Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Thương Mại trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.99 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------

BÀI THẢO LUẬN
Môn học : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 2:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội
dung học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại
học Thương Mại trong giai đoạn hiện nay.

Giáo viên hướng dẫn: Ngô Thị Minh Nguyệt
Nhóm thực hiện : 07
Lớp HP : 1968HCMI0111

HÀ NỘI 2019

1


BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ THẢO LUẬN

ST
T

Họ và tên

Nội dung
công việc


61

Thuyết trình,
phần 1.1; 1.2.2d,
chương 2, tổng
hợp word

62

Thuyết trình,làm
các biên bản,
1.2.2c, chương 2.

63

1.2.1b, chương 2

64

1.2.2a, chương 2

65

1.2.2b, chương 2

66

1.2.3b, chương 2

67


1.2.3a, chương 2,
làm slide

68

1.2.1a, chương 2

69

Khái quát, chương
2

70

1.2.3c, chương 2

Ý thức tham gia
thảo luận

2


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Lần 1)
I.Thành viên tham gia

II.Mục đích cuộc họp
Mọi người đóng góp ý kiến cho việc triển khai 2 đề tài thảo luận
Thống nhất dàn ý triển khai: chia nhỏ nhiệm vụ cho từng cá
nhân và phần vận dụng của sinh viên cả nhóm cùng nhau góp ý
tưởng
 Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ thuyết trình, làm slide và
phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên
III.Nội dung công việc
1.Thời gian : từ 14h30 phút đến 16h ngày 15/10/2019.
2. Địa điểm : Canteen Đại học Thương Mại.
3.Các thành viên tham gia đóng góp ý tưởng cho đề tài từ sự
chuẩn bị trước ở nhà.
4.Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ tới từng cá nhân.
=> Nhóm trưởng yêu cầu các thành viên làm bài nghiêm túc để
hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất và hoàn thành trước 21h
ngày 21/10/2019.



IV. Đánh giá chung
Buổi họp diễn ra sôi nổi,mọi người tham gia đóng góp ý kiến nhiệt
tình. Tất cả đều đồng ý với nhiệm vụ được giao và chịu trách
nhiệm hoàn thành trước thời hạn.
Nhóm trưởng
(Ký, ghi rõ họ tên)

Hà Nội,ngày 15 tháng 10 năm
2019
Thư kí
(Ký, ghi rõ họ tên)


3


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Lần 2)
I. Thành viên tham gia
II.Mục đích cuộc họp
- Tổng hợp lại sản phẩm của nhóm sau khi từng cá nhân đã hoàn
thành.
- Mọi người tham gia ý kiến và đóng góp để đưa ra sản phẩm
hoàn thiện cuối cùng.
III.Nội dung công việc
1.Thời gian: từ 16h00 phút đến 17h30 ngày 5/11/2019.
2. Địa điểm: Sân nhà CD.
3.Các thành viên tổng kết lại sản phẩm và đưa ra phần tổng hợp
để thống nhất các điểm tích cực, tiêu cực của sinh viên Đại học
Thương mại
4. Cả nhóm góp ý về nội dung lí thuyết
5.Cả nhóm thống nhất trước khi nhóm trưởng và thư ký đi in bài.
IV. Đánh giá chung.
Buổi họp diễn ra sôi nổi. Mọi người tích cực tham gia đóng góp ý
kiến và đã thống nhất được sản phẩm cuối cùng để trình bày
trước lớp.

Nhóm trưởng

(ký, ghi rõ họ tên)

Hà Nội,ngày 3 tháng 11 năm
2019
Thư kí
(ký, ghi rõ họ tên)

4


MỤC LỤC
A.

Mở đầu...................................................................................................................................................6

B.

Nội dung.................................................................................................................................................7

CHƯƠNG 1 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC................................................................................7
1.1.

Cơ sở hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức.........................................................7

1.1.1.

Quan điểm đạo đức của dân tộc.........................................................................................7

1.1.2.


Quan điểm đạo đức của thế giới.........................................................................................7

1.1.3.

Quan điểm đạo đức của Mác -Lênin...................................................................................8

1.2.

Nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức...........................................................................8

1.2.1.

Quan điểm về vai trò và sức mạnh đạo đức.......................................................................8

a)

Đạo đức là cái gốc của người cách mạng...................................................................................8

b)

Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của Chủ nghĩa xã hội................................................9

1.2.2.

