn nguyên những kỷ niệm khó quên về sự đối
xử hết sức nhân đạo của người dân Việt Nam khi họ bị bắt làm tù binh. Điều đó đã

đánh thức lương tri, sự hối hận về những tội ác mà họ đã gây ra cho nhân dân Việt
Nam trong cuộc chiến tranh phi nghĩa. Trong số đó có nhiều người đã quay trở lại
Việt Nam và lần này, họ được chào đón như là người bạn. Quả thực, giá trị nhân
văn, nhân đạo, tư tưởng nhân nghĩa là nét đặc trưng trong sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc của nhân dân ta qua các thế hệ, thời đại, đã kết nối Việt Nam với các
quốc gia, dân tộc trên thế giới. “Đem đại nghĩa thắng hung tàn - Lấy chí nhân thay
cường bạo” là giá trị cao đẹp, biểu hiện tính chất chính nghĩa và nhân văn trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta. Cùng với tư tưởng “Dựa
vào dân, lấy dân làm gốc”, tư tưởng nhân nghĩa của tổ tiên ta trở thành truyền
thống, bản sắc văn hoá, là quy luật tồn tại, phát triển dân tộc Việt Nam qua hàng
nghìn năm lịch sử. Đó là cội nguồn của sức mạnh đã làm nên những thắng lợi vĩ
đại trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Giá trị nhân văn, nhân đạo vì con người từ ngàn đời nay đã được hội tụ, lan tỏa
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân năm
1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta.
Đó là đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao
của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người; tin
vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân, với quan điểm “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, “lấy dân làm gốc”; đại
đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân…
*Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người.
Khoan dung là khái niệm xuất hiện khá sớm trong văn hóa Á Đông. Theo một số
tài liệu, thuật ngữ này được bàn đến trong Kinh Thư, có nghĩa là bao dung, độ
lượng, rộng lòng tha thứ.
Khoan dung là một phẩm chất đáng trân trọng của con người. Khoan dung là biết
tha thứ, bỏ qua cho những sai lầm thiếu sót của người khác; là biết chấp nhận
19



những yếu đuối sai phạm của người khác và giúp họ đứng lên sau vấp ngã. Khoan
dung, còn nghĩa là tự tha thứ cho chính mình.
Vậy... tại sao phải khoan dung?
Trước hết, khoan dung là sự hiểu biết của một nhân cách cao đẹp, thể hiện một
tâm hồn rộng mở, giàu lòng yêu thương. Bởi, chỉ khi biết mở rộng tấm lòng, chỉ
khi tình yêu được nhân ái hoá, con người ta mới có thể quên đi những thiệt hại,
những tổn thất của mình mà tha thứ cho người khác. Hãy xem cách dân tộc Việt
Nam tha thứ cho kẻ thù xâm lược để thấy đưọc truyền thông nhân đạo, nhân ái của
ông cha ta đáng khâm phục đến nhường nào. Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn
Trãi viết:
Mã Kì, Phương Chính cấp cho 500 chiếc thuyền
Vương Thông, Mã Anh cấp cho hàng nghìn cỗ ngựa.
Trong "Tuyên ngôn độc lập” Bác đã khẳng định: "Tuy vậy, dân tộc Việt Nam
trước sau vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo với kẻ thù thất thế"...
Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu
điểm, khuyết điêm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải
có lòng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con
người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
"Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng bác ái". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói như vậy,
và chính Người là biểu tượng, là tinh hoa của khoan dung, nhân ái Việt Nam.
Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương mênh mông, sâu
sắc đối với con người, ở niềm tin vào phần tốt đẹp, phần thiện trong mỗi con
người, dù nhất thời họ có lầm lạc, còn nhỏ nhen, thấp kém; từ đó Người nhắc nhở
chúng ta "phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi". "Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta
phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ".
Đối với những quan lại cũ, cả với những người từng có nợ máu với cách mạng,
Người cũng khuyên "không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới,... mà nên
dùng chính sách cảm hóa, khoan dung". Để làm được điều đó, Người nhắc nhở
chúng ta phải vượt qua những thiên kiến, hẹp hòi. "Sông to, bể rộng thì bao nhiêu

nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu".
20


Hồ Chí Minh xa lạ với mọi thói kỳ thị văn hoá. Trong khi chống Pháp, Người
vẫn yêu mến và đề cao văn hoá Pháp; chống Mỹ và vẫn ca ngợi truyền thống đấu
tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Mỹ. Bản thân Người là hình ảnh kết tinh của
tinh hoa văn hóa nhân loại Đông và Tây. Trong một thế giới cộng sinh về văn hóa,
có sự giao lưu giữa cái chung và cái riêng, cái đồng nhất và cái dị biệt, khoan dung
Hồ Chí Minh là chấp nhận đối thoại về giá trị, là truy tìm cái chung, cái nhân loại
để hòa đồng. Người đã viết: "Tuy phong tục mỗi dân tộc mỗi khác, nhưng có một
điều thì dân nào cũng giống nhau. ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ".
Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược nhất
thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái,
bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời
theo đuổi.
Đó là một tư tưởng nhất quán được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng
đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết
hối cải. Người tuyên bố: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta
cũng thật thà đoàn kết với họ".
Chuyện về lòng nhân ái của Bác
Chuyện kể rằng, trên đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ, khi băng qua một cánh
rừng, Bác Hồ và đoàn cán bộ cao cấp của ta tình cờ gặp mấy chiến sỹ đang áp giải
hai tên tù binh Pháp, hôm ấy đúng vào ngày lễ Giáng sinh của người công giáo.
Ngay sau khi gặp mặt, Bác Hồ tuyên bố rằng: Thay mặt Chính phủ Việt Minh tôi
phóng thích cho hai ông! Hôm nay là lễ Giáng sinh tôi gửi lời chúc mừng tới vợ
con và gia đình các ông cũng như toàn thể nhân dân Pháp. Việc làm của Bác khiến
những chiến sỹ Việt Minh hết sức bất ngờ vì hai tên tù binh là những nhân vật quan
trọng trong quân đội Pháp.

Không để anh em lo lắng, Bác giải thích ngay: Không phải người lính lê dương
nào cũng là tên thực dân! Người dân Pháp cũng yêu chuộng hoà bình và rất ghét
chiến tranh... Được phóng thích một cách quá bất ngờ và sau khi nghe Bác nói, hai
tù binh Pháp vội quỳ xuống tạ ơn Bác Hồ và xin được giúp bộ đội ta đánh Pháp.
Cũng rất tình cờ và may mắn, hai người tù binh Pháp ấy chính là những sỹ quan
pháo binh trong quân đội lê dương và như chúng ta đã biết chiến dịch Điện Biên
kết thúc có sự đóng góp không nhỏ của Binh chủng Pháo binh
(Theo báo Yên bái điện tử)
21


Nói về lòng nhân ái bao la của Bác, nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.
*Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân.
Bác Hồ từng nói : “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Khi sức dân được
huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô
địch”. Tin dân, gần dân, dựa vào dân – đó là những phẩm chất cao đẹp góp
phần làm nên tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Với Hồ
Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân
dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc
"nước lấy dân làm gốc", "chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân", đồng thời là
sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng".
Ðể có được chủ trương, quyết định đúng, Bác Hồ nhấn mạnh: việc gì cũng phải
“Bàn bạc với dân chúng”, “Tin vào dân chúng. Ðưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo
luận và tìm cách giải quyết”. Tôn trọng nhân dân nghĩa là biết lắng nghe và chân
thành bàn bạc với dân. “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn,

mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi
không ra”. Thảo luận với dân, lắng nghe dân trước khi đưa ra quyết định chính là
phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh, rất thực tế, khoa học và
tránh được sự chủ quan, áp đặt có thể dẫn tới sai lầm, khuyết điểm hoặc tổn thất.
Không có núi sông thì dựa vào người
Trong một lần khác, tại lớp học chính trị ở hang Kéo Quảng (Nguyên Bình), do
Bác Hồ trực tiếp phụ trách. Hồi bấy giờ, Hítle đang ồ ạt tiến công Liên Xô. Quân
phát xít Đức đã chiếm gần hết Ucraina và chỉ còn cách Thủ đô Matxcơva khoản 30
kilômet. Nhiều người lo lắng hỏi: “Thưa lão đồng chí, phát xít Đức mạnh như thế,
liệu Liên Xô có thể bị mất không ạ”?. Bác nói: “Việc gì mà phải lo. Liên Xô đã
chuẩn bị từ lâu. Đất nước này rộng lắm. Các nhà máy ở Thủ đô đều đã dời vào dãy
núi Uran cách xa hàng ngàn cây số. Nếu quân đội của Hítle chiếm đóng những
vùng gần Thủ đô thì Liên Xô sẽ rút về phía Uran và tiếp tục kháng chiến. Đánh
giặc phải có căn cứ địa chứ”.

