Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Luận văn chất thơ trong truyện ngắn trần thùy mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.04 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHÍ THỊ LUYẾN

CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHÍ THỊ LUYẾN

CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH

s
HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn
Thị Tuyết Minh, giảng viên khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm khóa
luận tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức về văn học và tạo
điều kiện tốt nhất để em có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Những kiến
thức đó sẽ tạo tiền đề cho em trong suốt quá trình học tập và công tác sau này.
Để hoàn thành khóa luận này, em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ của gia đình, bạn bè, những người thân là điểm tựa vững chắc để em có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Phí Thị Luyến


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì
công trình nghiên cứu nào. Những tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn tin khác nhau có ghi
trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự sai lệch nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Phí Thị Luyến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..............................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................................3
4. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................4
6. Đóng góp của khóa luận .................................................................................................4
7. Bố cục của khóa luận ......................................................................................................4
NỘI DUNG .........................................................................................................................5
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI ..5
1.1. Quan niệm về thơ và chất thơ......................................................................................5
1.2. Chất thơ trong văn xuôi ...............................................................................................8
1.3. Tác giả Trần Thùy Mai và thể loại truyện ngắn ......................................................13
1.3.1. Đôi nét về tác giả .....................................................................................................13
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác...................................................................................................13
1.3.3. Truyện ngắn Trần Thùy Mai trong đời sống văn xuôi Việt Nam đương đại....15
CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG DIỆN BIỂU HIỆN CHẤT THƠ TRONG
TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI .......................................................................18
2.1. Đề tài tình yêu và hạnh phúc .....................................................................................18
2.2. Nhan đề giàu chất thơ.................................................................................................22
2.3. Cốt truyện tâm lí .........................................................................................................24
2.4. Nhân vật với đời sống nội tâm ..................................................................................28
2.5. Không gian nghệ thuật khơi gợi cảm xúc ................................................................32
2.6. Thời gian kí ức ............................................................................................................36
2.7. Ngôn ngữ giàu chất thơ..............................................................................................39
2.8. Giọng điệu đậm chất trữ tình.....................................................................................43

KẾT LUẬN.......................................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện ngắn Việt Nam đương đại có sự xuất hiện của nhiều cây bút mới
như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Lý Lan, Nguyễn Minh Ngọc… Trong
đó, phải kể đến cái tên Trần Thùy Mai. Dù chưa phải là một “hiện tượng” như
Nguyễn Huy Thiệp, không thu hút bạn đọc với cốt truyện lạ, Trần Thùy Mai
viết như là để giãi bày. Có những truyện nhà văn như để mặc cho ngòi bút trôi
chảy theo cảm xúc, cảm giác: nhỏ nhẹ, dịu dàng mà sâu lắng. Truyện của chị
nửa như là truyện cổ tích, nửa lại như truyện thế sự đời thường. Đọc truyện
ngắn của nữ nhà văn người Huế này luôn đầy ắp dư vị của của tuổi 20 đầy sức
sống, của những rung cảm sâu nặng, rất giàu chất thơ.
Trần Thùy Mai là một cây bút truyện ngắn thu hút sự quan tâm của bạn
đọc, nhất là khi một số truyện ngắn của chị được chuyển thể thành phim
truyền hình như: Thập tự hoa (2005), Hãy khóc đi em (2005), Trăng nơi đáy
giếng (2009), Gió thiên đường (2009)…
Với mong muốn có một cái nhìn tương đối toàn diện về chất thơ trong
truyện ngắn Trần Thùy Mai, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Chất thơ trong
truyện ngắn Trần Thùy Mai.
2. Lịch sử vấn đề
Gần 40 năm cầm bút với 10 tập truyện ngắn, Trần Thùy Mai đã miệt
mài, cần mẫn tạo dựng một chỗ đứng trên văn đàn. Chị đã đạt được nhiều
Giải thưởng danh giá của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội văn học cố đô Huế.
Bùi Việt Thắng đã dùng hai chữ “hiện tượng” để minh chứng cho sự
hiện diện vững vàng của Trần Thùy Mai trong đội ngũ sáng tác truyện ngắn
đương đại: “Miệt mài với nghiệp văn và trở thành cây bút có sức bền với thể
loại truyện ngắn, truyện ngắn của chị vượt ra ngoài giới hạn của mảnh đất cố

đô để đến với bạn đọc cả nước” [11].
1


Đánh giá về truyện ngắn Trần Thùy Mai, Lê Mỹ Ý đã viết: “Đọc những
trang văn của chị, đã lắm lúc nao lòng mà thốt lên câu thơ “cảm mượn” của
nữ thi sĩ Nga Onga Bergon: Dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi… Đó
cũng là cảm nhận của nhiều bạn đọc đối với tác phẩm của nữ nhà văn Trần
Thùy Mai. “Văn chương của chị, như một trái cây chín muộn, càng có thời
gian, vị càng ngọt, hương càng nồng, màu sắc càng hấp dẫn, càng mang đến
một dư vị riêng mà những cây bút cùng thời với chị không có được” [20].
Tác giả Hoàng Nguyên Vũ lí giải truyện của Trần Thùy Mai có sức
sống mãnh liệt chính là vì chất “đời” trong đó, “Càng về sau văn chị viết càng
đời, càng đầy đủ mặn ngọt đắng cay của những phận đời trong đó… Dù
những cái kết được báo trước nhưng người đọc vẫn muốn nếm hết những vị
đắng cay, điệu man mác cho đến những dòng cuối cùng”. “Những trang viết
của Trần Thùy Mai chứa đựng những cuộc đời nhỏ nhỏ, có cuộc đời thoáng
qua, có cuộc đời gặp một lần rồi hun hút, có cuộc đời về trong những giấc mơ
miên viễn. Nhưng vấn đề không phải ở nói ai, hay viết về ai, thấp thoáng cuộc
đời của ai mà cái quan trọng là thông điệp đằng sau đó là gì.” Hoàng Nguyên
Vũ khẳng định: “Tình yêu ngập tràn các trang viết. Dù buồn hay vui, cô đơn
hay hạnh phúc thì với Trần Thùy Mai phải có tình yêu mới khiến ngòi bút của
chị chắp cánh (…), tình yêu là động lực của bút lực. Tình yêu thúc đẩy cuộc
sống đẹp hơn và làm được nhiều việc có ích” [12].
Nguyễn Vinh Sơn, đạo diễn bộ phim Trăng nơi đáy giếng, một đồng
hương xứ Huế với nữ nhà văn đã nhận xét: “Cảm nhận của Trần Thùy Mai
đầy Huế. Chất thơ là thuộc tính của người Huế từ cung cách đi đứng, nói năng
đến lối sống thâm trầm, sâu sắc, tinh tế…” [16].
Tác giả Vọng Thảo nhận xét: “Qủy trong trăng chính là tạo lập một thế
giới mà ở đó phận người vẫn còn những khắc khoải cô đơn”. “Giọng văn nhẹ