Quan điểm về những chuẩn mực của đạo đức cách mạng...............................................9

a)

Trung với nước, hiếu với dân.......................................................................................................9


b)

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.........................................................................................9

c)

Thương yêu con người, sống có tình nghĩa..............................................................................11

d)

Có tinh thần quốc tế trong sáng................................................................................................12

1.2.3.

Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới...............................................13

a)

Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức......................................................................13

b)

Xây đi đôi với chống...................................................................................................................13

c)

Phải tu dưỡng về đạo đức suốt đời..........................................................................................14

CHƯƠNG 2: SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CỦA
HỒ CHÍ MINH...............................................................................................................................................14


C.

2.1.

Thực trạng chung........................................................................................................................14

2.2.

Sinh viên Thương mại học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh.........................................16
Kết luận............................................................................................................................................17

5


A. Mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về
thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và
tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong
những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
cách mạng.
Người chỉ rõ việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống
hàng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao
giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó
khăn, thử thách. Người viết: "có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp
thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất

phát, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công
thuần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa".
Thời gian và không gian đã thay đổi, gần nửa thế kỷ đã trôi qua
nhưng những lời căn dặn của Người mãi mãi như là ánh hào quang soi
sáng đường chúng ta đi, luôn luôn nhắc nhở chúng ta trong quá trình
hoàn thành nhiệm vụ của mình đối với dân, với nước dù ở bất kỳ tình
huống và hoàn cảnh nào.

6


B.

Nội dung

CHƯƠNG 1 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC
1.1.
đạo đức

Cơ sở hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam, đồng thời kế thừa những tư tưởng đạo đức
phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại và đặc biệt quan
trọng là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin.

1.1.1. Quan điểm đạo đức của dân tộc
Đạo đức truyền thống Việt Nam được hình thành trong suốt quá

trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trước tiên, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để
dựng nước và giữ nước, đây chính là truyền thống đạo đức quý báu
nhất, nguồn gốc sức mạnh xuyên suốt lịch sử dân tộc. Thứ hai, đó là
tinh thần nhân nghĩa, đề cao đạo lý làm người, khuyên con người sống
có tình, có nghĩa, nhân đức, thủy chung vẹn tròn chữ Trung, chữ Hiếu.
Thứ ba, đó là hành vi ứng xử nhân ái trong gia đình và xã hội,
truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách” trong
hoạn nạn khó khăn. Nhiễu điều phủ lấy giá gươngNgười trong một nước
phải thương nhau cùng”.
Thứ tư, là truyền thống cần cù, dũng cảm, sáng tạo trong sản xuất
và chiến đấu, đồng thời ham học hỏi và luôn biết mở rộng cửa đón nhận
tinh hoa văn hóa nhân loại

1.1.2. Quan điểm đạo đức của thế giới
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong
những phạm trù quan trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo
có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng
trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con
đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và
từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng
để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là
đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người
Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
 Đạo Khổng Tử
7



Đạo đức Khổng Tử thấm vào tư tưởng, tình cảm Hồ Chí Minh không
phải là điều “tam cương”, “ngũ thường” mà là tinh thần nhân nghĩa, đạo
tu thân, sự ham học hỏi, đức tính khiêm tốn, ôn hòa, cách xử thế có tình
có lý.
 Đạo Phật
Phật giáo là duy tâm, nhưng Người cũng chỉ ra nhiều điều hay
trong đạo đức Phật giáo mà nó đã đi vào tư duy, hành động, cách ứng
xử của người Việt Nam như tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu
nạn, thương người như thể thương thân.

1.1.3. Quan điểm đạo đức của Mác -Lênin
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ
quan, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người.
Những quan hệ người – người, cá nhân xã hội càng có ý thức, tự giác, ý
nghĩa và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt
động của con người càng có đạo đức. Đạo đức “đã là một sản phẩm xã
hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” (Mác,
Ăngghen )
Theo quan điểm của Mác – Lênin, đạo đức cách mạng có những đặc
trưng cơ bản sau:
 Đạo đức cách mạng là sự phù hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
chung.
 Đó là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng của giai
cấp vô sản và không ngừng vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
cuộc cách mạng đó.
 Đó là thực hành chủ nghĩa tập thể, đoàn kết, gắn bó mật thiết
với nhân dân.
 Là lao động trung thực và tận tâm vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản.