22


Nghe nói đến căn cứ địa, có người hỏi: “Thưa lão đồng chí, ở miền núi thì lấy núi,
lấy sông làm căn cứ địa, thế còn ở đồng bằng không có địa thế hiểm trở thì làm thế
nào ạ”?
Bác cười bảo: “Có núi thì dựa vào núi, có sông thì dựa vào sông, không có núi, có
sông thì dựa vào người dân ở đó. Rồi Bác kể: Ông cha ta bao đời đánh giặc, nhất là
trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, kẻ địch mạnh đến nỗi hầu hết các
nước đều phải chịu thua. Nhưng khi chúng kéo quân vào nước ta, thì cả ba lần đều
bị thất bại. Đó là vì Triều Trần biết lấy dân làm sông, làm núi. Các chú có biết
trong chữ Hán có chữ “nhân sơn, nhân hải”, có nghĩa là “núi người, biển người”
không? Ở đâu có dân là ở đó có núi, có sông, có biển. Dân có sức mạnh hơn cả
sông núi. Nếu ta biết dựa vào dân thì sẽ thành công.
Theo Người, dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô

địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền gốc và chủ
thể của Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt
toàn quốc, tháng 1 — 1955. Người chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết là phải
đoàn kết đại đa số nhân dân. mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nề, gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như
cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác".
(Theo Hồi ký của Bằng Giang)
2.3Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
2.3.1 Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc Thống nhất là một hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi, đại
diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc, không có sự phân
biệt đối xử. Người cho rằng: Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác
với họ, thật sự đoàn kết với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe nào.
Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã rất
lưu ý tới công tác tập hợp quần chúng, đưa họ vào những tổ chức yêu nước phù
hợp với đặc điểm của từng giới, lứa tuổi, giai cấp, tôn giáo... Bao trùm tất cả là tư
tưởng muốn thu nạp được đông đảo các tầng lớp nhân dân vào Mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận cần thu nạp được đông đảo quần chúng nhân dân, những
người ít nhiều có tinh thần yêu nước, Mặt trận cần là một tổ chức rộng rãi. Rộng
rãi nhằm thực hiện đoàn kết được nhiều tổ chức, nhiều lực lượng không phân biệt
giàu nghèo, đảng phái, xu hướng chính trị... Người nói: “Mặt trận bao gồm tất cả
23


những người yêu nước, không phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn
giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi tác”10. Do đó Mặt trận không chỉ thu hút được
mọi tầng lớp lao động nghèo khổ, bị áp bức, mà còn thu hút được cả tầng lớp trên
không thuộc nhân dân lao động và một bộ phận phân hóa trong hàng ngũ của kẻ

thù. Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh chủ yếu của khối đại đoàn kết là
khối liên minh công nông làm nền tảng, Người nói: “Lực lượng chủ yếu trong khối
đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt
trận dân tộc thống nhất” 11.
- Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và
điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của
mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau:
Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân
phản đế(1939), Mặt trận Việt Minh ( 1941 ), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
(1955.1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước,
phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và
hạnh phúc của nhân dân.
Người khẳng định:
"Chúng ta có Hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh."
2.3.2 Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh
công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy
tụ mọi con dân nước Việt. Song, đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu
nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ
chức trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
10 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội - 2011, tr
543.

11 Hồ Chí Minh, "Toàn tập", Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội - 2011,

tr502

24


Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó
hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước Việt Nam trong lịch sử.
Hồ Chí Minh viết: "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất".
Người chỉ rõ ràng, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng "Vì họ là
người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn
hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc
chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác"'. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai
trò nòng cốt của liên minh công nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng
củng cố khối liên minh công nông mà không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở
rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải
có trí thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với cách mạng.
*Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công nông phản ánh về mặt tổ chức xã
hội mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Trong đó, tách biệt hoặc nhấn
mạnh một chiều vai trò của Mặt trận hoặc liên minh công nông đều không đúng
với biện chứng của đời sống cách mạng, không đúng với nguyên tắc đoàn kết của
Người. Tuyệt đối hóa vai trò, vị trí của liên minh công nông, hạ thấp vai trò của
Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan, “tả khuynh” và bệnh cô lập, hẹp hòi. Ngược lại,
nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của Mặt trận, xem nhẹ liên minh công nông sẽ
dẫn tới hữu khuynh, vô chính phủ. Người từng nói rằng: “Trong chính sách đoàn
kết cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô
nguyên tắc” 12.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc,
vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực

trong thực tiễn. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa
Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, từ kinh nghiệm bản thân và qua
kiểm nghiệm trong thực tiễn, nhân dân ta đã thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là
người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam là "Đảng ta”, "Đảng của chúng
ta”. Và Mặt trận thừa nhận "Đảng vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo”.
Sự thừa nhận ấy là khách quan. Đúng như Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh: "Đảng
không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là
một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu
12

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244

25


×