nhàng, thì thầm như những dòng mưa từ từ thấm sâu vào lòng người đọc siêu

2


thoát khỏi giới hạn chữ nghĩa bằng thứ ngôn ngữ tự nhiên và những chi tiết
nhỏ nhặt đời thường” [18].
Nguyễn Thanh Bình cho rằng: “Trần Thùy Mai đã nhìn ra quanh mình
và viết lại chuyện đời của những người phụ nữ sống xung quanh” [19].
Trên đây là một số nhận xét, đánh giá về truyện ngắn Trần Thùy Mai ở
phương diện nội dung và hình thức thể hiện. Ngoài ra, còn một số tiểu luận,
luận văn tốt nghiệp Đại học, luận văn Thạc sĩ lấy truyện ngắn của Trần Thùy
Mai làm đề tài nghiên cứu như: Thi pháp nhân vật của truyện ngắn Trần Thùy
Mai (Nguyễn Thị Hồng Lê), Phong cách truyện ngắn Trần Thùy Mai (Phùng
Thu Phương), Nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai (Hồng Sinh), Nhân
vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai (Nguyễn Thị Trang Nhung)…
Nhìn chung, những công trình ở trên đã ít nhiều đề cập đến các phương
diện của truyện ngắn Trần Thùy Mai. Song đến nay, chưa có một công trình
nào đi sâu tìm hiểu Chất thơ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai. Đó là khoảng
trống để chúng tôi thực hiện đề tài khóa luận của mình. Hơn nữa, các ý kiến
nhận xét, đánh giá của những người nghiên cứu đi trước là gợi mở để chúng
tôi đi sâu tìm hiểu đề tài, Chất thơ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các phương diện biểu hiện chất
thơ trong hai tập truyện ngắn của Trần Thùy Mai: Trăng nơi đáy giếng và
Onkel yêu dấu.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là hai tập truyện ngắn của Trần
Thùy Mai: Trăng nơi đáy giếng do NXB Thanh niên xuất bản năm 2009 và
Onkel yêu dấu do NXB Văn nghệ phát hành năm 2010.
4. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài: “Chất thơ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai” chúng
tôi muốn tiếp tục làm rõ những đóng góp của nữ nhà văn trong thể loại truyện

3


ngắn. Từ đó, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò, những đóng góp của nhà văn
với nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp hệ thống
Phương pháp khảo sát thống kê
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tiếp tục ghi nhận đóng góp trong tư duy nghệ thuật của nhà
văn Trần Thùy Mai ở phương diện về chất thơ trong truyện ngắn của chị.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, nội
dung chính của khóa luận được triển khai theo hai chương:
Chương 1: Quan niệm về thơ và chất thơ trong văn xuôi.
Chương 2: Các phương diện biểu hiện chất thơ trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai.

4


NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ THƠ
VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI

1.1. Quan niệm về thơ và chất thơ
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức sáng tác văn học
phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [3, 309].
Bàn về thơ, Sóng Hồng cho rằng: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao
quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy
trong lòng. Nhưng thơ là một tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần
nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình
tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường”
[3, 309 - 310]. Theo quan niệm của Sóng Hồng thì thơ là thiên về biểu hiện
cảm xúc. Cảm xúc ấy được thể hiện một cách hàm súc, có nhịp điệu trong tác
phẩm. Đây cũng chính là những đặc trưng cơ bản của thơ. Trên cơ sở này mà
khái niệm chất thơ xuất hiện để chỉ những sáng tác văn học bằng văn xuôi
hoặc văn vần giàu cảm xúc, ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu. Chất thơ
được coi là điều kiện cơ bản của thơ, vì thế thơ chỉ hay khi có chất thơ.
Thơ là một trong những hình thức thể loại đầu tiên của văn học. Tùy vào
mục đích, yêu cầu nghiên cứu, có thể phân loại thơ theo những tiêu chí khác
nhau. Căn cứ vào phương thức phản ánh có thể chia thành: “thơ tự sự” và “thơ
trữ tình”. Căn cứ vào thể luật có thể chia thơ thành: “thơ cách luật” và “thơ tự
do”. Xét về cách gieo vần thơ được chia thành: “thơ có vần” và “thơ không
vần”. Cũng có khi người ta dựa vào thời đại để chia thơ ra thành thơ Đường,
thơ Tống, thơ Lí - Trần. Ngoài ra, nếu như dựa vào nội dung thơ thì người ta
cũng có thể chia thơ ra thành thơ chính trị, thơ tình yêu, thơ đời thường…