 Đạo đức cách mạng là đấu tranh không mệt mỏi cho tinh thần
nhân đạo và chủ 4 nghĩa nhân đạo cộng sản

1.1.2.
đạo đức
đức

1.1.1.

Nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về
Quan điểm về vai trò và sức mạnh đạo

Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả
cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức hành
động vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

8


a) Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề đạo đức cách
mạng. Chính vì vậy, Người luôn quan tâm xây dựng và rèn luyện đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Tư tưởng về đạo đức của Hồ Chí Minh rất đa dạng, sâu sắc; có giá trị cả
về lý luận và thực tiễn, cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, giai đoạn hiện nay và mai sau. Thống kê trong di sản Hồ Chí
Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Đó là
tài sản vô giá của dân tộc ta.

Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Bác đã
khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người,
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.
Bác nói : Với người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Còn với cán
bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ viết lên
trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến, quần chúng chỉ yêu mến
những người có tư cách đạo đức và “Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho con người là một công việc to tát, mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì?”.
Hồ chí minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Bác luôn
đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành
động và hiệu quả trên thực tế. Nên Bác nhấn mạnh đạo đức của người
cán bộ Đảng viên phải tận trung với nước và tận hiếu với dân
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi sáng trong cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

b) Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của Chủ
nghĩa xã hội
Đạo đức cách mạng còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn cuả CNXH.
Sự hấp dẫn đó được thể hiện qua đạo đức, lý tưởng cách mạng, nhân
cách, lối sống gương mẫu của người cán bộ đảng viên. Chính tấm gương
đạo đức cách mạng, nhân cách, lý tưởng cao đẹp, lối sống giản dị, gần
gũi với nhân dân lao động đã tạo nên sức hấp dẫn của chế độ CNXH
được nhân dân ta và nhân dân thế giới tin theo, ca ngợi, là nguồn cổ vũ,
động viên cho toàn thể dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới trong
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.


1.1.1.2.2. Quan điểm về những chuẩn mực của đạo
đức cách mạng
a) Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các
phẩm chất khác.
9


Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với
vua, hiếu với cha mẹ, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối
với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới đạo đức
cách mạng: Trung với nước hiếu với dân, đồng thời người đã loại bỏ đi
những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ. Đó là một cuộc cách mạng trong
quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó
của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị đạo
đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách
mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không chỉ đã
kế thừa được những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của
dân tộc mà còn vượt qua được hạn chế của truyền thống đó. Trung với
nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là
nước của nhân dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Hồ Chí Minh
luôn xác định ''bao nhiêu quyền hạn đều của dân'', ''bao nhiêu lợi ích
đều vì dân''. Đảng và Chính phủ là '' đầy tớ của nhân dân'', chứ không
phải là ''quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân''. Như vậy, quan
niệm về nước và dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so

với trước. Điều này đã làm cho Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa
lên phía trước.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối
trung thàmh với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng
đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là
đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân
tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và
trách nhiệm của người chủ đất nước.

b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính cũng là phẩm chất của đạo đức truyền
thống, nhưng được Bác Hồ đưa vào những nội dung theo yêu cầu mới,
khác cơ bản về đối tượng thực hiện. Trong chế độ phong kiến cũng nêu
những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, nhưng họ bắt nhân dân thực
hiện để phục vụ cho quyền lợi của họ, chứ giai cấp phong kiến không
bao giờ thực hiện. Còn đối với Bác Hồ, đề ra cần, kiệm, liêm, chính là bắt
buộc cán bộ, đảng viên phải làm gương thực hiện để nhân dân noi theo,
đem lợi ích cho dân, cho nước.
Người đã coi “tứ đức” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của
Thi đua ái quốc và luận giải “tứ đức” trong tổng thể của trời, đất, con
người và mối quan hệ của mùa trời; của phương đất; của đức người.
Giản dị mà khúc chiết, Người khẳng định:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
10


Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời

Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”
Theo Hồ Chí Minh thì:
CẦN tức “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc
gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi “Cần chẳng những có
nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà còn “có nghĩa
rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần” Hiểu đúng về
Cần nghĩa là luôn chăm chỉ, cố gắng không phải một sớm một chiều mà
thường xuyên và liên tục. Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng có nghĩa là làm
để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu dài, để
đạt được mục đích đề ra
KIỆM tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền
của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến
cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang
phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè
chén lu bù.
Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì
“KIỆM mà không CẦN thì không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm
về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết,
còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại
được”
Sự tiết kiệm của Bác còn thể hiện trong việc sử dụng đội ngũ cán
bộ. Là Chủ tịch Chủ tịch nước, nhưng những năm tháng sống trên chiến
khu Việt Bắc, đi theo Bác chỉ là tổ công tác ít người kiêm nhiều việc.
Cách mạng Tháng Tám thành công, trở về Thủ đô, các đồng chí phục vụ
Bác ở Phủ Chủ tịch cũng rất ít. Những lần đi công tác xa, không cần
nhiều cán bộ cùng đi, Bác cho những anh em còn lại về thăm gia đình.
Bác dặn “Các chú tranh thủ về thăm nhà, nhưng nhớ đúng hẹn lên đón
Bác”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của Bác đối với con người và cũng
là một hình thức tiết kiệm thời gian.

LIÊM tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân";
"không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân".
Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham
tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì
vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”
Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi
với chữ CẦN, vì “có KIỆM mới LIÊM được.
CHÍNH, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình:
không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm
điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

11


Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người
dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không
dối trá, lừa lọc.
CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc
rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần,
Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toà
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, có
quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiên. Đặc biệt, với một
quốc gia nó chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh
thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ.
Trước cảnh dân đói năm 1945, Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả
nước nhường cơm, sẻ áo cho nhau: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như
vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa
năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”. Bác đã gương mẫu nhịn ăn vào tối Thứ

7, tự tay bỏ gạo vào hũ cứu đói dân nghèo. Chiếc áo lụa đồng bào tặng,
Bác cũng đem bán lấy tiền mua áo ấm tặng cho chiến sỹ trong mùa
đông giá rét. Số tiền tiết kiệm ít ỏi là tiền nhuận bút các báo gửi cho
Bác, Bác cũng đem m a nước ngọt tặng cho các chiến sỹ trực phòng
không trong những ngày hè nóng bức. Bác thường nói: “Nhân dân còn
đói khổ, tôi ăn ngon sao được, nhân dân còn rách rưới mình mặc thế
này cũng là đầy đủ lắm rồi”.
Chính phủ và Hồ Chủ tịch có sức cảm hoá lớn, cho nên trong lúc
cách mạng mới thành công, ngân khố chỉ còn vẻn vẹn 1 triệu 20 vạn
đồng Đông Dương, nhờ cuộc vận động “Tuần lễ vàng” từ ngày 17 đến
ngày 24 tháng 9 năm 1945 mà giới công thương và toàn dân đã góp cho
Chính phủ 370 kg vàng và 20 triệu đồng Đông Dương để kiến thiết quốc
gia và chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến...
Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị;
làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc.
Chí công vô tư còn là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá
nhân. Chủ nghĩa cá nhân “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo
dỗ dành người ta đi xuống dốc” .Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội
không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Bác nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”, “Khi
làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”, “Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người giải
thích “...Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có
dịp đục khoét, có dịp là ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Phẩm chất
đạo đức sáng ngời này của Người, thể hiện qua những việc làm cụ thể.
Đó là Bác đã gác lại tình nhà, tình quê để lo việc Nước. Và sau 50 xa
cách, Bác đã chọn ngày Chủ Nhật để về thăm quê.

12



c) Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Quan niệm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lòng yêu
thương con người rất toàn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ Chí Minh đã xác
định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất cao đẹp
nhất. Người luôn luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người
cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Bác viết: tôi chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Ở Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí của Người rất
bao la, rộng lớn và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai,
gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân
ái của Người. Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện
tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt, đối với những
người phạm sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con người đều có
thiện và ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng.
Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ
quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái
phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải
đập cho tơi bời. Chính vì vậy, trong Di chúc để lại cho muôn đời sau,
Người căn dặn Đảng: “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, mỗi
cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người

 Câu chuyện cảm hoá Tạ Đình Đề - kẻ ám sát trở thành người bảo
vệ cho Bác
Người ta kể rằng, Tạ Đình Đề là tình báo địch, từng nhận nhiệm vụ

theo dõi bác Hồ. Vào một bữa trưa, Bác Hồ nói với cần vụ lấy thêm bát
đũa rồi nói to: “Xin mời anh Tạ Đình Đề vào ăn cơm trưa với tôi”. Biết đã
bị lộ, một thanh niên nhảy vọt ra đứng ngay trước mặt Bác Hồ. Các
chiến sĩ bảo vệ thủ thế, sẵn sàng đối phó để bảo vệ Bác nhưng Bác
khoát tay rồi mỉm cười thân thiện với vị khách đặc biệt: “Trông chú dạo
này già dặn hơn trước nhiều song có phần gầy và đen hơn lúc mới ra
trường. Chắc chú vất vả lắm?”… Nhìn ánh mắt nhân từ, bao dung của
Bác, vị khách lễ phép đáp: “Thưa Bác, trước hết cháu xin bày tỏ lòng
khâm phục của cháu đối với Bác… Cháu xin hứa chấm dứt công việc
của địch giao cho và xin phục tùng dưới sự điều hành, sai bảo của Bác”.
Từ đó Tạ Đình Đề trở thành cận vệ thân tín của Bác Hồ. Và nhiều lần ông
đã chứng tỏ tài năng xuất chúng của mình với tài nghệ bắn súng “bách
phát bách trúng” giúp Bác thoát khỏi nanh vuốt của giặc ám sát

d)

Có tinh thần quốc tế trong sáng

Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất
của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô
13


sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều
là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân
dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt
động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách
mạng của cả dân tộc..
Điểm mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người đã
chứng minh được bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các

nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản
chính quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi".
Một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp
vô sản ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi,
nếu chỉ cắt một vòi thì vòi còn lại tiếp tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục
mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản, đánh đổ chúng là
nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ
đó đòi hỏi phải đoàn kết cả hai lực lượng nói trên.
Trong thời gian ở nước ngoài Người đã tham gia tích cực phong
trào cách mạng của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước
xây dựng nhiều tổ chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông (1925)... là nhà cách mạng
hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế III, các Quốc tế
Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ... thường xuyên mở rộng với nhiều chính
khách, các nhà hoạt động xã hội... Tất cả hoạt động nói trên của Người
đều hướng vào mục tiêu tăng cường thêm bạn bè, đồng chí cho cách
mạng Việt Nam.
Cuộc hành trình tìm đường cứu nước qua khắp các nước Á, Âu, Phi,
Mỹ đã tạo cho Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách nhìn mới về thế giới, về
mối liên hệ giữa Việt Nam và thế giới. Người đã vượt qua tầm nhìn hạn
hẹp của các nhà yêu nước tiền bối để hướng ra bên ngoài, gắn kết giữa
sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc với công cuộc cách mạng của
toàn thể các dân tộc đang bị áp bức, tạo quan hệ quốc tế mới : đối thoại
thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân
loại.

1.1.1.2.3.
đạo đức mới

Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng


a) Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng
bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Bản thân Hồ Chí Minh là
tấm gương trong sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm . Nó là bản chất
của tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng Người đã
nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần
chúng của một số cán bộ, đảng viên.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại
hiệu quả thiết thực cho chính bản thân và có tác dụng đối với người
khác. Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa, nói một đằng,
14


làm một nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng mà thôi. Nói mà
không làm gọi là đạo đức giả
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hoá
phương Đông . Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo
đức.Hồ Chí Minh đã có lần chỉ rõ : “ Nói chung thì cá dân tộc phương
Đông đều dành tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá
tri hơn một tram bài diễn văn tuyên truyền”.
Nêu gương về đạo đức phải diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Trong gia
đình, đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các
em, của ông bà đối với con cháu; trong nhà trường, đó là tấm gương của
thầy cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể là tấm gương của
người lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội là tấm gương
của người này đối với người kia, của thế hệ trước đối với thế hệ sau.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả
dân tộc, cho các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương
của các vị anh hùng, chiến sỹ thi đua nhứng tấm gương của những

người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những tấm gương “Người tốt
việc tốt” rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta
không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: “Người tốt,
việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào,
lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một
cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành
hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã hội.

b) Xây đi đôi với chống

Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo
đức, phi đạo đức luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây
dựng đạo đức mới, vừa phải chống cái phi đạo đức.
Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng
cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, chống chủ nghĩa
cá nhân, cửa quyền, hách dịch.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy
Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa
cá nhân nâng cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh
thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật”.
Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng,
đạo đức mới chỉ có thể thành công trên cơ sở kiên trì chống chủ nghĩa
đế quốc, chống thói quen lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân . Điều
quan trọng là phải tuyên truyền vận động hình thành phong trào quần
chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sách về đạo đức..
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền
chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.