5


“Chất thơ là khái niệm rộng hơn thơ. Chất thơ của văn xuôi tạo nên bởi
cấu tứ và suy tưởng giàu sức khơi gợi bất ngờ, chất triết lí thâm thúy, thơ
mộng” [3, 319]. Chất thơ chính là chất trữ tình, thi vị gợi lên từ hình ảnh, ngôn

từ trong sáng tác của người nghệ sĩ. Nó có sức lan tỏa rất lớn tới tâm hồn người
đọc tạo nên những xúc cảm, khoái cảm kì lạ. Không chỉ vậy, nói đến chất thơ
là nhắc đến tính cảm xúc và cái đẹp. Mà cái đẹp lại có sức cảm hóa con người.
Chất thơ gắn với tính trữ tình lãng mạng, bay bổng. Chất thơ là ý toại ngôn
ngoại, nghĩa là ý nghĩa nằm ở ngoài lời, nằm ở những “khoảng lặng” của ngôn
từ. Vì thế, nó mang tính chất mơ hồ buộc người đọc muốn hiểu thấu, phải cảm
nhận bằng cả tâm hồn, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng của mình.
“Tìm hiểu về chất thơ không chỉ nhắc đến biểu hiện mà còn phải nhắc
đến các nhân tố tạo nên chất thơ. Chất thơ là một đặc tính tổng hợp được tạo
nên từ rất nhiều nhân tố. Những nhân tố đó cũng có thể có trong nội dung của
các thể loại khác, nhưng ở thơ biểu hiện, thường xuyên và rõ rệt hơn. Chất thơ
gắn liền với những rung động và xúc cảm trực tiếp, thơ là ở tấm lòng, nhưng
cũng chính là cuộc sống, thơ gắn liền với trí tưởng tượng và cái đẹp”.
Chất thơ trong một bài thơ nằm ở một cái đích vừa mơ hồ, vừa cụ thể.
Mơ hồ ở chỗ nó hòa trộn, ẩn hiện trong từng câu thơ, nó chảy “bàng bạc”
trong từng tác phẩm, cụ thể ở chỗ nó tụ lại ở một “điểm ngời sáng nào đó”
làm cho cái “bàng bạc” trải rộng kia sáng lên. Điểm sáng đó là nơi giao hòa,
nơi hội tụ của tất cả các vần thơ, ý thơ, là nơi “ngã ba, ngã bảy” lan tỏa đi các
câu thơ. Nói đến “gặp gỡ” là nói đến cảm xúc của người sáng tác, còn nói đến
“tỏa đi” là nói đến cảm xúc của người đọc, người cảm thơ. Người sáng tác mà
không bắt nối các cảm xúc tinh tế và trải rộng đi nhiều hướng, thì người đọc
thơ nghiễm nhiên bị đẩy vào một trạng thái chờ đợi không có hi vọng, phải
chịu một bước “hẫng” trong thi ca.
Như vậy, xét ở góc độ mĩ học, chất thơ được coi là cái đẹp của tâm
hồn, cái đẹp của cuộc sống và hơn thế là cái đẹp của cuộc đời có lí tưởng cao
6


đẹp. Xét trên phương diện cảm hứng, chất thơ gắn liền với cảm hứng bay
bổng, lãng mạn. Xét ở phương diện ngôn ngữ, chất thơ lại gắn liền với tính

nhạc của từng lời văn, câu chữ.
Nhà phê bình văn học Diệp Tiếp đời Thanh Trung Quốc có viết trong
sách Nguyên thi: “Cái lí có thể nói, ai cũng nói được, đâu cần nhà thơ kể lại.
Phải có những cái lí không thể nói, có những việc không thể kể, khi gặp thì
chỉ có thể kể qua hình dáng có ý nghĩa mà lí và việc cũng đã tường như thế”
[2]. Đúng vậy, có những sự kiện, diễn biến đâu cần nhà văn, nhà thơ kể lại
một cách tường minh, bởi ai cũng có thể biết, có thể dễ dàng hiểu và cảm
nhận. Nhưng ngược lại cũng có những sự việc mà ta biết đấy nhưng không
thể nói, không thể kể một cách tường minh, rõ ràng mà chỉ cần một vài nét
chấm phá, một vài hình ảnh có sức gợi thì người tiếp nhận cũng có thể hiểu ra
vấn đề. Và đó chính là sức mạnh, sức hấp dẫn của chất thơ. Cũng giống như
Trần Thùy Mai quan niệm về nghề viết: “Viết để được tồn tại trong những
cảnh đời khác, được sống những gì mơ ước, được nói những điều không nói
giữa đời thường, là một cách thoát ra khỏi sự hữu hạn của đời người” [13]. Rõ
ràng, thơ không diễn tả tường tận “chất muối mặn” của đời sống ra sao, không
diễn giải tình người như thế nào? Vậy mà người đọc vẫn có thể hiểu tất cả
nhờ vào sự gợi dẫn của hình ảnh, ngôn từ trong thơ mà từ đó liên tưởng,
tưởng tượng. Từ đó thấy được cái hay, cái đẹp của lời văn, tìm ra được ý
nghĩa thông điệp cuộc sống mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác phẩm. Rõ
ràng, cảnh vật nên thơ không phải do người nghệ sĩ sắp đặt, mời gọi bạn đọc
thưởng ngoạn mà chủ yếu là sự tương hợp giữa hình ảnh thơ và sự cảm nhận
của người thưởng thức. Nói một cách đơn giản, chất thơ hiện hữu là do sức
gợi của ý nghĩa ngôn từ và hình ảnh thơ kết hợp với sự cảm nhận của độc giả.
Vì thế, chất thơ cũng chính là những rung động, tình cảm thẩm mĩ bật lên từ
chính cảm nhận của người đọc.