15


Chống và xử lý nghiêm là nhằm xây, đi liền với xây và muốn xây thì
phải chống. Mục đích cuối cùng là xây dựng con người có đạo đức và
nền đạo đức mới Việt Nam. Vì vậy, phải xác định đây là nhiệm vụ chủ
yếu và lâu dài.

c) Phải tu dưỡng về đạo đức suốt đời

Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường xuyên
chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công
việc phải kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự
mãn. Theo Người: Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó
do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Nếu không
thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với
cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở
thành con người ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì
lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc
mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới phân biệt được đạo đức mới
khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt,
cái xấu vấn đề là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ
cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy
việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Hồ Chí Minh là một tấm gương suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm
gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu của người
không phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học
tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở

thành tư tưởng bất tử.
Cho nên, xây dựng, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và
chống chủ nghĩa cá nhân là phải được tiến hành đồng thời, thường
xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá trình hoạt động cách mạng.

CHƯƠNG 2: SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CỦA HỒ CHÍ MINH
Khi nhắc đến hai chữ “Sinh viên’’ mọi người đều biết đó là tầng lớp
tri thức cao của mỗi quốc gia – là tương lai của đất nước là những người
quyết định sự phồn thịnh của dân tộc vì chính họ là những “ mùa xuân
của xã hội” .

2.1.

Thực trạng chung

Sinh viên Thương Mai hiện nay năng động, thực tế hơn, tự chủ, bộc
lộ rõ cá tính, quan niệm đạo đức của sinh viên hiện nay ít bị ràng buộc
bởi dư luận hơn so với các thế hệ sinh viên trước. Sinh viên Thương mại
dần tự do nêu ra quan điểm, suy nghĩ, bày tỏ cá tính bản thân, thể hiện
cái “tôi” bản thân hơn trước
16


a) Tích cực
 Sinh viên Thương mại được đánh giá năng động và sáng tạo.
Nhiều ý tưởng, sản phẩm nghiên cứu khoa học,... của sinh viên nỗ lực
nghiên cứu và đã giành được nhiều giải thưởng danh giá trong các cuộc
thi.
 Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt Nam còn

tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa,
nghệ thuật… Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích
cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện…Ngoài giờ học,
những sinh viên-tuyên truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi
lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà… Điều đó phản
ánh sự kế tiếp truyền thống Lá lành đùm lá rách của thanh niên và sinh
viên ngày nay. Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin,
kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và phát triển của xã
hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh
viên Đại học Thương mại
 Sinh viên Thương Mại cũng tích cực hơn trong việc học tập tiếng
nước ngoài và những ngành nghề hiện đại như tin học, điện tử, quản lý
doanh nghiệp . Một phần lớn sinh viên ngoài giờ học tập đã cố gắng tìm
một số việc làm thêm như gia sư, bán hàng... để tăng thêm thu nhập.
Điều đó chứng tỏ rằng thanh niên ngày nay đã nhận thức đúng đắn Lao
động là vinh quang Họ đã có sự tự lập, trởng thành, vừa chứng tỏ bản
lĩnh giỏi giang linh hoạt của sinh viên
b) Tiêu cực
 Trong thi cử, 1 phần sinh viên Thương Mại bước vào thi đều
mang tư tưởng dùng tài liệu để sao chép, quay cóp, trao đổi kèm theo
đó là những kiểu cách sử dụng tài liệu tinh vi, cán bộ coi thi rất khó
giám sát .Hiện tượng lừa dối thầy cô trong thi cử cũng không ít . Những
biểu hiện tiêu cực như vậy của thanh niên, sinh viên tất yếu dẫn đến kết
quả của học tập không hoàn toàn phản ánh đúng thực chất học tập của
họ chính điều này đã che dấu đi hiện tợng tiêu cực của sinh viên trong
học tập . Nó hình thành trong tư tưởng sinh viên sự ỷ lại trông chờ, kèm
theo đó những hoạt động thiếu nhân cách đạo đức.
 Ngoài ra, hiện nay ngày càng đông sinh viên Thương mại nói
chung và sinh viên Việt Nam nói riêng chưa có thái độ nhận thức đúng
đắn đối với việc học tập. Nhiều sinh viên chưa tìm được phương pháp