7


Có thể nói, chất thơ khởi phát từ lời nói, hình ảnh thơ mang tính chủ

quan của người nghệ sĩ. Ngay bản thân chất thơ đã có sức gợi, sức lan tỏa
mang đến những rung động trong tâm hồn, những cảm xúc thẩm mĩ từ phía
người tiếp nhận. Vì vậy, chất thơ được biểu hiện ở cả nội dung và hình thức
trong tác phẩm.
Chất thơ hướng con người ta tới cái đẹp, an ủi những tâm hồn bị tổn
thương, nuôi dưỡng niềm tin, hi vọng vào tương lai tươi đẹp. Chất thơ tránh
được sự khô cằn, chai sạn, nghèo trí tưởng tượng, thay vào đó, nó giúp trí
tưởng tượng của con người trở nên phong phú hơn. Vì thế, có thể khẳng định,
“chất thơ chân chính ở mỗi thời đại gắn liền với lí tưởng và khát vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân” [1]. Chất thơ là một phạm trù của văn học,
một nhân tố cốt yếu làm nên phong cách văn chương của một tác giả. Không
chỉ vậy, nó còn phản ánh một khuynh hướng, hay một thời đại văn học của
dân tộc. Nó cho thấy một trào lưu, một tiêu chuẩn, một xu hướng về cái đẹp,
thái độ đối với cái đẹp và nó có sự xê dịch, biến đổi cùng với sự chảy trôi của
thời gian. Dựa vào những biểu hiện của chất thơ có thể thấy được quan niệm,
thái độ, suy nghĩ, tình cảm của người sáng tác văn học. Rộng hơn là có thể
thấy được thị hiếu thẩm mĩ của cả một thời đại, một dân tộc ở một thời điểm
nhất định.
1.2. Chất thơ trong văn xuôi
Xét ở một phương diện nào đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu chất thơ trong
văn xuôi đồng nghĩa với việc ta đang thừa nhận hiện tượng giao thoa thể loại.
Bởi nếu như đã có nghiên cứu chất văn xuôi trong thơ, thì ngược lại ta cũng
có thể đi sâu nghiên cứu chất thơ trong văn xuôi, chính là đi tìm những đặc
điểm vốn làm nên đặc trưng của thể loại thơ được văn xuôi tiếp nhận khiến
cho sự biểu đạt của văn xuôi trở nên giàu có, đa dạng, phong phú hơn. Ta có
thể nói đến cái gọi là “chất thơ” khi ta bắt gặp trong tác phẩm văn xuôi một sự
ưu ái cho việc biểu hiện tâm tư, tình cảm chủ quan của nghệ sĩ, một chiều
8



hướng miêu tả thiên về nắm bắt những nét tinh lọc của thế giới tâm hồn, một
sự thích thú “gọt đẽo” câu văn theo hướng đề cao sức gợi, ám chỉ và sự hài
hòa của các yếu tố ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
Chủ đề tư tưởng, cốt truyện trong một tác phẩm văn xuôi luôn là những
yếu tố quan trọng, thu hút sự chú ý của người đọc. Thế nhưng, những yếu tố
ấy nhiều khi chỉ là “cái khung”, “cái sườn” để tạo nên tác phẩm mà thôi. Khi
tiếp nhận tác phẩm, người đọc không khó để nhận ra chúng. Tuy nhiên, song
song với chúng lại có một yếu tố khác chiếm một vị trí khá quan trọng trong
tác phẩm, đó chính là cái hồn của tác phẩm được ẩn náu trong trong từng câu,
từng chữ. Để tìm ra cái hồn ấy, người đọc phải thực sự để tâm, chú ý vào từng
chi tiết thì mới có thể thấy được sự hấp dẫn, thú vị ở một số đoạn văn. Những
đoạn văn ấy khiến cho tâm hồn người đọc rung lên những cung bậc cảm xúc
kì lạ và để lại dư âm rất lớn trong lòng độc giả. Và cái hồn đó được gọi là
“chất thơ”.
Xưa nay, người ta vẫn thường nghĩ thơ và văn xuôi là hai thể loại độc
lập, trái ngược nhau được phân chia dựa trên tiêu chí: Thơ là phương thức trữ
tình, là tái hiện lại cuộc sống thực tại thông qua con mắt chủ quan của người
nghệ sĩ. Thế nhưng, việc phân chia thể loại ở bất kì một lĩnh vực nào cũng chỉ
là tương đối, và ở đây cũng vậy. Bởi đặc trưng của thể loại này, không có
nghĩa là hoàn toàn đối lập với thể loại khác, mà nó chỉ tập hợp ở nét tập trung
nổi bật. Đôi khi, ranh giới giữa các thể loại trong một tác phẩm văn học lại
không rõ ràng, nó bị “nhòe” đi bởi hiện tượng giao thoa, giống như việc giao
thoa giữa văn xuôi và thơ.
Sự rung động, xúc cảm thực sự trong tâm hồn người sáng tác là một
trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để tạo nên chất thơ. Tác phẩm văn học
sẽ chỉ là những trang viết vô hồn nếu như người nghệ sĩ không viết bằng cảm
xúc, sự rung động trong tâm hồn thi sĩ. Tâm hồn của người nghệ sĩ thường rất
nhạy cảm trước mọi vấn đề của cuộc sống, kể từ những sự việc, sự vật nhỏ nhặt
9



nhất. Người nghệ sĩ khi sáng tác sẽ thổi cái lãng mạn trữ tình khiến cho những
sự vật tưởng như vô tri, vô giác trở nên có hồn. Dường như, tâm hồn của người
nghệ sĩ luôn tràn đầy nhựa sống, nó luôn là cái gì đó say sưa, rạo rực, tha thiết
tin yêu, in dấu lên mọi cảnh vật, màu sắc, âm thanh hay chính là đối tượng mà
người nghệ sĩ muốn miêu tả. Và chính ngọn lửa trong tâm hồn ấy là nhân tố
làm nên chất thơ, chất trữ tình đằm thắm. Nguồn gốc của ngọn lửa ấy nhiều khi
là do tác giả đã ấp ủ, nuôi dưỡng từ lâu, nhưng cũng có khi nó là cảm xúc bộc
phát. Hay nói khác đi đó là những rung động xuất hiện một cách bất ngờ,
không có sự sắp đặt trước. Và những lúc cảm xúc khởi phát như vậy sẽ là đòn
bẩy thúc đẩy nhà văn cầm bút để trải lòng, để giãi bày.
“Chất thơ là chìa khóa để mở ra một cái gì đó trước đây vẫn còn bị phong
kín” [7, 505]. Chất thơ của đời vô cùng phong phú và đa dạng nó luôn luôn dành
một vị trí ưu ái cho con người, chỉ có điều con người không phải ai cũng thấy
được, nắm bắt được, có thể cảm nhận được và diễn đạt được nó. Những nhà văn
có tâm huyết thường đi sâu vào khai thác và chiếm lĩnh một cách tối đa nhất chất
thơ của cuộc đời để trả lại cho đời. Nhờ vậy, con người mới được chiêm ngưỡng
và cảm nhận những điều tuyệt diệu trong cuộc sống. Có thể nói, thơ là tiếng nói
hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời.
Hình tượng chất thơ là hình tượng được gây dựng từ cảm xúc. Vì thế
cảm xúc, chi phối, mang tính chất quyết định đến giá trị của hình tượng thơ.
Trong chất thơ, suy nghĩ và cảm xúc luôn kết hợp, chuyển hóa lẫn nhau trong
quá trình hình thành và phát triển của hình tượng. Nếu như cảm xúc là cội
nguồn đầu tiên, thì suy nghĩ là “thao tác” tiếp theo tạo nên tầng khái quát cho
hình tượng. Sự chân thực trong tình cảm, cảm xúc là điều thiết yếu đối với
người sáng tác bởi chất thơ trong văn xuôi là sự phản ánh trực tiếp những cảm
xúc, tâm tư, tình cảm, trạng thái cá nhân. Khi người đọc tiếp nhận những tác
phẩm khác nhau của những tác giả khác nhau, người ta có thể nhận ra tình
cảm của họ được giãi bày trên những trang viết là khác nhau. Vì lẽ đó, ta có
10



thể căn cứ vào chất thơ và sự biểu hiện của chất thơ để nắm bắt được tình
cảm, cảm xúc của nhà văn. Mỗi người có cách biểu lộ cảm xúc khác nhau, có
người thì bộc lộ một cách âm thầm, lặng lẽ, kín đáo, có người lại bộc lộ nó
một cách sôi nổi, cuồng nhiệt, táo bạo.
Tình cảm, cảm xúc của các nhà văn là muôn hình, muôn vẻ. Có khi là sự
lạnh lùng không chút cảm xúc như Nguyễn Huy Thiệp, nhưng cũng có khi là
sự nhẹ nhàng, sâu lắng, sự cảm thông thấu hiểu cho những câu chuyện cuộc
đời mà ta thường thấy trong truyện ngắn Trần Thùy Mai. Các nhà văn dù tình
cảm có thể không giống nhau, nhưng đều gặp gỡ nhau ở một điểm chung là
biểu lộ một cách sâu kín nhất những diễn biến tâm trạng, cảm xúc đang diễn
ra trong tâm hồn. Chỉ có như vậy, trong tác phẩm của họ mới có cái gọi là
chất thơ. Có thể khẳng định, chất thơ luôn phụ thuộc vào những rung cảm
trong tâm hồn người nghệ sĩ. Khi cảm xúc được đẩy đến cao độ thì chất thơ
xuất hiện.
Nếu xem thơ ca là cái đẹp, thì chất thơ là sự tinh túy của cái đẹp. Giống
như Etgapo từng nói: “Cái đẹp là địa hạt hợp pháp của thơ ca”, cái đẹp luôn là
trung tâm, là cái mà rất nhiều nhà văn hướg tới. Người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp
và thể hiện nó trên trang giấy của mình. Đó là cả một quá trình kiếm tìm cái
đẹp của nhà văn. Qúa trình đi từ cảm xúc đến mô tả cái đẹp. Cái đẹp sẽ thực
sự tỏa sáng khi người nghệ sĩ dành trọn trái tim cho cái đẹp. Điều đó tạo nên
cái đẹp trong các sáng tác bằng văn xuôi. Cái đẹp được tiếp nhận trên phương
diện là một sắc thái thẩm mĩ tạo nên âm hưởng chủ đạo cho các tác phẩm văn
xuôi có chất thơ.
Chất thơ có sức, lay động cảm hóa con người. Nhờ chất thơ, độc giả có
thể cảm nhận được những tình cảm, những cảm xúc mà nhà văn từng trải qua,
từ đó có sự đồng cảm. Hay nói một cách khác, tiếng nói trong lòng tác giả
thông qua chất thơ mà chạm đến trái tim của độc giả. Người đọc thấy mình
trong những sáng tác của người nghệ sĩ.

11


Thi nhân xưa quan niệm “Thi dĩ ngôn chí”, nghĩa là lấy thơ văn để tỏ
chí, hay dùng thơ ca để nói lên những suy nghĩ và ý chí của mình. Theo quan
điểm này, thì thơ ca là phương tiện để bày tỏ tình cảm. Tuy nhiên ngoài việc
là phương tiện giãi bày tình cảm, thơ ca còn là công cụ để giáo hóa nhân tâm,
di dưỡng tâm hồn con người. Ngày nay, chất thơ có trong những sáng tác văn
xuôi vẫn mang những giá trị ấy. Nhưng các nhà văn hiện nay không dùng chất
thơ như một thứ “công cụ” nữa mà họ diễn tả những gì mình thấy, nghe thấy,
cảm nhận thấy một cách khách quan. Từ đó, người đọc sẽ tự mình đọc, tự
mình khám phá, tìm hiểu, cảm nhận và rút ra những giá trị bổ ích từ tác phẩm
văn học.
Không chỉ có khả năng giao cảm, chất thơ còn mang đến giá trị nhân
văn cho tác phẩm văn học. Giá trị nhân văn ấy có thể hướng con người tới sự
hoàn thiện trong nhân cách. Trong cuộc đời mỗi con người không phải lúc
nào cũng bình yên, mà có những lúc gặp khó khăn, trắc trở. Khi ấy sẽ có
người rơi vào tuyệt vọng, yếu đuối thậm chí là bị cuốn vào những cám dỗ
trong cuộc sống. Nếu như vào thời điểm đó họ được tiếp xúc với chất thơ là
vẻ đẹp tình người, là vẻ đẹp lãng mạn trong những tác phẩm văn học thì họ sẽ
như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi cám dỗ, không sa chân vào
cạm bẫy của cuộc đời. Lúc đó, chất thơ thực sự đã đem đến cho tâm hồn
người đọc những giây phút thư thái, bình yên, nhẹ nhõm. Nó có thể giúp con
người quên đi những nỗi đau mà mình đang phải chịu đựng trong cuộc đời.
Chất thơ còn giúp cho con người thêm niềm tin yêu vào cuộc sống.
Như vậy, “chất thơ không chỉ có trong thơ mà còn có trong văn xuôi”
[8, 225]. Chất thơ là nghệ thuật của sự sáng tạo cả về nội dung và hình thức.
Có thể khẳng định, chất thơ chính là sự kết tinh của cái đẹp, là tiếng nói của
tình cảm, cảm xúc, là khát vọng của con người vươn tới cái đẹp. Chất thơ góp
phần không nhỏ trong việc di dưỡng đời sống tinh thần cho con người. Nó