học phù hợp, không thực sự hứng thú với việc học tập . Sinh viên bộc lộ
phong cách thụ động, ngại nêu lên thắc mắc và ý kiến của mình để
đóng góp vào việc học tập trên lớp mà chỉ thích giảng viên cho nghe.
Mặc dù trong các cuộc chơi nhậu nhẹt số đông trong họ là người tiên
phong, sôi nổi, chơi hết mình.
 Việc chấp hành đúng nội quy của nhà trường cũng là vấn đề vô
cùng quan trọng; hiện tượng đi học muộn chẳng còn là điều xa lạ, hay
tình trạng học hộ, thi hộ là điều rất phổ biến đối với sinh viên. Đã là hiện
tượng có nghĩa là xảy ra rất nhiều lần, dần dần trở thành thói quen xấu
17


trong cả một cộng đồng, làm ảnh hưởng trước tiên chính bản thân các
bạn sinh viên; kiến thức không được đảm bảo, kết quả học tập không
được như ý muốn, làm tốn tiền tốn thời gian của chính các bạn. Thể hiện
là nhiều sinh viên đi học với tư tưởng cho có, trên lớp không chú ý nghe
giảng, bỏ học, trốn học, thuê người học hộ, thậm chí thi hộ, học chỉ để
cho qua môn mà không tiếp thu được thêm kiến thức gì mới ...Tình
trạng học hộ, thi hộ nếu bị phát hiện chắc chắn sẽ bị kỉ luật buộc thôi
học; bao sự cố gắng của bản thân, sự kì vọng của gia đình và thầy cô
đều tan biến...
 Bên cạnh sự thoải mái thể hiện quan điểm cá nhân nhiều hơn
trước thì một bộ phận sinh viên hiện nay có thái độ không tôn trọng giáo
viên, tôn trọng bài giảng của họ, nhất là đối với những giáo viên trẻ.
Sinh viên không còn thưa dạ bảo vâng, tiếp xúc với giáo viên không còn
dùng kính ngữ; đôi khi còn có thái độ ngỗ nghịch cãi lại lời giáo viên.
Không những vậy, có những sinh viên còn tỏ thái độ vô lễ với giảng viên,
làm ồn trong lớp, phát biểu linh tinh, huýt sáo... Do họ nghĩ mình đã lớn,
có thể bày tỏ ý kiến thoải mãi. Và họ đang dần quên đi chuẩn mực giá
trị đạo đức truyền thống “tôn sư trọng đạo” mà từ ngàn đời nay của

người Việt.
 Môi trường đại học Thương Mại rộng mở trên Hà Nội đã qui tụ rất
nhiều sinh viên từ nhiều vùng miền trên khắp Tổ quốc. Trong quá trình
học tập, giao lưu cùng nhau trên trường vẫn có sự phân biệt vùng miền ,
nhiều bạn sinh viên vẫn còn có sự xa lánh, khinh thường các sinh viên ở
miền trong như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Giang,...
 Cũng có không ít những sinh viên đã sử dụng thời gian nhàn rỗi
không hợp lý. Sinh viên ngày nay tiếp cận quá nhiều phương tiện truyền
thông hiện đại như điện thoại di động, internet... nên dễ bị tiêm nhiễm
những tư tưởng xấu. Một phần sinh viên đã vô hiệu hoá quỹ thời gian
quí báu để trau dồi kiến thức bằng những việc làm vô ích đó là : lướt
mạng xã hội quá nhiều, tụ tập chơi bời, nạn ngủ ngày, hay ham mê trò
chơi trong thế giới ảo, ...

2.2.
Sinh viên Thương mại học tập và làm theo đạo
đức Hồ Chí Minh

Sinh viên Thương mại cần đẩy mạnh việc trau dồi những phẩm chất
đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở những con người Việt Nam trong thời
đại mới: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công
vô tư; Lòng yêu thương con người; Tinh thần quốc tế trong sáng... Cần
cố gắng nhiều hơn nữa, nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với niềm tin yêu
của Bác, và học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là
cách giúp sinh viên hoàn thiện bản thân mình.