12


giúp con người hoàn thiện nhân cách và sống có lí tưởng, có ý nghĩa hơn
trong cuộc đời.
1.3. Tác giả Trần Thùy Mai và thể loại truyện ngắn
1.3.1. Đôi nét về tác giả
Trần Thùy Mai tên khai sinh là Trần Thị Thùy Mai, sinh ngày 8 tháng
9 năm 1954, là nhà văn nữ Việt Nam hiện đang sinh sống tại Huế. Trần Thùy
Mai sinh ra tại mảnh đất Hội An, Quảng Nam. Làng An Ninh Thượng, xã
Hương Long, huyện Hương Trà, nay là phường Hương Long, thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế, là nguyên quán của chị.
Trần Thùy Mai học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng.
Tốt nghiệp tú tài 2 từ năm 1972, chị thi đậu thủ khoa môn Văn trường Đại học
Sư phạm Huế. “Năm 1977, sau khi tốt nghiệp, Trần Thùy Mai được giữ lại
trường làm công tác giảng dạy và nghiên cứu môn văn học dân gian. Năm
1987, chị quyết định chuyển sang làm biên tập viên ở nhà xuất bản Thuận
Hóa. Với lối rẽ này, Trần Thùy Mai đã chọn nghiệp viết làm con đường đi
cho riêng mình” [17].
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Ngay từ những năm trước giải phóng, khi còn học ở trường Đồng
Khánh, Trần Thùy Mai đã được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết
đến. “Chị trưởng thành cùng thế hệ Lý Lan, Nguyễn Thị Minh Ngọc ở Sài
Gòn, những người cầm bút đầu tiên sau chiến tranh, có thể nói, đây chính là
thế hệ mở đường đi tìm những đề tài hậu chiến” [14]. Tính từ truyện ngắn đầu
tay Một chút màu xanh in trên Tạp chí sông Hương đến nay, Trần Thùy Mai
đã có trên 30 năm cầm bút với hàng trăm truyện ngắn được nhiều thế hệ bạn
đọc yêu mến.
Hàng loạt tập truyện ngắn của chị đã lần lượt được xuất bản và được

đông đảo độc giả đón nhận. Cụ thể: “Tập truyện ngắn đầu tay Cỏ hát in chung
với Lý Lan, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội - 1983. Tập truyện ngắn Bài
13


thơ về biển khơi, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 1983. Thị trấn hoa quỳ
vàng, tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội - 1994. Tập truyện
ngắn Trò chơi cấm, Nhà xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh - 1998. Người khổng
lồ núi Bạc, truyện thiếu nhi, Nhà xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh - 2002. Hai
tập truyện ngắn Đêm tái sinh, Thập tự hoa, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 2003. Biển đời người, tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội - 2003. Tập truyện ngắn chọn lọc Thương nhớ Hoàng Lan, Nhà xuất bản
Văn Mới, California, USA - 2003. Mưa đời sau, tập truyện ngắn, Nhà xuất
bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2005. Tập truyện ngắn Mưa ở
Trasbourg, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội - 2007. Lửa hoàng cung, tập truyện
ngắn, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2008, Nhà xuất bản
Thanh niên, Hà Nội -2010. Một mình ở Tokyo, tập truyện ngắn, Nhà xuất bản
Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh - 2008. Tập truyện ngắn chọn lọc, Trăng
nơi đáy giếng, Nhà xuất bản Thanh niên – 2009. Onkel yêu dấu, tập truyện
ngắn, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh – 2010” [17].
Bên cạnh việc sáng tác truyện ngắn, Trần Thùy Mai còn nghiên cứu và
dịch thuật. Về nghiên cứu, chị có một số công trình như: “Truyện kể dân gian
Bình Trị Thiên, Sưu tầm - biên khảo, soạn chung với Trần Hoàng, Phạm Bá
Thịnh, Sở văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên xuất bản 1986; Ca dao, dân ca
Bình Trị Thiên, Sưu tầm - biên khảo, soạn chung với Trần Hoàng, Phạm Bá
Thịnh, Đinh Thị Hựu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 1989 ; Dân ca Thừa
Thiên Huế, Sưu tầm - biên khảo, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2004. Về
dịch thuật có Bên trong, tập truyện ngắn của các tác giả nữ Nhật Bản, dịch từ
tiếng Anh, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2010” [17].
Với những đóng góp trên, Trần Thùy Mai xứng đáng được nhận một số
giải thưởng danh giá do Hội văn học Việt Nam và Hội văn học Cố đô Huế

trao tặng như: “Giải B, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ hai,
(1998) cho tập truyện ngắn Thị trấn hoa quỳ vàng ; giải C, giải thưởng Văn
14


học thiếu nhi “Vì tương lai đất nước” của nhà xuất bản Trẻ (2002) cho truyện
dài thiếu nhi Người khổng lồ núi Bạc. Chị xuất sắc đạt giải B, Hội nhà văn
Việt Nam (2002, không có giải A) và giải A, giải thưởng Văn học Cố đô lần
thứ ba (2005), cho tập truyện ngắn Qủy trong trăng; giải thưởng Uỷ ban Toàn
quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2003) và giải A, giải
thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ 4 (2008) cho tập truyện ngắn Thập
tự hoa. Bên cạnh đó, vào năm 2008, Giải thưởng của Hội liên hiệp Văn học
Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, cho tập truyện ngắn Một mình ở Tokyo được trao
cho chị. Ngoài ra, chị còn được Uỷ ban kết nghĩa thành phố San Francisco TP. Hồ Chí Minh trao tặng giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011” [17].
1.3.3. Truyện ngắn Trần Thùy Mai trong đời sống văn xuôi Việt Nam
đương đại
Trần Thùy Mai là một trong những nhà văn nữ viết “khỏe” và viết khá
đều tay hiện nay. Những truyện ngắn của chị đa dạng, phảng phất không khí
đất trời xứ Huế, chị quan tâm đến mọi mặt của cuộc sống, nhất là lớp người
trẻ và dành cho họ một một cái nhìn đầy yêu thương và hi vọng. “Trong
khoảng 10 năm trở lại đây, Trần Thùy Mai viết nhiều về những đề tài và nhân
vật lịch sử, đặc biệt là những nhân vật nữ in bóng trong lịch sử triều Nguyễn,
gắn liền với kinh thành Huế” [17].
Trần Thùy Mai từng tâm sự: “Với tôi, viết là một nghề. Nó giống như
mọi nghề khác ở chỗ phải có kĩ năng và lương tâm. Chẳng hạn, người thợ
mộc đóng một cái ghế thì không phải chỉ cần tay nghề mà còn phải có tấm
lòng, làm sao cho ghế được bền đẹp, không làm cho người dùng thất vọng.
Viết văn cũng vậy. Đã đành là sống bằng nhuận bút nhưng cũng phải gắng
công làm ra thành phẩm của mình với tất cả tâm tư. Vì thế, trong cuộc đời tôi
đã có nhiều lúc buồn nản nhưng chưa bao giờ thấy chán viết, chưa bao giờ

muốn bỏ bút” [15]. “Là một người phụ nữ xứ Huế nhẹ nhàng, tinh tế và sâu
sắc, Trần Thùy Mai thấm thía nỗi đau, sự tổn thương và mất mát trong tình
15


yêu. Một điều dễ dàng nhận thấy, Trần Thùy Mai dành tình cảm ưu ái hơn
cho những nhân vật nữ của mình. Cuộc sống vốn đa chiều và phức tạp. Và
tình yêu thì không nằm ngoài quy luật ấy. Nhưng dù tình yêu, dẫu có mất mát,
phụ bạc, đớn đau đến chừng nào thì con người cũng chỉ thực sự tìm thấy hạnh
phúc khi có sự hiện hữu của nó. Phải chăng vì thế, tình yêu trong truyện ngắn
Trần Thùy Mai không đơn thuần là một câu chuyện lãng mạn, thấm đẫm nước
mắt mà nó còn là cách để chị nói về cuộc sống với những con người đang
ngày ngày sống, yêu, thậm chí là ruồng bỏ tình yêu của chính mình. Từng câu
chuyện mà chị kể đều đau đáu một nỗi niềm” [17].
Truyện ngắn Trần Thùy Mai luôn giữ được chỗ đứng trên văn đàn, có lẽ
là bởi lối viết giản dị, chân thành, đầy cảm xúc của chị. Chị quan niệm “tác
phẩm văn học bắt đầu từ mâu thuẫn, xung đột trong cuộc đời”. Đau khổ vẫn đầy
giẫy trong cõi đời, vì thế chị viết để cảm nhận được nỗi buồn của những người
bên cạnh mình, cảm nhận về sự gian khó của đời mình để tạo ra mối đồng cảm
chung. “Chị như mảnh nam châm hút về phía mình những đau khổ ở đời. Và
như một mối cơ duyên, chị kết hợp ý tưởng của mình, của người thành những
truyện ngắn” đầy chất suy tưởng. Chị biết lắng nghe những câu chuyện quanh
mình, để viết lên những câu chuyện cuộc đời. Bởi vậy những câu chuyện mà chị
kể rất gần gũi, thân thuộc, dễ đọc, dễ cảm. Độc giả sẽ cảm nhận được đâu đó
trong câu chuyện mà chị kể có bóng dáng của bản thân mình [14].
Quan trọng hơn, cái đích mà Trần Thùy Mai hướng đến trong những
sáng tác của mình là vì độc giả. Chị hi vọng đọc truyện ngắn của mình người
đọc sẽ thấu được những ý nghĩ, tư tưởng được gửi gắm trong tác phẩm, để từ
đó có cái nhìn khác về cuộc đời. Họ sẽ nhìn lại lối sống của mình để mà thay
đổi theo chiều hướng tích cực, sống đẹp, sống có ý nghĩa hơn. Viết văn đối với

chị là “một cách để yêu thương chính mình và những người xung quanh” [14].
Đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam “xôn xao” bởi sự
xuất hiện của nhiều cây bút nữ, đặc biệt là ở lĩnh vực truyện ngắn, trong đó có
16


Trần Thùy Mai. Cùng với những tác giả khác cùng thời như Võ Thị Xuân Hà,
Trần Thanh Hà, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai đã làm nóng văn đàn với
hàng loạt những truyện ngắn nhẹ nhàng mà đầy sâu lắng.
Như vậy, bằng trái tim và lòng nhiệt huyết, truyện ngắn của Trần Thùy
Mai đã tìm được chỗ đứng trong lòng độc giả. Người đọc tìm đến truyện của
chị bởi sự nhẹ nhàng, lặng lẽ, tinh tế, sâu sắc trong từng trang văn. Sự nghiệp
văn chương của Trần Thùy Mai có lẽ vẫn còn dài rộng ở phía trước. Chị sẽ
vẫn tiếp tục cống hiến, khẳng định phong cách của mình trên tiến trình phát
triển của văn xuôi đương đại.

17


CHƯƠNG 2
CÁC PHƯƠNG DIỆN BIỂU HIỆN CHẤT THƠ
TRONG TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI
2.1. Đề tài tình yêu và hạnh phúc
“Đề tài của tác phẩm là một phương diện nội dung của tác phẩm, là đối
tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn và tư duy của nhà văn. Đó là sự
khái quát phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được phản ánh trong tác phẩm.
Đề tài (là cái được nói tới) là sự thống nhất về ý nghĩa của các yếu tố của tác
phẩm. Cũng có thể hiểu đề tài như một quan hệ ý nghĩa, một loại trọng tâm
chi phối ý nghĩa của ngôn từ” [9, 192 – 193]. Thực chất của đề tài là một khái
niệm về loại hình của hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu loại