18


 Sinh viên học theo tấm gương Bác cần thể hiện cụ thể trên hai

mặt là học tập và tu dưỡng đạo đức. Trước hết, sinh viên cần phải học
tập tốt, đây là nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta. Học tốt để có kiến thức,
có khả năng tác nghiệp, khẳng định được bản thân mình và cống hiến
được cho đất nước, cho xã hội. Hai là sinh viên nên trau dồi đạo đức,
sống đẹp, sống lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội, có kiến thức xã
hội, có văn hoá. Hai điều này bổ trợ cho nhau để hình thành nên một
nhân cách một con người.
 Việc học tập Bác không ở đâu xa mà thể hiện ở ngày những
hành động cụ thể, những việc tốt trong cuộc sống: như sinh viên trước
khi tan học thì tắt điện, giữ vệ sinh, bảo vệ của công, không đi học
muộn, chăm chỉ học tập, không gian lận trong thi cử, nói không với các
tệ nạn xã hội. Như thế thì mỗi sinh viên sẽ dễ hình dung mình cần phải
làm gì và như thế nào, và chắc chắn phong trào sẽ đi vào chiều sâu và
có hiệu quả hơn. Đồng thời, mỗi người khi đã rèn cho mình lối sống đạo
đức, thì mình thử soi xem đã làm được bao nhiêu phần trăm, tự đánh
giá, từ đó giúp đỡ những người xung quanh, những người còn chưa làm
tốt.
 Là sinh viên của một trường Đại học thì nhiệm vụ của một người
sinh viên là tích cực học tập nâng cao trình độ bản thân để sau này ra
trường trang bị được những kiến thức phục vụ cho bản thân và xã hội.
Không phải học để đối phó, học để lấy điểm mà cái chủ yếu là lấy kiến
thức cho mình, không được nhìn bài, không hiểu thì phải hỏi không giỏi
thì phải học. Sinh viên là thế hệ trẻ, thế hệ của đất nước câng phải cần
cù, như Bác đã nói” cần cù bù thông minh” nếu không cần cù thì là một
con người lười nhác, không làm được việc gì.
 Khi mà đang ngồi trên ghế nhà trường chưa có công việc, kéo
theo là bản thân chưa kiếm được tiền, vật chất, cuộc sống còn phụ
thuộc gia đình, sinh viên cần phải tiết kiệm, giành thời gian rãnh rỗi để
làm những việc có ích hơn như: giúp người neo đơn, hiến máu nhân đạo,
thanh niên tình nguyện… Chiến dịch Mùa hè xanh, Tết ấm, Sinh viên

tình nguyện,… chúng ta đã, đang và sẽ làm tốt hơn nữa. Hay, học tập
tốt cũng chính là nhiệm vụ của thanh niên sinh viên như lời dạy của Bác
Hồ.
 Sinh viên có thể tổ chức những buổi triển lãm, giới thiệu sách
tham khảo trên cơ sở huy động nguồn sách từ chính các bạn sinh viên,
rồi trao đổi với nhau. Cũ người mà mới ta. Đó cũng là cách khuyến khích
tính ham đọc sách và trao đổi thông tin khoa học, thông tin cuộc sống
giữa các bạn sinh viên. Hay tổ chức một buổi dạ hội mà mỗi người sẽ
đem đến một đồ vật, đồ dùng xinh xắn để trao đổi, tặng nhau – một
cách làm rất sinh viên, giúp tăng cường giao lưu và tạo những niềm vui
nho nhỏ cho bản thân và mọi người xung quanh.

19


C. Kết luận
"Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao".
Ở Hồ Chí Minh, đạo đức đã đạt tới một sự thống nhất chặt chẽ giữa
nói và làm, giữa đời công và đời tư, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức
đời thường. Do đó, Người đã trở thành biểu tượng của đạo đức, là tấm
gương sáng cho toàn thể dân tộc Việt Nam nói chúng và thế hệ sinh
viên nói riêng học tập và noi theo. Thế hệ sinh viên Đại học Thương Mại
ngày nay- những chủ nhân tương lại của đất nước, hơn lúc nào hết, khi
còn đang ngồi trong giảng đường, ngoài những kiến thức chuyên môn
cụ thể, sinh viên cũng cần phải rèn luyện, học hỏi những phẩm chất tốt
đẹp, trở thành những con người vừa có tài vừa có đức. Đặc biệt, trong
tình hình hiện nay, khi đất nước ta đang tiến hành hội nhập ra ngoài thế
giới, gặp rất nhiều khó khăn, thử thách cũng như những cơ hội mới. Vì
vậy những đòi hỏi, kỳ vọng của xã hội đối với thế hệ sinh viên cũng

ngày càng cao. Để có thể đáp ứng được những kỳ vọng đó, sinh viên
Thương Mại cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh

20



×