hiện tượng đời sống, có bấy nhiêu đề tài” [9, 194]. Hiểu như vậy, đề tài đóng
vai trò rất quan trọng trong tác phẩm văn học. Người nghệ sĩ khi đặt bút sáng
tác, họ phải suy nghĩ rất nhiều khi lựa chọn đề tài để viết. Có không ít những
đề tài để người nghệ sĩ có thể sáng tác văn học như: đề tài chính trị, đề tài
thiên nhiên, tôn giáo, tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc gia đình… Nhưng không
phải ở đề tài nào người nghệ sĩ cũng thành công khi sáng tác. Cùng viết về
một đề tài, tác giả này lại ghi được dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả, nhưng
ở tác giác khác chỉ là những dấu ấn thoáng qua.
Một tác phẩm nghệ thuật thực sự có giá trị, thu hút được sự chú ý của
độc giả hay không phụ thuộc rất nhiều về đề tài mà tác giả đó lựa chọn và
cách thể hiện nó trên những trang giấy. Văn xuôi sau năm 1975 vẫn quan tâm
đến những chuyện lớn của đất nước, của xã hội, song thường quan tâm nhiều
hơn những góc khuất của cuộc sống, từ những thân phận bé nhỏ. Đã có một
chiến tranh mang khuôn mặt nữ giới trong những sáng tác của Dạ Ngân, Võ
Thị Hảo, Trần Thanh Hà…Đã có những câu chuyện lịch sử được phản ánh
dưới con mắt của nữ giới, tiêu biểu là những câu chuyện lịch sử được viết
18


dưới ngòi bút của Trần Thị Trường. Cũng đã có vô vàn những tiếng nói phẫn
nộ, bức xúc trước những tiêu cực, tha hóa của xã hội thời hậu chiến trong các
sáng tác của Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh…Khác với họ, Trần Thùy
Mai lại tập trung chủ yếu vào đề tài tình yêu và hạnh phúc. Tình yêu trong
truyện ngắn của Trần Thùy Mai là động lực của sự sống, là một biểu hiện tối
ưu của tính nhân văn, “là đôi cánh giúp con người vượt qua biên giới của
chính mình” [14].
Đề tài tình yêu và hạnh phúc được thể hiện rất rõ trong truyện ngắn Gió
thiên đường, Miễn tội, Thương nhớ hoàng lan... Gió thiên đường viết về câu
chuyện tình yêu giữa những thanh niên trẻ là Hiếu và Mi ở lớp học khiêu vũ.
Tình yêu khiến cho Mi cảm nhận được đủ vị ngọt ngào lẫn đắng cay. Những

giây phút ngọt ngào, hạnh phúc là những lúc Mi hẹn hò cùng Hiếu trong đêm
giáng sinh, những buổi đi cà phê Dã Thảo. Nhưng đằng sau những phút giây
hạnh phúc ấy, là nỗi cay đắng mà Mi phải chịu đựng khi cô phát hiện ra Hiếu
lừa dối tình cảm của cô. Trước khi quen Mi, Hiếu đã quen với một cô gái khác,
“sữa ngọt không làm giảm nổi vị đắng”. Nhưng cho đến cuối cùng thì Mi vẫn
tin vào tình yêu, bởi với Mi, tình yêu là lẽ sống: “Tôi tin Hiếu. Bởi chỉ có lòng
tin mới giúp tôi sống… Cuộc đời như dòng sông, ai nói trước được nó sẽ qua
những ghềnh thác nào. Nhưng hôm nay, dòng sông đang trôi qua những bờ cỏ
mịn màng, đang in bóng trời xanh mây trắng. Lẽ nào sợ thác ghềnh mà sống
không dám chảy?” [5, 181]. Tình yêu khiến cho Mi trưởng thành hơn: “Và tôi
chợt hiểu, mình đã lớn. Đã trở thành một ai đó khác mình năm xưa. Đã biết thế
nào là yêu thương và chịu đựng” [5,182]. Và cũng vì trưởng thành nên Mi mới
có thể hiểu được câu nói đầy triết lí của ba mình: “Trong tình yêu hạnh phúc
thật ngọt ngào, mà khổ đau cũng đầy thi vị. Chỉ có sự trống rỗng, chán chường
của kẻ không yêu mới thật sự là khủng khiếp” [5,183].
Tình yêu, hạnh phúc dường như trở thành giấc mơ, hoài niệm. Dù cuộc
sống có biến thiên, lòng người có thay đổi, thì con người vẫn cứ yêu. Hơ
19


Thuyền trong Thuyền trên núi đã ôm trong mình mối tình đơn phương với Y
Đông, người thầy giáo từ miền xuôi lên miền ngược dạy học. Hai năm, ngày
nào Hơ Thuyền cũng lên núi chờ thầy giáo, cô chờ đợi trong mỏi mòn, cuối
cùng chọn cái chết để giải thoát. Cái chết của nàng vẫn ám ảnh theo lời hứa
của thầy giáo: “Yên tâm đi, rồi sẽ có dịp anh dẫn em về nhìn sóng biển Quy
Nhơn.” “Khi chết, mắt nó cứ mở, nhìn về phía Quy Nhơn”. Cái chết của Hơ
Thuyền là cái chết của thể xác để linh hồn được sống, được yêu [5, 76].
Tình yêu giúp cho con người vượt qua những rào cản, khó khăn,
những nỗi lo toan trong cuộc sống hằng ngày. “Trong một chừng mực nào đó
thì tình yêu có thể làm cho người ta tạm thời quên đi cái đói” [6,138]. Chẳng

thế mà, những năm sau bảy lăm, lương thực thiếu thốn, nhà bếp của trường
chỉ nấu một ngày hai bữa, mỗi bữa chỉ có hai bát cơm độn mì, một lát thịt
hoặc một con cá nhỏ bằng hai ngón tay và một bát canh chỉ có rau và nước,
vậy mà nhân vật tôi trong truyện ngắn Miễn tội, có hôm đạp xe qua tận làng
hoa Ngọc Hà tìm hoa quỳnh tặng cô bé Hạnh.
Thương nhớ hoàng lan là câu chuyện tình yêu ngang trái, đầy xót xa
giữa một cô gái tên Lan và một chú tiểu tên Đăng Minh. Lan yêu Minh say
đắm, chỉ trách họ có duyên mà chẳng có phận, vì thế đến cuối cùng cô cũng
phải từ giã tình yêu của mình bằng những dòng thư cuối đầy day dứt: “Bốn
trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc.
Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên
lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong
cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra
đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan… Người ta cứ
bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú
tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một
người mình không thương, đến một nơi xa lạ thì với em còn khổ hơn là chết.
Xin hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi…”. Tình yêu
20


×